Tải bản đầy đủ (.doc) (97 trang)

Thực trạng thẩm định khách hàng trong tín dụng phục vụ xuất nhập khẩu tại VP bank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.93 KB, 97 trang )

LỜI NÓI ĐẦU

Trong những năm qua, kinh tế Việt Nam ngày càng tăng trưởng
và phát triển ổn định, vươn ra hội nhập cùng kinh tế khu vực và thế
giới. Hoạt động xuất nhập khẩu theo đó cũng phát triển mạnh và trở
thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế quốc dân.
Ngày càng nhận thức rõ tầm quan trọng của kinh doanh xuất
nhập khẩu trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế hiện nay, Chính
phủ và các cơ quan có thẩm quyền ngày càng có nhiều chính sách
khuyến khích và hỗ trợ hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, trong
đó có chính sách về tài chính - tiền tệ. Một trong những nhiệm vụ
quan trọng của các NHTM hiện nay là cấp tín dụng hỗ trợ doanh
nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, phát triển ngoại thương, tăng
cường các mối quan hệ, giao lưu hợp tác với các NH nước ngoài…
Tuy nhiên, tín dụng bản thân nó vốn tiềm ẩn nhiều rủi ro cho
NHTM. Tín dụng quốc tế lại càng có mức độ rủi ro cao và những
nảy sinh phức tạp nếu có rủi ro xảy ra. Bởi vậy, công tác thẩm định
khách hàng trong tín dụng xuất nhập khẩu trở thành vấn đề bức thiết
cần phải được đặt ra một cách nghiêm túc, xem xét cẩn thận để tìm
ra những mô hình phân tích tín dụng chặt chẽ, hợp lý và đảm bảo an
toàn, hiệu quả hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu.
Từ việc ý thức rõ tầm quan trọng của thẩm định khách hàng
trong tín dụng phục vụ xuất nhập khẩu trong bối cảnh hiện nay, nên
em chọn nghiên cứu đề tài này tại Ngân hàng cổ phần các doanh
nghiệp ngoài quốc doanh Việt Nam (VP Bank) - nơi em thực tập.
Mặc dù hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu tại VP Bank chỉ mới
phát triển, chưa thật sự là thế mạnh, chưa chiếm được thị phần trọng
yếu trong hệ thống NHTM Việt Nam, nhưng hiện nay VP Bank đã


cái nhìn thực sự nghiêm túc về vấn đề này- có cơ sở cho việc nâng


cao chất lượng thẩm định khách hàng.


Chuyên đề gồm ba phần:
Chương 1: Thẩm định khách hàng trong tín dụng phục vụ
xuất nhập khẩu
Chương 2: Thực trạng thẩm định khách hàng trong tín dụng
phục vụ xuất nhập khẩu tại VP Bank
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định khách
hàng trong tín dụng phục vụ xuất nhập khẩu tại VP Bank.
Em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Nguyễn Thị Bất đã chỉ bảo,
hướng dẫn tận tình giúp em hoàn thành Chuyên đề này. Sự hướng
dẫn của Cô là một phần quan trọng giúp em thực hiện Chuyên đề.
Mặc dù vậy, do còn non kém trong kiến thức và kinh nghiệm
thực tế, chuyên đề của em không tránh khỏi những thiếu sót. Kính
mong Cô có những góp ý và hướng dẫn thêm để em có thể phát
triển Đề tài này thành Luận Văn Tốt nghiệp.


Chương I
THẨM ĐỊNH KHÁCH HÀNG TRONG TÍN DỤNG PHỤC VỤ
XUẤT NHẬP KHẨU.
1.1 Khách hàng của NHTM
1.1.1 Khái quát về NHTM
NHTM là một trong các tổ chức tài chính trung gian quan trọng
nhất của nền kinh tế, thực hiện hai chức năng cơ bản là thu hút tiền
gửi và cho vay. Có thể nói NHTM đóng vai trò người thủ quỹ cho
toàn xã hội bởi hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp,
các tổ chức kinh tế xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Thu nhập từ
ngân hàng là nguồn thu nhập quan trọng của nhiều hộ gia đình. Mặt

khác, ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh
nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với Nhà nước. Đối với
các DN, NH thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục vụ cho
việc mua hàng hóa dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang
thiết bị. Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh toán cho
các khoản mua hàng hoá và dịch vụ, họ thường sử dụng séc, uỷ
nhiệm chi, thẻ tín dụng, hay tài khoản điện tử...Khi họ cần thông tin
tài chính hay lập kế hoạch tài chính, họ thường đến các ngân hàng
để nhận được lời tư vấn. Các khoản tín dụng ngân hàng cấp cho
Chính phủ là nguồn tài chính quan trọng để đầu tư phát triển.
Ngân hàng có ba chức năng chính là trung gian tài chính, tạo
phương tiện thanh toán và trung gian thanh toán.
Chức năng trung gian tài chính thể hiện ở chỗ ngân hàng
chuyển tiết kiệm thành đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá
nhân và tổ chức trong nền kinh tế, một bên là các cá nhân và tổ chức
tạm thời thâm hụt chi tiêu, bên kia là những cá nhân và tổ chức


thặng dư trong chi tiêu. Tiền di chuyển từ nhóm này sang nhóm kia
rõ ràng là có lợi cho cả hai bên, nó có thể thực hiện qua con đường
trực tiếp nhưng kém hiệu quả do sự không phù hợp về quy mô, thời
gian, không gian giữa hai nhóm và những món tiền của họ. Con
đường hiệu quả hơn được xác định là thông qua các tổ chức trung
gian tài chính- như ngân hàng. Do chuyên môn hoá, trug gian tài
chính có thể làm giảm chi phí giao dịch, tiết kiệm thời gian giao
dịch. Trung gian tài chính giải quyết được mâu thuẫn trong tín dụng
trực tiếp, nhờ việc tập hợp được các người tiết kiệm và đầu tư. Cơ
chế hoạt động của trung gian tài chính sẽ có hiệu quả khi nó gánh
chịu rủi ro và sử dụng các kĩ thuật nghiệp vụ để hạn chế, phân tán
rủi ro và giảm chi phí giao dịch.

Chức năng tạo phương tiện thanh toán và trung gian thanh toán
gắn liền với nhau. Các ngân hàng tạo phương tiện thanh toán khi
phát hành giấy nhận nợ với khách hàng. Giấy nhận nợ do ngân hàng
phát hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh
toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Dần dần, giấy nợ của
ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và
phương tiện cất trữ, nó trở thành tiền giấy. Ngày nay, thanh toán
qua ngân hàng ngày càng phát triển, các khách hàng nhận thức được
rằng nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có
thể chi trả để có được hàng hoá và các dịch vụ theo yêu cầu. Khi
ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của
khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng nó để mua hàng hoá
và dịch vụ. Bằng việc cho vay, các ngân hàng đã tạo phương tiện
thanh toán. Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo phương tiện thanh
toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này sang
ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân
hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu (tức


làm tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng khác tại một ngân hàng
khác từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Không những thế, các
ngân hàng cũng thay mặt khách hàng thực hiện thanh toán giá trị
hàng hóa và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng và tiết kiệm
chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh
toán như thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhờ thu, các loại thẻ...
cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và cung cấp
tiền giấy khi khách hàng cần. Các ngân hàng còn thực hiện thanh
toán bù trừ với nhau thông qua NHTW hoặc thông qua các trung
tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng càng đạt hiệu
quả cao khi qui mô sử dụng công nghệ càng được mở rộng. Vì vậy,

công nghệ thanh toán hiện đại qua ngân hàng thường được các nhà
quản lý tìm cách áp dụng rộng rãi. Nhiều hình thức thanh toán được
chuẩn hoá góp phần tạo tính thống nhất trong thanh toán không chỉ
giữa các ngân hàng trong một quốc gia mà còn giữa các ngân hàng
trên toàn thế giới. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập
đã làm tăng hiệu quả của thanh toán qua ngân hàng, biến ngân hàng
trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ
đắc lực cho nền kinh tế toàn cầu.
1.1.2 Khách hàng của NHTM
Khách hàng của NHTM là những cá nhân và tổ chức có nhu cầu
về các sản phẩm tài chính, họ sẵn lòng và có khả năng tham gia trao
đổi với ngân hàng để thoả mãn các nhu cầu đó. Họ bao gồm những
cá nhân, hộ gia đình, hoặc các công ty hay doanh nghiệp. Theo
“Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng”- ban
hành kèm theo QĐ 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001, thì
khách hàng của NHTM bao gồm:


- Các pháp nhân và cá nhân Việt Nam gồm: các pháp nhân là
doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, công ty TNHH, công ty cổ
phần, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và một số tổ chức
khác; cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân, công
ty hợp danh.
- Các pháp nhân và cá nhân nước ngoài.
Có hai đặc trưng cần nói đến khi đề cập khách hàng của NHTM.
Thứ nhất, khách hàng tìm đến ngân hàng, tìm kiếm các dịch vụ
để thoả mãn các nhu cầu căn bản sau:
- Tìm kiếm thu nhập nhờ sinh lợi từ các thặng dư tài chính.
Khách hàng có những khoản tiền tạm thời nhàn rỗi - thặng dư - tức
là thu nhập tạm thời thừa cho tiêu dùng, thì có thể đem đến ngân

hàng để gửi tiết kiệm, hoặc nếu thặng dư trên tài khoản tiền gửi tại
ngân hàng thì cũng sẽ được hưởng lãi suất. Ngân hàng cũng có thể
giúp khách hàng đầu tư các khoản thặng dư đó, đầu tư vào chứng
khoán chẳng hạn, để tìm kiếm lợi nhuận, làm cho thặng dư tài chính
sinh lãi.
- Quản lý rủi ro, điển hình như giúp bạn cất giữ một khoản tiền
tại ngân hàng, sẽ an toàn hơn nhiều nếu bạn để nó ở nhà. Bởi vì
ngân hàng thực hiện nghiệp vụ đó một cách chuyên môn hoá, nên
những thiết bị bảo quản, bảo vệ, chế độ bảo mật...rõ ràng là tránh
được rủi ro hơn. Mặt khác gửi tiền ở ngân hàng còn cho bạn khoản
sinh lãi, như vậy bạn thoả mãn được không chỉ một nhu cầu.
- Bổ sung các nguồn tài chính thiếu hụt. Một trong những
nghiệp vụ truyền thống của ngân hàng là cấp tín dụng cho khách
hàng với lãi suất và thời hạn phù hợp, nhờ vậy khách hàng khi có đủ
điều kiện vay vốn, luôn tìm đến ngân hàng để bổ sung các nguồn tài
chính thiếu hụt của họ, hơn là tìm kiếm các khoản tín dụng ngoài
chợ đen.


- Di chuyển tiền tệ: chính từ chức năng trung gian thanh toán
của NHTM, các ngân hàng ở khắp mọi miền, mọi khu vực có mối
liên hệ lẫn nhau, sử dụng các trung tâm thanh toán bù trừ và công
nghệ thanh toán hiện đại, các dịch vụ chuyển tiền nhanh chóng tiện
lợi.. có thể giúp khách hàng đi chuyển tiền tệ trong nước cũng như
trên phạm vi quốc tế một cách an toàn và kịp thời nhất.
- Tư vấn chuyên môn trong các lĩnh vực kinh doanh tiền tệ,
chứng khoán, bảo hiểm, bất động sản, thậm chí giá cả thị trường...
Thứ hai, khách hàng là thành phần có vị trí hết sức quan trọng
trong sự tồn tại và phát triển của ngân hàng, bởi khách hàng vừa
tham gia trực tiếp vào quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ ngân

hàng, vừa trực tiếp sử dụng, hưởng thụ sản phẩm dịch vụ. Do vậy,
nhu cầu mong muốn, cách thức sử dụng sản phẩm dịch vụ của
khách hàng là yếu tố quyết định cả về số lượng, kết cấu, chất lượng
sản phẩm dịch vụ ngân hàng và kết quả hoạt động của ngân hàng.
Ngân hàng là tổ chức kinh doanh dịch vụ, nên chất lượng sản
phẩm phụ thuộc vào 3 yếu tố: người bán, người mua và thời điểm
bán dịch vụ. Khách hàng là một trong 3 yếu tố quyết định trực tiếp
đến chất lượng sản phẩm, đồng thời là nhân tố khách quan - nhiều
khi nằm ngoài sự kiểm soát của cán bộ ngân hàng. Mặt khác, do sản
phẩm ngân hàng mang tính chất đơn điệu, quan hệ khách hàngngân hàng mang tính ổn định cao nên tính hấp dẫn khách hàng mới
rất hạn chế. Bất cứ sản phẩm mới nào cũng có thể bị bắt chiếc chỉ
trong thời gian ngắn, đồng thời khách hàng giao dịch với ngân hàng
dựa trên niềm tin vào uy tín, chất lượng dịch vụ ngân hàng đó, nên
một khi đã chọn được 1 NH ưng ý, họ thường muốn duy trì và ít để
ý đến các dịch vụ của ngân hàng khác, lại càng không muốn chuyển
sang ngân hàng khác.


Kinh doanh ngân hàng dựa vào uy tín, vì vậy phục cụ bất cứ đối
tượng khách hàng nào cũng cần phải cẩn trọng, giữ chữ tín. Chỉ cần
bất cứ một sai sót, thiếu thận trọng hoặc tắc trách cũng có thể đem
lại những hậu quả khôn lường. Trước hết là mất lòng khách hàng,
những hiệu ứng lan truyền có thể làm NH mất không chỉ một khách
hàng. Sau đến là sự chú ý, thanh tra, giám sát, kiểm soát của các cơ
quan có thẩm quyền như NHTW, Hiệp hội ngân hàng..., thậm chí
NH có thể bị đưa vào tình trạng kiểm soát đặc biệt.
Trong nghiệp vụ tín dụng - một trong những nghiệp vụ cơ bản,
truyền thống và quan trọng với bất cứ NH nào - khách hàng càng
giữ vị trí trung tâm. Mọi khâu, mọi thao tác trong quá trình xét
duyệt, giải ngân, thu hồi vốn của NH đều phụ thuộc vào khách

hàng. Việc lựa chọn đối tượng cho vay ngay từ đầu đã quyết định
gần như toàn bộ hiệu quả hoạt động kinh doanh của NH. Phần sau
sẽ trình bày rõ hơn về vấn đề này.
1.2 Hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu của NHTM
1.2.1 Khái quát về tín dụng
Tín dụng có nghĩa là kinh doanh dựa trên chữ tín, tức là hoạt
động tài trợ của ngân hàng dựa vào chữ tín. Hoạt động tín dụng của
NHTM bao gồm nhiều nghiệp vụ như cho vay, bảo lãnh, cho thuê
tài chính và chiết khấu thương phiếu.
Cho vay là hình thức cấp tín dụng mà theo đó NH giao cho
khách hàng sử một khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian
nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn trả cả gốc và lãi.
Bảo lãnh của NH là cam kết của NH dưới hình thức thư bảo lãnh
về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của ngân
hàng khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ cam kết.
Cho thuê của NH là hình thức tín dụng trung dài hạn trong đó
NH mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho NH phải


thu gần đủ giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi (thời hạn khoảng 8090 % đời sống kinh tế của tài sản). Hết hạn thuê, khách hàng có thể
mua lại tài sản đó.
Chiết khấu là việc ngân hàng trả tiền cho các thương phiếu còn
thời hạn thanh toán và nắm giữ các thương phiếu đó. Đến thời hạn
thanh toán, NH chuyển thương phiếu đến người mua đòi tiền- nếu
người mua không trả, NH có quyền đòi tiền của các bên ký tên trên
thương phiếu.
Như vậy, các nghiệp vụ chiết khấu, cho thuê và cho vay đều
giống nhau ở chỗ NH phải xuất tiền ra với kỳ vọng thu về cả gốc lẫn
lãi sau thời hạn nhất định. Đối với nghiệp vụ bảo lãnh, khi ký cam
kết bảo lãnh NH chưa phải xuất tiền ngay, nhưng khi đó uy tín NH

phần nào đã gắn với uy tín của khách hàng, nếu khách hàng không
thực hiện đựoc cam kết thì không những NH phải trang trải giúp
khoản nợ đó mà còn mất đi phần nào uy tín của mình. NH phải đối
đầu với rủi ro khi khách hàng kinh doanh không có hiệu quả, không
trả được tiền đầy đủ và đúng hạn. Khi thực hiện các nghiệp vụ tín
dụng, NH đều phải xem xét đến uy tín khách hàng, và đặt niềm tin
vào đó.
Hoạt động tín dụng đóng vai trò quan trọng, quyết định sự tồn
tại và phát triển của các NHTM, nhất là các NHTM vẫn hoạt động
chính bằng các nghiệp vụ ngân hàng truyền thống. Đây là hoạt động
sinh lời lớn nhất đồng thời rủi ro cao nhất cho NHTM. Điển hình
như một món vay giá trị lớn với thời hạn dài, khi thu hồi có thể đem
lại cho NH khoản tiền lãi lớn hơn nhiều so với thu nhập từ phí dịch
vụ chuyển tiền hay tư vấn...Tuy nhiên, trong thời hạn dài, bất cứ
điều gì cũng có thể xảy ra làm cho khách hàng vay thất bại trong
kinh doanh, hoặc nếu khách hàng không đủ năng lực kinh doanh,
không sử dụng vốn vay một cách hiệu quả và kết quả là không thể


hoàn trả nợ cho NH. Khoản nợ lớn này khi đó có thể làm NH phá
sản. Bởi vì tín dụng có rủi ro lớn như vậy, nên để NHTM tồn tại và
phát triển, hoạt động tín dụng phải an toàn. Do vậy, trước khi cấp
tín dụng NHTM phải xem xét rất kỹ, phải có thông tin để lựa chọn
đối tượng đầu tư, phòng ngừa và hạn chế rủi ro tín dụng.
Có nhiều hình thức tín dụng, và nhiều cách phân loại hoạt động
tín dụng. Theo thời hạn, có tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn.
Theo tài sản bảo đảm, có tín dụng không có bảo đảm, có bảo đảm
bằng tài sản thế chấp, cầm cố. Tín dụng phân loại theo rủi ro bao
gồm các khoản có độ an toàn cao, khá, trung bình và thấp. Ngoài ra,
tín dụng có thể phân theo ngành kinh tế hoặc theo đối tượng tài trợ,

hoặc theo mục đích...
1.2.2 Tín dụng xuất nhập khẩu
1.2.2.1 Cơ sở ra đời hoạt động TDXNK
Bất cứ nước nào muốn phát triển kinh tế thì tất yếu phải thực
hiện các hoạt động thương mại quốc tế. Do những đặc điểm về tự
nhiên, kinh tế, xã hội rất riêng của mỗi nước, mỗi vùng mà nước
này có thể có thế mạnh về ngành này, nhưng lại yếu về ngành khác.
Vì thế, cần phải có sự giao thương lẫn nhau để cùng phát triển.
Thông qua thương mại quốc tế, mỗi nước tìm kiếm và nhập
khẩu những nguyên vật liệu cần thiết, những mặt hàng mà nước
mình không có đủ điều kiện để sản xuất hoặc sản xuất được nhưng
với chi phí quá cao, khó tiêu thụ được. Đặc biệt, đối với những nước
đi sau về máy móc, kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất quản lý và phát
triển công nghiệp, khoa học công nghệ...thì việc tiếp xúc, trao đổi
học hỏi các nước phát triển đi trước là khôn ngoan và cần thiết để
nhanh chóng bắt kịp nhịp độ phát triển chung.
Mặt khác, mõi nước cũng cần khai thác và phát huy thế mạnh
nội địa, tăng cường những mặt hàng mà mình có điều kiện sản xuất


để xuất khẩu, thu ngoại tệ về trang trải cho nhập khẩu, cân bằng cán
cân thương mại. Nhờ vậy mới xây dựng được những mối quan hệ
hai chiều - bền vững- với đối tác, quan trọng hơn là được thế giới
biết đến, dần tạo uy tín trên thị trường quốc tế, có thế mới phát triển
kinh tế một cách toàn diện.
Trên thế giới, hoạt động giao thương quốc tế đã phát triển từ lâu,
từ nước này sang nước khác, khu vực này sang khu vực khác, châu
lục này sang châu lục khác, từ đường bộ, đường sông cho đến
đường hàng không. Từ những năm 60,70 của thế kỷ trước, thương
mại quốc tế bừng lên mạnh mẽ với sự gia tăng cả về số lượng và

quy mô của các công ty đa quốc gia, nhất là tại Mỹ- cường quốc
kinh tế số một thế giới.
Tại Việt Nam, hoạt động xuất nhập khẩu bắt đầu manh mún từ
lâu, nhưng phải đến năm 1986, khi Việt Nam thực hiện chính sách
mở cửa, giao thương quốc tế mới thực sự nở rộ. Đến nay, kim ngạch
xuất nhập khẩu tăng và khá ổn định qua các năm, ngày càng chiếm
tỷ trọng cao trong tổng thu nhập quốc dân.
Bảng 1: Kim ngạch XNK Việt Nam từ 1999-2003
Năm

XK(triệ Tốc độ NK(triệu Tốc độ
u
tăng(
USD) tăng(%)
USD)
%)

Nhập siêu
(triệu
USD)

1999
2000
2001
2002
2003
8thán
g

11.541

14.482
15.027
16.705
19.880
16.796

200
1.153
1.135
2.770
5.115
2.891

23,3
25,5
3,8
11,2
19,0

11.742
15.636
16.162
19.300
24.995
19.687

2,1
33,2
3,4
19,4

26,7

Tỷ lệ
nhập
siêu(%)
1,7
8,0
7,6
16,8
18,1


2004
( Nguồn: Tổng cục
thống kê)
Những năm gần đây, trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế thế
giới, Việt Nam cũng tích cực hội nhập với khu vực và thế giới, ký
hiệp định thương mại song phương Việt- Mỹ, gia nhập AFTA,
WTO...Điều này khẳng định hoạt động xuất nhập khẩu sẽ còn tiếp
tục được đẩy mạnh và sôi nổi hơn nhiều.
Có một thực tế rằng NHTM có vai trò rất lớn trong thương mại
quốc tế. Đối với thương mại nội địa, chức năng của NHTM thể hiện
rõ ràng như trung gian tài chính, tạo phương tiện thanh toán, trung
gian thanh toán...
Đối với thương mại quốc tế, khi mà buôn bán diễn ra giữa
những chủ thể cách xa nhau về không gian, thời gian, khác nhau về
ngôn ngữ, phong tục tập quán, luật pháp... thì vai trò của một tổ
chức trung gian chuyên môn hoá như NHTM lại càng quan trọng.
Bởi vì chuyên môn hoá, NHTM cho phép tiết kiệm được thời gian
và chi phí, tăng hiệu quả giao dịch. Nhờ các mối quan hệ sâu rộng

với các NH đại lý ở nước ngoài, với các tổ chức hoạt động trong
lĩnh vực tài chính tiền tệ, nên NHTM có thể trao đổi, thu thập những
thông tin đầy đủ, đáng tin cậy và nhanh chóng hơn về các DN nước
ngoài. Do vậy, NHTM có thể cung cấp cho DN những lời khuyên,
tư vấn tốt.
Bên cạnh đó, các hoạt động thương mại quốc tế vốn rất phức tạp
vì nó liên quan đến chính sách kinh tế, chính trị, đến những pháp
luật khác nhau. Nó vượt qua biên giới một quốc gia. Nó trải qua
quãng đường rất xa và thời gian rất dài- tiềm ẩn không ít rủi ro. Vì
vậy, thương mại quốc tế cần đến NHTM thực hiện những kỹ thuật,


nghiệp vụ phức tạp, đòi hỏi trình độ chuyên môn cao và kỹ năng
chính xác, nhuần nhuyễn. NHTM tham gia vào các phương thức
thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại tệ, giúp khách hàng sử dụng
các khoản thu/chi ngoại tệ một cách có lợi nhất, tránh cho DN
những rủi ro, thiệt hại không đáng có. Không những thế, NHTM
cung cấp các khoản tín dụng xuất nhập khẩu, hỗ trợ DN kinh doanh
xuất nhập khẩu, khơi thông nguồn vốn từ đó đẩy mạnh phát triển
xuất nhập khẩu.
1.2.2.2 Vai trò của tín dụng XNK
a. Đối với NHTM, tín dụng XNK là một hình thức tài trợ thương
mại, với kỳ hạn gắn liền thời gian thực hiện thương vụ, đối tượng tài
trợ là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu trực tiếp hay uỷ thác và giá
trị tài trợ ở mức vừa và lớn. Thực tế, đây là loại hình tín dụng mang
lại hiệu quả cao, an toàn, đảm bảo sử dụng vốn đúng mục đích và
thời gian thu hồi vốn nhanh.
Thời gian thực hiện thương vụ , đối với nhà xuất khẩu kể từ lúc
gom hàng, xuất đi tới lúc nhận được tiền thanh toán của người mua.
Đối với người nhập khẩu, thời gian thực hiện thương vụ tính từ lúc

nhận hàng tại cảng, tới lúc bán hết hàng và thu tiền về. Thông
thường, các NHTM cũng tiến hành thu hồi nợ vào đúng thời gian
kết thúc thương vụ.
Mặt khác, trong tín dụng XNK, đồng vốn luôn gắn liền với
thương vụ. Vốn tài trợ có thể được thanh toán thẳng cho bên thứ ba,
không qua bên xin tài trợ như thanh toán tiền hàng nhập khẩu, thanh
toán tiền nguyên vật liệu cho các đại lý gom hàng cho người xuất
khẩu. Nhờ vậy nên tránh được tình trạng người xin tài trợ sử dụng
vốn sai mục đích, hạn chế được rủi ro tín dụng.
Tài trợ xuất nhập khẩu cũng làm tăng tính an toàn cho ngân
hàng thông qua việc quản lý thu các nguồn thanh toán. Với người


nhập khẩu, khi NH tài trợ cho họ, NH sẽ buộc người nhập khẩu tập
trung tiền bán hàng vào tài khoản mở tại NH. Vì vậy, khoản thu
nhập của người nhập khẩu sẽ ngay lập tức được sử dụng vào việc trả
nợ. Nguồn thu để trả các khoản tài trợ được NH quản lý hết sức chặt
chẽ, tránh được tình trạng xoay vốn của doanh nghiệp trong thời
gian vốn tạm thời nhàn rỗi.
Đây cũng là hình thức tài trợ rất hiệu quả đối với NH, thể hiện
thông qua lãi suất. NH thu được nhiều loại lãi suất trong tín dụng
xuất nhập khẩu như: lãi cho vay thanh toán, lãi chiết khấu chứng từ,
lãi vay bắt buộc.... Hiệu quả cũng thể hiện ở chỗ thông qua tín dụng
XNK cho phép ngân hàng mở rộng quan hệ với các doanh nghiệp
và ngân hàng nước ngoài, nâng cao uy tín trên thị trường quốc tế.
b. Đối với Doanh nghiệp.
Trước hết, tín dụng XNK cho phép DN thực hiện được những
thương vụ lớn. Những DN kinh doanh ngoại thương phải đứng
trước một thử thách đặc trưng là các hợp đồng ngoại thương thường
có giá trị lớn để tiết kiệm thời gian và chi phí vận chuyển trên quãng

đường dài. Vì vậy, thông thường vốn lưu động của doanh nghiệp
không đủ để chuẩn bị hàng xuất hoặc thanh toán toàn bộ tiền hàng.
Khi đó nhất thiết cần đến tài trợ của ngân hàng.
Mặt khác, trong đàm phán thương lượng, ký kết hợp đồng ngoại
thương, nếu trước đó doanh nghiệp đã thông qua ngân hàng về việc
tài trợ và thanh toán quốc tế, tức là doanh nghiệp đã xác định được
NH phục vụ mình, thể hiện đựơc năng lực thực hiện hợp đồng của
mình. Khi đó, đối tác có thể tin tưởng hơn vào doanh nghiệp, có thể
an tâm hơn và thực hiện giao dịch nhanh hơn. Nói cách khác, hợp
đồng ngoại thương được thực hiện thông qua ngân hàng phụcv ụ
người mua và người bán, khi đã thoả thuận trước được với ngân


hàng thì đó thực sự là lợi thế rất lớn cho DN, là điểm quan trọng
trong tiến trình thương lượng, đàm phán.
Tín dụng xuất nhập khẩu cũng làm tăng hiệu quả của doanh
nghiệp trong quá trình thực hiện hợp đồng. Nhờ khoản tín dụng của
ngân hàng, nhà xuất khẩu có đủ tiền để thu mua hàng hoá đúng thời
vụ, gia công chế biến và giao hàng đúng thời điểm, nhà nhập khẩu
kịp thời mua được những lô hàng lớn, thanh toán sớm có thể được
chiết khấu.
Đồng thời, NH tham gia tài trợ các dự án nhỏ và vừa, giúp
doanh nghiệp phát triển quy mô sản xuất, tăng năng suất lao động
và hạ giá thành sản phẩm. Nó cũng cho phép doanh nghiệp nâng cao
uy tín trên thị trường quốc tế.
Thông qua những ảnh hưởng tới ngân hàng và doanh nghiệp, tín
dụng xuất nhập khẩu góp phần phát triển ngoại thương nói riêng và
kinh tế đất nước nói chung.
1.2.2.3 Các hình thức tín dụng phục vụ xuất nhập khẩu.
Tín dụng phục vụ xuất nhập khẩu, về bản chất cũng là một hình

thức tín dụng thương mại của NHTM, nó cũng có thể được phân
loại căn cứ vào kỳ hạn khoản vay, vào phương thức tín dụng, vào tài
sản bảo đảm...Tuy nhiên, tín dụng xuất nhập khẩu luôn đi liền với
thanh toán quốc tế, tuỳ theo phương thức thanh toán quốc tế mà nảy
sinh các hình thức tín dụng xuất nhập khẩu khác nhau với những rủi
ro ở mức độ khác nhau. Ngân hàng ở cả hai phía của nghiệp vụ
thanh toán quốc tế đống vai trò quan trọng trong việc tài trợ hoạt
động XNK, thương mại quốc tế. Các hình thức tín dụng XNK phổ
biến bao gồm:
(1) Tài trợ khoản phải thu
Trong một số trường hợp, người xuất khẩu hàng hoá có thể muốn
gửi hàng cho người nhập khẩu không cần một sự đảm bảo thanh


toán của ngân hàng. Điều này có thể dẫn tới dạng mở tài khoản gửi
hàng hoặc hối phiếu có kỳ hạn. Trước khi gửi hàng, người xuất
khẩu có thể tự tiến hành việc kiểm tra vị thế tín dụng đối với người
nhập khẩu để xác định khả năng chi trả của họ. Trong trường hợp
người xuất khẩu sẵn sàng chấp nhận việc chờ thanh toán, họ có thể
mở rộng tín dụng cho người mua.
Điều kiện áp dụng tài trợ khoản phải thu:
Nếu người xuất khẩu cần tiền ngay, họ có thể yêu cầu tài trợ từ
một NHTM nào đó. Trong nghiệp vụ tài trợ khoản phải thu, ngân
hàng sẽ cung cấp một khoản vay cho người xuất khẩu, được đảm
bảo bằng việc chuyển nhượng khoản phải thu. Ngân hàng tiến hành
cho vay dựa trên cơ sở khả năng thanh toán của người xuất khẩu.
Trong trường hợp người mua không trả tiền cho người xuất khẩu vì
bất kỳ lý do gì, người xuất khẩu vẫn có nghĩa vụ phải trả tiền cho
ngân hàng về khoản tiền đã vay.
Tác dụng:

Tài trợ khoản phải thu cho phép người xuất khẩu đáp ứng nguồn
vốn kinh doanh một cách kịp thời, với vật thé chấp chính là khoản
phải thu. Về bản chất đây là hình thức chiết khấu có truy đòi, nên
người xuất khẩu vẫn có trách nhiệm với khoản phải thu cho đến khi
việc thanh toán được thực hiện.
Hạn chế của hình thức:
Tài trợ khoản phải thu có một số rủi ro, chẳng hạn như những qui
định hạn chế của Chính phủ và các chính sách quản lý hối đoái có
thể cản trở việc người mua trả tiền người xuất khẩu. Chính vì những
rủi ro này mà lãi vay thường cao hơn so với các khoản phải thu
trong nước. Độ dài của thời gian tài trợ thường từ 1 đến 6 tháng. Để
giảm bớt rủi ro của khoản phải thu ở nước ngoài , người xuất khẩu
và người nhập khẩu thường sử dụng bảo hiểm tín dụng xuất khẩu.


(2) Bao thu (factoring)
Điều kiện áp dụng:
Khi một người xuất khẩu gửi hàng trước nhận tiền thanh toán,
khoản phải thu của họ sẽ tăng lên. Trừ khi người xuất khẩu nhận
được khoản vay từ ngân hàng, chính họ đã tài trợ ban đầu cho
nghiệp vụ và phải quản lý việc thu hồi khoản phải thu. Bởi vì có
một sự nguy hiểm là người mua sẽ không trả được tiền, các công ty
xuất khẩu có thể cân nhắc việc bán các khoản phải thu cho một
người thứ ba, được gọi là người bao thu (Factor). Khác với hình
thức tài trợ khoản phải thu đã nêu ở trên, trong hình thức tài trợ này
người xuất khẩu bán khoản phải thu theo kiểu miến truy đòi. Người
bao thu, do đó, nhận mọi trách nhiệm hành chính chứa đựng trong
việc thu hồi tiền từ người mua và những rủi ro tín dụng đi kèm. Vì
lý do này, người bao thu sẽ phải đánh giá khả năng tín dụng của
người mua nước ngoài trước khi quyết định mua khoản phải thu. Để

cung cấp các dịch vụ này, những người bao thu thường mua các
khoản phải thu với một mức khấu trừ và cũng nhận được một khoản
phí xử lý thống nhất.
Tuy nhiên nghiệp vụ Factoring chỉ phù hợp với các doanh
nghiệp chiếm lĩnh được thị trường rộng và chỉ được cung cấp với
một số điều kiện như:
- Đạt quy mô về doanh thu xuất khẩu hàng năm
- Thời hạn thanh toán không quá 120 ngày
- Cơ cấu khách hàng thay đổi ở mức có thể chấp nhận được
Phạm vi áp dụng:
Chủ yếu các khoản cần trợ giúp của Factoring trên ba lĩnh vực
sau:


- Mua lại các khoản nợ tiền hàng và thực hiện thanh toán ngay
cho nhà xuất khẩu (thường hạn chế ở mức 70%-80%) và các khoản
nợ được công ty Factoring chấp nhận.
- Cung cấp dịch vụ (hạch toán sổ sách, kế toán nợ, nghiệp vụ uỷ
nhiệm thu, thống kê bán hàng, các bản sao kê tài khoản định kỳ và
thu nợ khi đến hạn...)
- Tài trợ tiêu thụ, đảm bảo đầy đủ các khoản bán hàng đã được
chấp nhận.
Tác dụng:
Bao thu cung cấp một số tiện ích cho người xuất khẩu. Trước hết,
bằng việc bán khoản phải thu, người xuất khẩu không phải lo lắng
về nghĩa vụ hành chính chứa đựng trong việc duy trì và quản lý
khoản phải thu trên sổ sách kế toán. Thứ hai, người bao thu gánh
chịu rủi ro tín dụng từ phía người mua, do vậy người xuất khẩu
không phải duy trì nhân viên để đánh giá khả năng trả nợ của người
mua nước ngoài. Cuối cùng việc bán các khoản phải thu cho người

bao thu cung cấp tiền ngay và tăng luồng tiền mặt cho người xuất
khẩu.
(4)Forfaiting – Chiết khấu nợ dài hạn
Điều kiện áp dụng
Forfaiting là hình thức tài trợ xuất khẩu dựa trên việc chiết khấu
các khoản nợ dài hạn phát sinh do xuất khẩu máy móc, thiết bị có
giá trị lớn. Theo thoả thuận, nhà xuất khẩu bán thiết bị dưới hình
thức trả góp. Để hỗ trợ tài chính cho nhà xuất khẩu, ngân hàng sẽ
mua lại khoản nợ này, đây chính là nghiệp vụ Forfaiting. Như vậy,
forfaiting có thể hiểu là mua không hoàn lại các khoản thanh toán
cần đòi.
Tác dụng: ưu điểm và chức năng của Forfaiting tương tự như
nghiệp vụ Factoring, chỉ khác Forfaiting là nghiệp vụ tài trợ dài hạn.


(5) Thư tín dụng
Điều kiện áp dụng:
L/C là một sự cam kết bởi một ngân hàng về việc thực hiện thanh
toán thay mặt cho một bên cụ thể cho một người hưởng lợi xác định
dựa trên những điều kiện nhất định. Người hưởng lợi (nhà xuất
khẩu) được trả tiền khi xuất trình các chứng từ được yêu cầu phù
hợp với các điều khoản của thư tín dụng. Việc xử lý thư tín dụng
thường bao gồm hai ngân hàng, ngân hàng người xuất khẩu và ngân
hàng người nhập khẩu. Ngân hàng phát hành thực hiện khoản tín
dụng thay cho người nhập khẩu. Nó đảm bảo thanh toán cho người
xuất khẩu với điều kiện người xuất khẩu tuân thủ các nội dung và
điều kiện của L/C.
L/C không dảm bảo rằng người mua sẽ nhận được gì đã đặt hàng.
Ngân hàng chỉ tiến hành các nghiệp vụ liên quan đến chứng từ,
không liên quan đến hàng hoá. Quyết định trả tiền của ngân hàng

được thực hiện dựa trên việc kiểm tra các chứng từ chứ không phải
là nhận hoặc kiểm tra hàng hoá. Do đó, người mua phải tin tưởng
người bán trong việc giao hàng theo L/C và đơn đặt hàng của người
mua.
Dựa vào L/C, có thể hình thành nhiều hình thức tín dụng XNK
nhỏ như: Cho vay thực hiện hàng xuất khẩu theo L/C đã mở, cho
vay ký quỹ L/C, tín dụng thanh toán hàng nhập khẩu …Để cung cấp
các hình thức tín dụng này, NHTM cần thẩm định khách hàng về
năng lực tài chính, khả năng trả nợ, uy tín, phương án kinh doanh…
DN cần phải cung cấp đầy đủ Giấy phép kinh doanh xuất nhập
khẩu, Hợp đồng ngoại…để NH phân tích và ra quyết định có chấp
nhận mở L/C không, với mức ký quỹ L/C là bao nhiêu. Với hình
thức
Tác dụng:


L/C bảo vệ và đem lại lợi ích một cách hoà hợp cho cả người
xuất khẩu và ngưòi nhập khẩu, nó trở thành bộ phận quan trọng của
nhiều nghiệp vụ thương mại quốc tế. L/C khi đã được mở hoàn
chỉnh thì nó đảm nhận hai chức năng quan trọng: đảm bảo giao hàng
đối với nhà nhập khẩu, đảm bảo thanh toán đối với nhà xuất khẩu.
Nhờ vậy, L/C nhập có thể trở thành công cụ tín dụng để các bên vay
vốn phục vụ nhu cầu kinh doanh của mình. Cho vay ký quỹ L/C
phát sinh khi khách hàng đề nghị ngân hàng phát hành L/C, hoặc
xác nhận L/C. Hình thức này trước tiên giải quyết được khó khăn về
vốn lưu động cho khách hàng, đồng thời tăng tính an toàn và mang
lại hiệu quả cao hơn cho ngân hàng.
(6) Chấp nhận của ngân hàng
Chấp nhận của ngân hàng là một hối phiếu có kỳ hạn được chấp
nhận thanh toán bởi một ngân hàng. Nó là sự chấp nhận nghĩa vụ

của ngân hàng về việc thanh toán cho người nắm giữ hối phiếu khi
đến hạn.
Điều kiện áp dụng:
Hối phiếu được ngân hàng chấp nhận phải có đủ điều kiện cụ thể
như thời hạn là bao nhiêu? giá trị của hối phiếu và phải dựa trên
nghiệp vụ tương ứng. Sự khác nhau cơ bản giữa việc sử dụng chấp
nhận ngân hàng và tài trợ khoản phải thu là ở chỗ chấp nhận ngân
hàng đảm bảo việc trả tiền cho người xuất khẩu bởi một ngân hàng.
Tác dụng:
Một chấp nhận ngân hàng có thể là hữu ích đối với người xuất
khẩu, người nhập khẩu và người phát hành. Người xuất khẩu không
cần phải lo lắng về rủi ro tín dụng của người nhập khẩu và do đó có
thể thâm nhập vào thị trường mới mà không cần phải quan tâm đến
rủi ro tín dụng của các khách hàng tiềm tàng. Tuy nhiên vẫn có một
rủi ro nhỏ có liên quan đến vấn đề chính trị hoặc các biện pháp quản


lý hối đoái do một chính phủ áp đặt. Mặc dù các ngân hàng thường
được phép đáp ứng các cam kết thanh toán trước đây của họ ngay cả
trong điều kiện có sự quản lý khắt khe của Chính phủ, nhưng một
người nhập khẩu có thể gặp phải những khó khăn lớn hơn trong việc
tiến hành thanh toán cho người xuất khẩu nếu các quy định quản lý
mới được áp đặt.
Người nhập khẩu có lợi ở chỗ từ chấp nhận ngân hàng ở chỗ nó
có lối rộng hơn để có thể tham gia vào thị trường nước ngoài khi
mua hàng hoá và các sản phẩm khác. Không có chấp nhận ngân
hàng, người xuất khẩu có thể không muốn chấp nhận rủi ro tín dụng
từ phía người nhập khẩu. Vì các chứng từ được gửi cùng với chấp
nhận, người nhập khẩu được đẩm bảo rằng hàng hóa đã được gửi đi.
Mặc dù người nhập khẩu không phải trả tiền trước, đảm bảo này là

có giá trị vì người nhập khẩu có thể cần biết liệu khi nào hàng cung
ứng và các sản phẩm sẽ đến. Cuối cùng, bởi vì chấp nhận ngân hàng
cho phép người nhập khẩu trả tiền sau, việc trả tiền của người nhập
khẩu được tài trợ tận ngày hết hạn của chấp nhận ngân hàng. Không
có chấp nhận, người nhập khẩu có thể buộc phải trả trước do đó vốn
bị phong toả.
1.2.2.4 Rủi ro trong tín dụng xuất nhập khẩu
Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng
phải chịu do khách hàng vay trả không đúng hạn, không trả hoặc
không trả đầy đủ vốn và lãi. Khi thực hiện một hoạt đông cho vay
cụ thể, ngân hàng cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao
cho độ an toàn là cao nhất. Và nhìn chung ngân hàng chỉ quyết định
cho vay khi thấy rằng rủi ro tín dụng sẽ không xảy ra. Khả năng
hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể thay đổi do nhiều nguyên
nhân. Hơn nữa, nhiều cán bộ tín dụng không có khả năng thực hiện
phân tích tínd ụng thoả đáng. Do vậy trên quan điểm quản lí toàn bộ


ngân hàng thì rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi, là khách quan.
Nhiều quan điểm nhất trí rằng, rủi ro tín dụng là bạn đường trong
kinh doanh, có thể đề phòng hạn chế, chứ không thể loại trừ.
Như vậy, tín dụng nội địa hay tín dụng quốc tế cũng đều tiềm ẩn
rủi ro cho ngân hàng. Tuy nhiên, cho vay nước ngoài có rủi ro hơn
là cho vay trong nước vì tiền tệ, quốc gia và các rủi ro do thay đổi
pháp chế. Chi phí có thể gia tăng và biến động mạnh, kỹ thuật cải
tiến có thể ảnh hưởng bất lợi đền tình thế cạnh trnah của một doanh
nghiệp hay một quốc gia, nguồn cung ứng lao động và vật tư có thể
bị gián đoạn, phát triển kinh tế và ngoại thưưong có thể bị suy giảm,
biến động chính trị và chiến tranh có thể xảy ra, và thuế quan có thể
được tăng lên, dẫn đến lợi tức có thể bị suy giảm, đến mức mà các

khoản chi trả theo thời biểu là không thực hiện được.
Những khoản cho vay trong nước trong nhiều trường hợp được
bảo đảm, và tất cả được bảo đảm bằng một hợp đồng cưỡng chế.
Nếu khách hàng không thể trả đủ nợ, ngân hàng có thể tịch thu và
bán vật thế chấp để trả nợ. Nếu vẫn không đủ, một phán quyết có
thể được hình thành từ một toà án thích hợp và con nợ phải tôn
trọng phán quyết đó. Luật phá sản cũng có thể góp phần thúc đẩy
việc trả nợ: các tích sản của con nợ được chuyển sang cho chủ nợ
qua một toà án phá sản. Nhưng cách xử lý như vậy không tồn tại
trong hoạt động cho vay quốc tế. Những khoản cho vay quốc tế
thường không được bảo đảm bởi vật thế chấp, và khó có thể giải
quyết bằng cách nhờ một toà án tuyên bố là phá sản được.. Ví như
có rất nhiều rủi ro đe doạ khi nhập khẩu, như tiền đã thanh toán mà
hàng hoá nhận được không đảm bảo chất lượng, số lượng như trong
hợp đồng, hoặc vay tiền để thanh toán và nhập hàng về nhưng khi
bán, tiêu thụ hàng, doanh thu không đủ trả nợ...


Và bởi vì có rất nhiều rủi ro trong tín dụng xuất nhập khẩu, nên
thẩm định khách hàng và chất lượng thẩm định khách hàng trong tín
dụng phục vụ xuất nhập khẩu là điều mà bất cứ ngân hàng nào cũng
quan tâm.
1.3 Thẩm định khách hàng của NHTM
1.3.1 Khái niệm và mục tiêu
Khi cấp tín dụng, điều mà bất cứ ngân hàng nào cũng quan tâm
hàng đầu là khả năng hoàn trả nợ của khách hàng. Bất cứ khoản tín
dụng nào, dù lãi suất cao hay thấp, thời hạn ngắn hay dài...thì vẫn
tiềm ẩn trong nó rủi ro không hoàn trả. Rủi ro không hoàn trả bắt
nguồn từ nhiều yếu tố khác nhau như nguyên nhân thiên tai, những
thay đổi trong kinh tế, chính trị như thay đổi nhu cầu ngwoif tiêu

dùng, thay đổi chính sách xuất nhập khẩu của quốc gia, sự hưng
thịnh hoặc suy thoái của chu kỳ kinh doanh...
Nếu rủi ro không hoàn trả xảy ra, ngân hàng trước hết là bị tổn
thất, không thu hồi lại được số tiền đã cho vay. Sau nữa, sự tổn thất
đó ảnh hưởng đến thu nhập của ngân hàng, kết quả hoạt động kinh
doanh của ngân hàng. Nó cũng làm thay đổi các chỉ số tài chính của
ngân hàng như tỷ lệ nợ khoanh, tổng dư nợ quá hạn, tỷ lệ nợ quá
hạn/tổng dư nợ tín dụng...phản ánh chất lượng hoạt động ngân hàng,
làm giảm uy tín ngân hàng.Nếu giá trị khoản vay chiếm tỷ trọng
không nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, rủi ro này thậm chí
có thể làm cho ngân hàng bị phá sản.
Do vậy, để quyết định có chấp nhận cho vay hay không, ngân
hàng phải cố gắng ước lượng rủi ro không hoàn trả. Rủi ro này có
thể dự đoán trong một quá trình khá dài, bằng phương pháp phân
tích tín dụng.


Phân tích tín dụng là quá trình thẩm định khách hàng trước trong
và sau khi cấp tín dụng. Mục đích chủ yếu của phân tích tín dụng là
xác định khả năng và ý muốn của người vay trong việc hoàn trả tiền
vay, từ đó ngân hàng điều chỉnh các giá trị trong quan hệ tín dụng
với khách hàng.
Thẩm định khách hàng về cơ bản giống nhau trong tất cả các
ngân hàng, nhưng ở một số ngân hàng người ta nhấn mạnh đến một
số chức năng này còn ở ngân hàng khác lại nhân mạnh đến một số
chức năng khác. Nói chung, quy trình thẩm định khách hàng bao
gồm việc thu thập thông tin có ý nghĩa với việc đánh giá tín dụng,
việc chuẩn bị và phân tích thông tin thu thập được, sưu tầm và lưu
lại thông tin để sử dụng trong tương lai.
Tín dụng ngân hàng được thực hiện dựa trên những nguyên tắc

đặc trưng của nó, nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời
cho ngân hàng. Việc phân tích tín dụng hướng tới mục tiêu đánh giá
khả năng khách hàng đảm bảo các nguyên tắc đó đến mức độ nào:
- Khách hàng phải cam kết hoàn trả gốc và lãi với thời gian xác
định. Thẩm định khách hàng phải đánh giá tính chân thực trong cam
kết đó, tức là xem xem khách hàng có thật sự cố gắng và nỗ lực để
thựuc hiện cam kết đó hay không, khả năng thực hiện được thế
nào...
- Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích được
thoả thuận với khách hàng. Vậy thẩm định khách hàng phải xem xét
khả năng xảy ra rủi ro đạo đức, đánh giá uy tín, tư cách khách
hàng...
- Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án hay dự án có hiệu quả.
Phương án hoạt động có hiệu quả của người vay minh chứng cho
khả năng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ cho ngân hàng.
Các khoản tài trợ của ngân hàng gắn liền với việc hình thành tài sản


×