Tải bản đầy đủ (.doc) (113 trang)

“Liên kết kinh tế hộ nông dân trên địa bàn huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (648.45 KB, 113 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các kết quả
nghiên cứu được trình bày trong luận văn là trung thực, khách quan và chưa từng
dùng bảo vệ ở bất kỳ học vị nào.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn đã được
cảm ơn, các thông tin trích dẫn trong luận văn đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, ngày 15 tháng 6 năm 2015
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thùy Linh


ii

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện luận văn, ngoài sự nỗ lực và cố gắng của bản
thân, tôi đã nhận được sự giúp đỡ tận tình của rất nhiều cá nhân và tập thể.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng kính trọng, sự cảm ơn chân thành và sâu sắc
tới thầy TS. Lê Anh Vũ – Viện Nghiên cứu Phát triển bền vững Vùng, Viện Hàn
lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đã tận tình hướng dẫn và chỉ bảo tôi trong suốt
quá trình tôi thực hiện đề tài.
Tôi xin gửi lời cảm ơn tới các cơ quan đoàn thể, cán bộ của 14 đơn vị hành
chính, Các quý công ty, doanh nghiệp đang kinh doanh hoạt động tại Lâm Thao
cùng toàn bộ các anh/chị, cô/chú chủ hộ đang sản xuất trên địa bàn huyện Lâm
Thao đã giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt thời gian thực
hiện đề tài.
Qua đây, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các anh chị và bạn bè
đã giúp đỡ, động viên trong suốt quá trình học tập cũng như thực tập tốt nghiệp.
Cuối cùng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới toàn thể gia đình đã luôn
là chỗ dựa vững chắc cho tôi trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!


Hà Nội, ngày 15 tháng 6 năm 2015
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Thùy Linh


iii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN..............................................................................................i
LỜI CẢM ƠN....................................................................................................ii
MỤC LỤC........................................................................................................iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT................................................................v
DANH MỤC BẢNG BIỂU..............................................................................vi
DANH MỤC ĐỒ THỊ.....................................................................................vii
DANH MỤC SƠ ĐỒ......................................................................................viii
Chương 2....................................................................................................................................44
THỰC TRẠNG LIÊN KẾT KINH TẾ CỦA HỘ NÔNG DÂN HUYỆN LÂM THAO TỈNH
PHÚ THỌ TỪ NĂM 2012 ĐẾN 2015......................................................................................44

PHỤ BIỂU.........................................................................................................108

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt
BVTV
CN - TTCN
CNH, HĐH
DN
FAO


Ý nghĩa
Bảo vệ thực vật
Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Doanh nghiệp
Tổ chức Liên hợp quốc về lương thực và nông

GTSX
Ha
HTX
HTXNN

nghiệp (Food and Agriculture Organization)
Giá trị sản xuất
Héc ta
Hợp tác xã
Hợp tác xã nông nghiệp


iv

KHCN
KHKT
KTHT
NN & PTNT
PTNT
SL
SX
SXNN
TNHH

UBND
VietGAP

Khoa học công nghệ
Khoa học kỹ thuật
Kinh tế hợp tác
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
Phát triển nông thôn
Số lượng
Sản xuất
Sản xuất nông nghiệp
Trách nhiệm hữu hạn
Ủy ban nhân dân
Thực hành sản xuất nông nghiệp tốt ở Việt Nam
(Vietnamese Good Agricultural Practices)
DANH MỤC BẢNG BIỂU

STT
Bảng 1.1
Bảng 2.1
Bảng 2.2
Bảng 2.3
Bảng 2.4.
Bảng 2.5
Bảng 2.6
Bảng 2.7
Bảng 2.8
Bảng 2.9.
Bảng 2.10


Tên bảng
Các loại mô hình liên kết trong sản xuất – kinh doanh
nông nghiệp
Thông tin cơ bản về nhóm hộ điều tra
Tình hình đất đai bình quân/ hộ của nhóm hộ điều tra
năm 2015
Tình hình lao động bình quân/hộ của nhóm hộ điều
tra năm 2015
Tình hình vốn của nhóm hộ điều tra năm 2015
Cơ cấu giá trị đầu tư bình quân doanh nghiệp chế
biến đầu tư cho nông dân tham gia liên kết năm 2015
Tình hình liên kết cung ứng vốn trong sản xuất lúa tại
Lâm Thao
Tình hình liên kết trong cung ứng phân bón trong sản
xuất Lúa tại Lâm Thao
Tình hình liên kết trong cung ứng thuốc bảo vệ thực vật
và phòng trừ dịch bệnh trong sản xuất Lúa tại Lâm Thao
Tình hình liên kết chuyển giao kỹ thuật trong sản xuất
nông nghiệp tại huyện Lâm Thao
Lợi ích của nhà nông khi tham gia liên kết

Trang
26
49
51
52
53
61
70
72

74
77
82


v

Bảng 2.11
Bảng 2.12.
Bảng 2.13.
Bảng 2.14

So sánh về kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh
của Nhà nông khi tham gia liên kết
Lợi ích của cán bộ khoa học khi tham gia liên kết
Lợi ích của doanh nghiệp khi tham gia liên kết
So sánh về kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh
của Doanh nghiệp khi tham gia liên kết

84
84
85
87

DANH MỤC ĐỒ THỊ
STT
Biểu đồ 2.1

Tên đồ thị
Tỉ lệ % sản lượng sản xuất bán cho doanh nghiệp của


Trang
57

Biểu đồ 2.2

những hộ nông dân đang tham gia liên kết năm 2015.
Tỉ lệ % sản lượng nguyên liệu nông sản mua của hộ

58

đang tham gia liên kết so với tổng nhu cầu của những
Biểu đồ 2.3

doanh nghiệp năm 2015.
Tỉ lệ % hộ nông dân đang tham gia liên kết được doanh

60

Biểu đồ 2.4

nghiệp chế biến đầu tư năm 2015.
Động cơ thúc đẩy thực hiện liên kết của nông dân năm

83

Biểu đồ 2.5

2015
Động cơ thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện liên kết


86


vi

DANH MỤC SƠ ĐỒ
STT
Sơ đồ 2.1

Tên sơ đồ
Hình thức cấu trúc tổ chức liên kết với nông

Trang
63

Sơ đồ 2.2

dân của công ty CP Làng Dòng
Hình thức tổ chức liên kết với nông dân của

64

Sơ đồ 2.3

Siêu thị BigC Việt Trì
Hình thức tổ chức liên kết với nông dân của

66


Sơ đồ 2.4

HTX trồng chuối chuyên canh Bản Nguyên
Hình thức liên kết đa thành phần xây dựng

67

Sơ đồ 2.5

cánh đồng mẫu lớn tại Lâm Thao
Các tác nhân tham gia liên kết cung ứng vốn

69

Sơ đồ 2.6

cho sản xuất nông nghiệp tại Lâm Thao
Các tác nhân tham gia liên kết cung ứng phân

71

Sơ đồ 2.7

bón trong sản xuất nông nghiệp tại Lâm Thao
Các tác nhân trong liên kết cung ứng thuốc bảo

73

vệ thực vật và phòng trừ dịch bệnh trong sản
xuất nông nghiệp tại Lâm Thao



1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau gần 30 năm đổi mới, kinh tế nông nghiệp, nông thôn đã có bước chuyển biến
mang tính đột phá, từ nước thiếu về nguồn lương thực đến nay nước ta không những đảm
bảo nguồn an ninh lương thực ở trong nước mà còn cung cấp một lượng lớn nguồn lương
thực, thực phẩm cho nhu cầu xuất khẩu, là nước đứng trong tốp đầu có trữ lượng gạo xuất
khẩu trong khu vực và thế giới. Đạt được những kết quả như vậy có sự đóng góp rất lớn từ
các hộ nông dân, họ không chỉ đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông nghiệp mà
còn là lực lượng chính trong phát triển kinh tế đất nước.
Trong những năm gần đây Đảng, Nhà nước đã có nhiều chủ trương chính sách
quan trọng để tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, nông thôn và nông
dân phát huy vai trò của mình như: Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của
Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; Liên
kết 4 nhà; Chương trình xây dựng nông thôn mới...
Lâm Thao là huyện đồng bằng, nằm trong tam giác phát triển của tỉnh Phú Thọ,
gồm thành phố Việt Trì - Lâm Thao - Phù Ninh. Trong nhiều năm nay, Lâm Thao đã
tập trung khai thác lợi thế về sản xuất nông nghiệp, thủy sản, tận dụng ảnh hưởng lan
tỏa của các khu công nghiệp để phát triển kinh tế truyền thống, hình thành cụm công
nghiệp, làng nghề, cơ sở dịch vụ tạo sự chuyển dịch tích cực trong phát triển kinh tế.
Trên địa bàn huyện Lâm Thao, kinh tế hộ nông dân giữ vai trò quan trọng trong
phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Hộ nông dân đã áp dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật vào thực tiễn sản xuất tạo ra những nông sản có giá trị kinh tế, cơ bản đáp ứng
nhu cầu thị trường trong huyện và vùng lân cận.
Tuy nhiên, sản xuất các hộ nông dân vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ, thiếu sự liên
kết giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, chế biến sâu chưa phát triển, số lượng sản
phẩm hàng hóa còn khiêm tốn, chưa đáp ứng được một số yêu cầu của doanh nghiệp,

do đó khó hình thành lợi thế theo quy mô tập trung khu vực và lợi thế theo quy mô
doanh nghiệp. Vấn đề liên kết phát triển các khu vực với nhau, trong đó có liên kết của
hộ nông dân đóng vai trò then chốt để giải quyết những vấn đề nêu trên. Một số hộ
nông dân đã tham gia liên kết trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhưng ở mức độ


2

thấp. Với những lý do trên tôi đã chọn đề tài “Liên kết kinh tế hộ nông dân trên địa
bàn huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Tình hình nghiên cứu trên thế giới
Key, N. và Runsten, D. (1999), nhìn nhận bản chất liên kết kinh tế là một thể
chế kinh tế (economic institution) [34]. Theo từ điển mở Wikipedia tiếng Anh thể chế
là bất kỳ cấu trúc (structure) hoặc cơ chế (mechanism) nào của trật tự xã hội và điều
chỉnh hành vi của một tập hợp các cá nhân trong một cộng đồng người nhất định còn
cơ chế là một bộ qui tắc được thiết kế để mang lại một kết quả nhất định.
Theo các nhà kinh tế thuộc trường phái "Kinh tế học thể chế mới (New
Institutional Economics - NIE)", thể chế là "những nguyên tắc của cuộc chơi" trong xã
hội; trong đó có người chơi, luật chơi và sân chơi. Người chơi trong mối quan hệ của
nó tạo thành cấu trúc tổ chức của thể chế; luật chơi là cơ chế, qui tắc ràng buộc của thể
chế và sân chơi là cơ sở vật chất, phương tiện gắn liền với một lĩnh vực hoạt động cụ
thể của thể chế. Luật chơi hay cơ chế, qui tắc là “phầm mềm” của thể chế; hai thành tố
còn lại: người chơi và sân chơi là “phần cứng của thể chế”
Về mối quan hệ giữa cơ chế và tổ chức trong một thể chế kinh tế, Douglass
C.North (1998) đã cho rằng việc những tổ chức hình thành và phát triển như thế nào
phụ thuộc vào cơ chế bên trong nó và ngược lại tổ chức sẽ lại ảnh hưởng đến sự vận
động của cơ chế [28].
Williamson (1985) mô tả 3 loại thể chế quản lý nhằm thay đổi mức độ phụ
thuộc lẫn nhau giữa các đối tác mậu dịch: thị trường giao ngay, hợp đồng dài hạn và

quan hệ thứ bậc (Hierarchies) [39].
Michael S. and P. Joseph (2003) đã khái quát quản trị thị trường thành 5 thể
chế: Hợp đồng giao ngay (Hợp đồng cổ điển), Hợp đồng đặt hàng chi tiết kỹ thuật
(Hợp đồng tân cổ điển), đồng minh chiến lược (Hợp đồng tân cổ điển), hợp tác chính
thức (Quan hệ song phương), hợp nhất dọc đầy đủ (Quan hệ hợp nhất) [36].
Minot N. (2007), đã tổng kết 4 loại quan hệ quản lý: Quan hệ thị trường, quan hệ
thứ bậc (hay quan hệ quyền lực), quan hệ mạng lưới (network) và quan hệ xã hội [37].


3

Gina Porter và Kenvin Phillips-Howardb (2007) lại đưa ra 5 loại quản trị thị
trường chuỗi giá trị toàn cầu: Tự do, chìa khóa trao tay, liên kết, ràng buộc và hợp nhất
theo chiều dọc [31].
Prowse M. (2012) đề xuất rằng bất kỳ hoạt động kinh tế nào cũng có thể được tổ
chức bởi một sự tiệm cận của kết cấu quản trị ở giữa thị trường mở và sự hợp nhất dọc
đầy đủ và mỗi cấu trúc này có thể được biểu hiện bởi một số hình thức hợp đồng [35].
Tóm lại, có thể có 4 cách tiếp cận khác nhau về bản chất của liên kết kinh tế:
(i)Xem liên kết kinh tế là một cơ chế kinh tế;(ii) Xem liên kết kinh tế là một hình thức
tổ chức sản xuất;(iii) Xem liên kết kinh tế vừa là cơ chế kinh tế vừa là hình thức tổ
chức sản xuất và đều này đồng nghĩa với việc xem liên kết kinh tế là một thể chế kinh
tế;(iv) Xem liên kết kinh tế là một quá trình kinh tế [38]. Dưới giác độ kinh tế - chính
trị, luận văn này lựa chọn cách tiếp cận xem liên kết kinh tế là một thể chế kinh tế.
Có thể thấy, nếu như đã có nhiều học giả nghiên cứu về liên kết kinh tế vùng,
thì ngược lại còn thiếu vắng những nghiên cứu về liên kết kinh tế của hộ nông dân
trong nền kinh tế thị trường. Đây là khoảng trống cần tiếp tục nghiên cứu nhất là ở
những nước có nền kinh tế nông dân chưa phát triển như Việt Nam.
2.2. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
2.2.1. Những quan niệm cơ bản về kinh tế hộ nông dân
Về phương diện lý luận, khái niệm kinh tế hộ và kinh tế hộ nông dân đã được

nghiên cứu một cách rõ ràng và không phải bàn luận thêm. Theo đó, kinh tế hộ là các
hoạt động kinh tế của hộ gia đình và những lợi ích kinh tế mà hoạt động đó mang lại [25].
Trong bối cảnh nghiên cứu của thời kỳ đầu đổi mới, khi Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị
năm 1988 ra đời, kinh tế hộ đồng nghĩa với kinh tế hộ nông nghiệp, bởi số lượng hộ gia
đình nông thôn vẫn rất đông đảo. Kinh tế hộ nông dân là một hình thức kinh tế cơ bản và
tự chủ trong nông nghiệp, được hình thành và tồn tại khách quan, lâu dài dựa trên cơ sở
sử dụng lao động, đất đai và tư liệu sản xuất khác của gia đình là chính. Kinh tế hộ khu
vực thành thị có được đề cập trong các nghiên cứu điều tra của Vũ Tuấn Anh (1995) [1],
và trong những nghiên cứu gần đây nhất về kinh tế hộ như Chu Tiến Quang (2007), Lê
Xuân Đình (2008), nhưng về cơ bản Kinh tế hộ nông dân vẫn là đối tượng nghiên cứu
chủ yếu. Do tồn tại khác biệt lớn về số lượng cũng như về đặc tính hộ giữa khu vực nông
thôn và thành thị, nên kinh tế hộ ở thành thị thường được nghiên cứu riêng rẽ.


4

Về vai trò của kinh tế hộ nông dân. Các nghiên cứu đều thống nhất về tính phổ
biến và vai trò của kinh tế hộ nông dân ở cả Việt Nam và trên thế giới. Nó có vai trò
rất quan trọng trong đời sống và phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong phát triển
nông nghiệp. Ở Việt Nam, kinh tế hộ nông dân lại càng có ý nghĩa to lớn hơn, bởi Việt
Nam bước vào nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị
trường trên nền tảng hơn 80% dân số sinh sống ở nông thôn, điểm xuất phát để tiến
hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa lại từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào sản xuất nông
nghiệp, quản lý theo cơ chế tập trung, bao cấp [12], [13].
Mặc dù không phải là một thành phần kinh tế, nhưng kinh tế hộ nông dân là một
loại hình để phân biệt với các hình thức tổ chức kinh tế khác. Một trong các thành viên
của kinh tế hộ nông dân đồng thời lại là chủ hộ gia đình. Trong hoạt động kinh tế, gia
đình có thể tiến hành tất cả các khâu của quá trình sản xuất và tái sản xuất. Chủ hộ điều
hành toàn bộ mọi quá trình sản xuất, kinh doanh và chịu trách nhiệm vô hạn về mọi hoạt
động đó [13]. Ở Việt Nam, kinh tế hộ gia đình phát triển chủ yếu ở nông thôn, thường

được gọi là kinh tế hộ gia đình nông dân. Trong khu vực nông thôn Việt Nam, có thể
nói hoạt động của kinh tế hộ nông dân gắn liền với sự hiện diện của hộ gia đình. Mặt
khác, do sự song trùng vừa là đơn vị kinh tế, vừa là đơn vị xã hội cơ bản, nên trong các
hoạt động kinh tế của hộ gia đình nông dân, ngoài chịu sự tác động của các yếu tố kinh
tế, còn phải chịu sự chi phối của các yếu tố xã hội (như nhân khẩu, giới tính, sức khỏe,
trình độ học vấn...) [5]. Thực tiễn đó, một mặt đã và đang quy định tính đa dạng, phong
phú, không đồng nhất của các hoạt động kinh tế diễn ra ở hộ gia đình nông dân.
2.2.2. Những khó khăn, thách thức hiện nay của kinh tế hộ nông dân
Đánh giá sau gần 30 năm đổi mới đất nước, chúng ta có thể khẳng định vấn đề
nông nghiệp, nông thôn và nông dân, trong đó đặc biệt vấn đề kinh tế hộ nông dân đã có
nhiều thay đổi lớn [1]. Các mô hình sản xuất nông nghiệp kết hợp theo hình thức hộ sản
xuất hàng hóa đã xuất hiện và phát triển ở nhiều nơi. Tuy nhiên, những khó khăn của kinh
tế hộ nông dân cũng xuất hiện, nằm ở quy mô đất đai, nguồn tài chính, nhân lực, khả
năng quản trị, khả năng kết nối và khả năng chống chịu rủi ro. Theo Lê Xuân Đình
(2008) thì những khó khăn và thách thức lớn đối với nông dân nước ta nói chung và kinh
tế hộ nói riêng, trong tiến trình hội nhập ngày một sâu vào kinh tế thế giới, là chênh lệch
lớn về năng suất lao động giữa công nghiệp, dịch vụ và nông nghiệp. Hộ nông dân


5

thường rất dễ bị tổn thương trước sự chi phối khắc nghiệt của quy luật thị trường. Vốn
tích lũy của các hộ gia đình cũng có sự phân biệt khá rõ giữa các loại hình sản xuất [15].
Mặc dù công nhận tính tích cực của kinh tế hộ nông dân, nhưng một số học giả
như Nguyễn Thế Trường (2002), đã đưa ra những số liệu và bằng chứng khẳng định rằng,
kinh tế hộ nông dân không còn đủ khả năng tiến xa hơn do có sự ràng buộc bởi nhiều
điều kiện như quy mô, tiềm lực kinh tế, khả năng thâm nhập thị trường. Ngoài ra, do diện
tích đất nông nghiệp bị thu hẹp để phát triển đô thị và công nghiệp, nền sản xuất hàng hóa
đã phát triển đến một mức độ nhất định và hội nhập kinh tế sâu rộng hơn, kinh tế hộ đã
tận dụng hết tiềm năng của mình và không còn là động lực để đưa nông nghiệp phát triển

lên sản xuất lớn hay công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn [7].
2.2.3. Về xu hướng phát triển của kinh tế hộ nông dân
Về xu hướng phát triển của kinh tế hộ nông dân ở Việt Nam hiện nay, cũng có
nhiều nhận định khác nhau. Nhiều nghiên cứu đều cho rằng cần phải phát triển kinh tế
hộ nông dân theo hướng sản xuất hàng hoá, tích tụ ruộng đất, phát triển theo mô hình
kinh tế trang trại gia đình với việc đa dạng hóa loại hình, đa dạng hóa sản xuất kinh
doanh theo hướng tập trung hóa, chuyên môn hóa và phát huy lợi thế so sánh của từng
địa phương. Hiện nay chính sách dồn điền đổi thửa đang được thực hiện ở nhiều nơi,
nhất là ở khu vực đồng bằng [15]. Vấn đề tích tụ ruộng đất thực ra cũng đã được đề cập
từ trước đó, trong các nghiên cứu như của Trần Đức (1995), ông cho rằng đất đai cho
sản xuất của nông nghiệp theo mô hình trang trại phải lớn, còn theo tác giả Nguyễn
Ngọc Tuân (1999), lại đưa ra nhận định quá trình “tích tụ ruộng đất” để hình thành phát
triển các nông trại lớn trong bối cảnh nông nghiệp ở nước ta là khó thực hiện. Cùng với
quan điểm về tích tụ đất đai trong sản xuất nông nghiệp của hộ nông dân và nông trại,
một số tác giả khác lại đưa ra những cảnh bảo về những nguy cơ trong chính sách hoạch
định phát triển loại hình kinh tế này, đó là việc tích tụ ruộng đất thiếu kiểm soát sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến lực lượng lao động còn lớn ở nông thôn hiện nay của Việt Nam,
dẫn đến nguy cơ nông dân bị thất nghiệp càng cao, theo đó sẽ gây ra những hậu quả xấu
về mặt xã hội [16]. Trong khi đó, quy định hạn điền để hướng tới sự công bằng tương
đối lại mâu thuẫn với việc tập trung đất đai cho sản xuất hàng hóa quy mô lớn [10].


6

2.2.4. Những nghiên cứu về liên kết kinh tế
Trần Đức Thịnh(1984) cho rằng liên kết kinh tế là sự quan hệ kinh tế giữa các
tổ chức, các ngành, các địa phương và các đơn vị kinh tế. Liên kết kinh tế vừa là hình
thức tổ chức sản xuất vừa là cơ chế quản lý [23]
Vũ Minh Trai (1993) cho rằng Liên kết kinh tế là những quan hệ phối hợp hoạt
động giữa các doanh nghiệp và các chủ thể kinh doanh khác [24].

Quyết định số 38/HĐBT ngày 10 tháng 4 năm 1989 về “Liên kết kinh tế trong
sản xuất, lưu thông, dịch vụ” của nhà nước đã nêu liên kết kinh tế là những hình thức
phối hợp hoạt động, do các đơn vị kinh tế tự nguyện tiến hành để cùng nhau bàn bạc
và đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến công việc sản xuất, kinh doanh
của mình, nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển theo hướng có lợi nhất[17].
Nguyễn Đình Phan (1992) đã đưa ra khỏi khái niệm liên kết kinh tế những hình
thức quan hệ kinh tế thông thường như: Mua bán trao đổi hàng hóa thông thường, thuê
mướn đất đai, nhà xưởng, địa điểm kinh doanh, cho vay vốn[19].
Hoàng Kim Giao (1989) theo một cách tiếp cận khác đã cho rằng đặc trưng của
liên kết kinh tế cũng là quan hệ kinh tế , nhưng không phải là mọi loại quan hệ kinh tế
mà chỉ những quan hệ kinh tế diễn ra trong các hình thức tổ chức sản xuất đặc thù của
liên kết kinh tế như hợp tác, liên doanh, liên hợp trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh[7].
Dương Bá Phượng (1995) là người tổng kết và phát triển các khái niệm trước
đó khi cho rằng liên kết kinh tế là những hình thức hay những biểu hiện của sự phối
hợp hoạt động giữa các thành viên liên kết không chỉ để thực hiện quan hệ kinh tế bất
kỳ mà là nhằm xích lại gần nhau và ngày càng cố kết, đi đến thống nhất để đạt đến
trình độ gắn bó chặt chẽ, ổn định, thường xuyên, lâu dài, thông qua những thoả thuận
hợp đồng từ trước giữa các bên và là khâu trung gian đi đến sát nhập, kết hợp, hợp
nhất hình thành một doanh nghiệp mới, có qui mô lớn hơn và theo đó thực chất của
liên kết kinh tế là quá trình xã hội hóa sản xuất”[18].
Bách khoa toàn thư Việt Nam định nghĩa liên kết kinh tế là hình thức hợp tác
và phối hợp thường xuyên các hoạt động do các đơn vị tự nguyện tiến hành để cùng đề
ra và thực hiện các chủ trương, biện pháp có liên quan đến công việc sản xuất kinh
doanh của các bên tham gia nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển theo hướng
có lợi nhất. Được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi thông qua


7

hợp đồng kinh tế ký kết giữa các bên tham gia và trong khuôn khổ pháp luật của nhà

nước [4].
2.2.5. Những nghiên cứu về liên kết kinh tế vùng
Trong thời gian qua, liên kết vùng đã thu hút được một số nhà nghiên cứu. Các
tác giả Nguyễn Đức Tuấn, Nguyễn Viết Thịnh và Đỗ Thị Minh Đức đã tập trung
nghiên cứu khoa học về phân vùng để phân nhóm các tỉnh/thành phố theo trình độ
phát triển. Từ đó, giúp nhà nước có chính sách phát triển riêng cho từng vùng, từng địa
bàn theo trình độ phát triển tương ứng. Các nghiên cứu này chưa đề cập nhiều tới tới
liên kết vùng và giải pháp để các vùng phát triển bền vững [21].
Cơ chế liên kết vùng và việc hình thành các tổ chức điều phối vùng đã được các
tác giả Lê Thế Giới, Đinh Sơn Hùng và cộng sự, Trần Hữu Hiệp (Văn phòng Ban Chỉ
đạo Tây Nam Bộ) đề cập nhiều. Đặc biệt, tác giả Đinh Sơn Hùng và cộng sự đã đề
cập tới Mô hình xây dựng cơ chế liên kết kinh tế tổng quát – mô hình được nhiều nước
trên thế giới áp dụng (như Đức, Phần Lan, ..) [22]. Tuy nhiên, khi đề xuất mô hình liên
kết cho Việt Nam, tác giả Đinh Sơn Hùng và cộng sự lại đề xuất mô hình tương đối
giống với mô hình đang được áp dụng hiện nay. Mô hình này mang tính chất mệnh
lệnh từ trên xuống (up – down) nên chưa tạo ra sự bình đẳng giữa các thành viên liên
kết và chưa phát huy được tính chủ động của người dân và chính quyền địa phương;
chưa làm rõ lợi ích của người dân trong liên kết vùng; chưa có cơ chế thu hút tài chính
để có thể thực hiện những công việc của vùng [9].
Để bổ sung cho các nghiên cứu trong nước, nhóm tác giả Nguyễn Xuân Cường
(Viện Nghiên cứu Trung Quốc) đã có các báo cáo về hợp tác Vùng Chu Giang mở
rộng (Trung Quốc), Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương đã khảo sát liên kết
vùng ở Cộng hòa Liên bang Đức… Đây là những gợi ý quan trọng về thực tiễn giúp
cho các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam có điều kiện so sánh, cân nhắc trong
chính sách phát triển liên kết vùng của Việt Nam [8].
Đối với vùng KTTĐ Bắc Bộ, nhóm tác giả Ngô Doãn Vịnh, Lê Văn Nắp và
cộng sự, Vũ Thành Hưởng đã có những nghiên cứu về tiềm năng, thế mạnh và mối
quan hệ giữa vùng KTTĐ Bắc Bộ với các vùng xung quanh. Đặc biệt, tác giả Vũ
Thành Hưởng đã đề cập tới việc phát triển bền vững của các khu công nghiệp trong
vùng KTTĐ Bắc Bộ. Tuy nhiên, các đề tài này chưa gắn được mối liên kết giữa vùng



8

KTTĐ Bắc Bộ với khu vực, và quốc tế, chưa đưa ra được mô hình liên kết mới cũng
như chưa xác định được vai trò của nhà nước trong việc thúc đẩy liên kết, đưa vùng
KTTĐ Bắc Bộ phát triển bền vững [9].
Như vậy, trên thế giới và Việt Nam đã có nhiều công trình nghiên cứu về cách
phân vùng lãnh thổ - kinh tế và liên kết vùng, đặc biệt là liên kết kinh tế. Tất cả các tác
giả đều chỉ ra sự cần thiết phải liên kết vùng, tưởng chừng như không cần phải nghiên
cứu thêm nữa. Tuy nhiên, thực tế liên kết vùng ở Việt Nam đến nay không giống bất
cứ quốc gia nào trên thế giới ở hai lý do: Thứ nhất, liên kết vùng áp dụng đại trà trên
toàn quốc; Thứ hai, các công việc cụ thể của liên kết vùng thường được bàn thảo nhiều
mà ít được triển khai thành kết quả cụ thể. Như vậy, đâu là nguyên nhân của tình trạng
này và có giải pháp nào khắc phục được tình trạng trên, đưa lý thuyết, mô hình liên kết
vùng vào thực tiễn, góp phần đưa các vùng kinh tế trọng điểm phát triển bền vững?
Trong luận văn này chúng tôi tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
liên kết của hộ nông dân trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản với các hộ nông
dân khác, trang trại, hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, doanh nghiệp. Những kết quả
của luận văn hy vọng có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc hoạch định cơ sở
phát triển kinh tế xã hội ở các huyện miền núi nói chung và huyện Lâm Thao nói riêng
trong việc phát triển liên kết kinh tế hộ nông dân nhằm mang lại lợi ích cho người
nông dân, nâng cao hiệu quả kinh tế mang tính bền vững và ổn định; có thể sử dụng
làm tài liệu tham khảo cho các nghiên cứu giảng dạy ở các chuyên đề kinh tế liên
quan. Đồng thời xác lập những phương hướng và giải pháp có tính khả thi cho công
tác liên kết phát triển kinh tế hộ ở các huyện, các tỉnh miền núi theo hướng CNH –
HĐH và từng bước đưa kinh tế hộ tiến tới kinh tế tập thể kiểu mới.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu chung
Làm rõ thực trạng và giải pháp thúc đẩy liên kết kinh tế của hộ nông dân huyện

Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ.
3.2. Mục tiêu cụ thể
- Làm rõ cơ sở lý luận về liên kết kinh tế của hộ nông dân
- Làm rõ thực trạng liên kết kinh tế của hộ nông dân huyện Lâm Thao; những


9

mặt được và hạn chế; nguyên nhân hạn chế từ 2012 - 2015.
- Đề xuất các giải pháp thúc đẩy liên kết kinh tế của hộ nông dân huyên Lâm
Thao, tỉnh Phú Thọ đến 2020.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là liên kết kinh tế của hộ nông dân huyện Lâm Thao,
tỉnh Phú Thọ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
4.2.1. Phạm vi nội dung
Liên kết kinh tế của hộ nông dân là một đề tài có nội dung rất rộng và phức tạp.
Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề liên quan đến
liên kết của hộ nông dân trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản với các hộ nông
dân khác, trang trại, hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp, doanh nghiệp.
4.2.2. Phạm vi không gian
Về không gian: đề tài nghiên cứu liên kết kinh tế của các hộ nông dân trên địa
bản huyện Lâm Thao (Liên kết kinh tế của hộ nông dân không chỉ được nghiên cứu
trong pham vi huyện Lâm Thao mà còn nghiên cứu liên kết kinh tế của hộ nông dân
với các chủ thể bên ngoài phạm vi huyện Lâm Thao).
4.2.3. Thời gian nghiên cứu đề tài
Luận văn tập trung nghiên cứu thực trạng liên kết kinh tế của hộ nông dân từ
năm 2012 đến 2015 và các giải pháp thúc đẩy liên kết của hộ nông dân đến năm 2020.
4.2.4. Câu hỏi nghiên cứu

- Thực tế có tồn tại và phát triển các hình thức liên kết kinh tế của hộ nông dân
huyện Lâm Thao?
- Những yếu tố nào ảnh hưởng đến sự liên kết kinh tế của hộ nông dân huyện
Lâm Thao với các chủ thể khác?
- Những tồn tại, hạn chế trong liên kết kinh tế của hộ nông dân huyên Lâm Thao?
- Cần phải làm gì để thúc đẩy liên kết kinh tế của hộ nông dân ở huyện Lâm Thao
với với các chủ thể khác?


10

4.2.5. Giả thuyết nghiên cứu
Trong thời gian gần đây, liên kết trong sản xuất, chế biến và tiêu thụ nông sản
của các hộ nông dân trên địa bàn huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ với các chủ thể khác
ở trong và bên ngoài huyện đã phát triển, mang lại nhiều lợi ích cho nông dân. Tuy
nhiên, thực tế cho thấy còn tồn tại nhiều bất cập trong liên kết kinh tế hộ nông dân với
các chủ thể khác: tỷ lệ hộ nông dân tham gia liên kết thấp, liên kết thiếu bền vững,
hiệu quả liên kết thấp.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp thu thập số liệu
Nguồn số liệu luận văn thu thập gồm có nguồn số liệu thứ cấp và số liệu điều tra.
5.1.1. Thu thập số liệu thứ cấp
Số liệu, tài liệu thứ cấp bao gồm các tài liệu, báo cáo của UBND tỉnh Phú Thọ,
UBND huyên Lâm Thao, UBND các xã khảo sát, các phòng ban có liên quan của
huyện Lâm Thao như Phòng Nông nghiệp – Nông thôn, Phòng Tài nguyên và môi
trường, Phòng khuyến nông, Bảo vệ thực vật, Hội Nông dân, Hội phụ nữ, …
5.1.2. Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp
Để thu thập số liệu mới luận văn tiến hành điều tra thực địa tại một số xã, thị
trấn và các doanh nghiệp trên địa bàn huyện Lâm Thao. Trong đợt điều tra thực địa,
luận văn sử dụng hai phương pháp chính: phương pháp phỏng vấn sâu và phương

pháp điều tra bằng bảng hỏi.
* Chọn điểm nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, địa điểm nghiên cứu phải đại diện cho vùng
nghiên cứu về các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội, môi trường, văn hóa.
Đối với từng điểm, luận văn lựa chọn những sản phẩm có sự phát triển tương đối
tốt của vùng đó, để qua đó bên cạnh việc phân tích, đánh giá thực trạng liên kết còn
hướng tới việc đưa ra những bài học, khuyến nghị nhằm tăng cường mối liên kết giữa
các chủ thể trong sản xuất, tiêu thụ nông sản trên địa bàn nghiên cứu. Cụ thể như sau:
- Sản phẩm lúa, rau màu: Xã Xuân Huy (Công ty TNHH giống cây trồng Phú Thọ).
- Các Sản phẩm làng nghề như: bánh truyền thống ở Xã Xuân Lũng (với Công ty cổ
phần Làng Dòng), Tương Dục Mỹ, Làng nghề nuôi Rắn ở Cao Xá, Làng nghề Gạch
và vật liệu xây dựng ở Xuân Huy,…
- Sản phẩm giống vật nuôi: lợn con giống ở Hợp Hải, Tôm, cá ở Thạch Sơn.
* Phương pháp điều tra bảng hỏi:


11

Để thu thập số liệu mới tôi sử dụng phương pháp điều tra bảng hỏi đối với các
cán bộ chủ chốt ở huyện, xã, các chủ doanh nghiệp, tiểu thương, chủ trang trại, các cán
bộ khoa học…ở những điểm nghiên cứu. Cụ thể điều tra các nhóm:

Đối với nhóm cán bộ huyện, xã, thị trấn: điều tra bảng hỏi đối với 22 cán bộ hiện
là phó chủ tịch huyện, chủ tịch các xã, chủ tịch hội nông dân, hội phụ nữ, tín dụng các xã.

Đối với nhóm Doanh nghiệp: chúng tôi tiến hành điều tra bảng hỏi ở 8 doanh
nghiệp tiêu biểu trong liên kết kinh tế với hộ nông dân: Công ty Cổ phẩn ủ ấm Sơn
Vy, Công ty cổ phần Làng Dòng (Xuân Lũng), Công ty TNHH thương mại và thủy
sản Hà Anh (Xuân Lũng), Công ty Cp Gạch và vật liệu cao cấp Xuân Huy, Công ty
TNHH Giống cây trồng Phú Thọ (Xuân Huy), Hội chăn nuôi và chế biến Rắn Cao Xá,

Công ty TNHH chế biến thực phẩm GOC (Kinh Kệ), Công ty CP mộc và đồ gỗ mỹ
nghệ Việt Tiến (Tứ Xã).

Các hộ nông dân ở 14 xã, thị trấn thuộc huyện Lâm Thao: 500 chủ hộ, chủ
trang trại trong huyện.

Đối với các cán bộ làm khoa học trên địa bàn nghiên cứu: điều tra bảng hỏi đối
với các cán bộ khuyến nông, BVTV, các kỹ sư của các doanh nghiệp kinh doanh vật
tư nông nghiệp trên địa bàn.
* Phương pháp phỏng vấn sâu:
Đối với phương pháp phỏng vấn sâu, tôi tiến hành phỏng vấn trực tiếp tại 5 xã
(Cao Xá, Xuân Huy, Kinh Kệ, Tứ Xã, Xuân Lũng) trong đó mỗi xã phỏng vấn 100 hộ.
Đây là các xã, các hộ có các sản phẩm phát triển tương đối tốt theo mô hình liên kết
kinh tế hộ về sản xuất cũng như tiêu thụ nông sản giữa các hộ trong xã, trong huyện với
nhau và với các thương lái bên ngoài huyện. Với phương pháp phỏng vấn, chúng tôi
đưa ra các câu hỏi phỏng vấn chủ yếu đòi hỏi người dân đưa ra ý kiến chủ quan của
mình về mối liên kết kinh tế đang diễn ra giữa họ với các chủ thể khác. Từ đó tìm hiểu
thực trạng, tác động và nhu cầu thực đồng thời đưa ra được các giải pháp giúp tăng
cường mối liên kết kinh tế giữa hộ nông dân với các chủ thể khác trên địa bàn.
5.2. Phương pháp phân tích số liệu
5.2.1. Phương pháp xử lý số liệu
Luận văn sử dụng phần mềm Excel để xử lý số liệu.
5.2.2. Phương pháp thống kê so sánh
Phương pháp này được sử dụng chủ yếu để mô tả, phân tích và so sánh kết quả
thực hiện liên kết giữa các nhà thông qua các chỉ tiêu định tính (các hình thức liên kết,


12

trách nhiệm và lợi ích của các bên...) và định lượng (thời gian tham gia liên kết, tỷ lệ

tham gia liên kết...).
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận và kiến nghị, danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn được chia thành ba chương như sau:
Chương 1: Cơ sở lý luận và kinh nghiệm thực tiễn về liên kết kinh tế của hộ
nông dân.
Chương 2: Thực trạng liên kết kinh tế của hộ nông dân huyện Lâm Thao từ
2012 đến 2014
Chương 3: Quan điểm, định hướng và giải pháp tăng cường liên kết của hộ
nông dân ở huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ đến năm 2020.

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ LIÊN KẾT KINH TẾ
CỦA HỘ NÔNG DÂN
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
a, Khái niệm về liên kết kinh tế


13

Liên kết nói chung, liên kết trong nông nghiệp và liên kết trong sản xuất nông
nghiệp nói riêng đều có bản chất chung là liên kết.
Khái niệm liên kết xuất phát từ tiếng Anh “integration” mà trong hệ thống thuật
ngữ kinh tế có nghĩa là sự hợp nhất, sự phối hợp hay sát nhập của nhiều bộ phận thành
một chỉnh thể. Trước đây khái niệm này được biết đến với tên gọi là nhất thể hóa và
gần đây mới gọi là liên kết [26].
Theo từ điển thuật ngữ kinh tế học của Viện nghiên cứu và phổ biến tri thức
bách khoa thì “Liên kết kinh tế là hình thức hợp tác, phối hợp hoạt ñộng do các đơn vị
kinh tế tự nguyện tiến hành nhằm thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển theo hướng

có lợi nhất trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước. Mục tiêu là tạo ra mối liên kết
kinh tế ổn định thông qua các hoạt ñộng kinh tế hoặc các quy chế hoạt động ñể tiến
hành phân công sản xuất, khai thác tốt tiềm năng của các đơn vị tham gia liên kết để
tạo ra thị trường tiêu thụ chung, bảo vệ lợi ích cho nhau”.
Theo David (1999) “Liên kết kinh tế chỉ các tình huống khi mà các khu vực
khác nhau của một nền kinh tế thường là khu vực công nghiệp và nông nghiệp hoạt
động phối hợp với nhau một cách có hiệu quả và phụ thuộc lẫn nhau, là một yếu tố của
quá trình phát triển. Điều kiện này thường đi kèm với sự tăng trưởng bền vững”.
Điều 1 quyết định số 38/1989/QĐ-HĐBT ngày10/04/1989 của Hội đồng bộ
trưởng về liên kết kinh tế trong SX lưu thông và dịch vụ: “Liên kết kinh tế là những
hình thức phối hợp hoạt động do các đơn vị kinh tế tiến hành để cùng nhau bàn bạc và
đề ra các chủ trương, biện pháp có liên quan đến công việc SX kinh doanh của mình
nhằm thúc đẩy SX theo hướng có lợi nhất”.
Trần Văn Hiếu (2005) cho rằng: “Liên kết kinh tế là quá trình xâm nhập, phối hợp
với nhau trong SX kinh doanh của các chủ thể kinh tế dưới các hình thức tự nguyện nhằm
thúc đẩy SX kinh doanh theo hướng có lợi nhất trong khuôn khổ luật pháp, thông qua hợp
đồng kinh tế để khai thác tốt các tiềm năng của các chủ thể tham gia liên kết. Liên kết
kinh tế có thể tiến hành theo chiều dọc hoặc chiều ngang, trong nội bộ ngành hoặc giữa
các ngành, trong một quốc gia hay nhiều quốc gia, trên phạm vi khu vực và quốc tế”.
Theo Phạm Thị Minh Nguyệt (2006) cho rằng: “Liên kết kinh tế chính là những
phương thức hoạt động của các hình thức hợp tác kinh tế, liên kết kinh tế phát triển
ngày càng phong phù, đa dạng theo sự phát triển của hợp tác kinh tế; tất cả các mối


14

quan hệ kinh tế được hình thành giữa hai hay nhiều đối tác với nhau dựa trên những
hợp đồng đã ký kết với những thoả thuận nhất định được gọi là liên kết kinh tế”.
Theo Hồ Quế Hậu (2012), Liên kết kinh tế trong kinh tế thị trường và hội nhập
kinh tế là sự chủ động nhận thức và thực hiện mối liên hệ kinh tế khách quan giữa các

chủ thể kinh tế trong nền kinh tế xã hội, nhằm thực hiện mối quan hệ phân công và
hợp tác lao động để đạt tới lợi ích kinh tế xã hội chung.
Qua đó, chúng tôi cho rằng: Liên kết kinh tế là một phạm trù khách quan phản
ánh những quan hệ giữa các chủ thể sản xuất, kinh doanh nhằm tiết kiệm thời gian, tiết
kiệm chi phí, đạt hiệu quả cao hơn trong sản xuất kinh doanh nông sản, tạo ra sức
mạnh cạnh tranh, cùng nhau chia sẻ các khả năng, mở ra những thị trường mới. Mục
tiêu của liên kết kinh tế là các bên tìm cách bù đắp sự thiếu hụt của mình từ sự phối
hợp hoạt động với các đối tác nhằm đem lại lợi ích cho các bên.
b, Liên kết trong sản xuất – kinh doanh nông nghiệp
Khác với các ngành sản xuất – kinh doanh khác, sản xuất – kinh doanh nông
nghiệp có những đặc thù riêng do có đặc điểm riêng của ngành nông nghiệp, chẳng
hạn như: các sản phẩm nông nghiệp có chu kỳ sản xuất kinh doanh rất khác nhau (kể
cả trong cùng một sản phẩm cũng có những điểm đặc thù như: có cây trồng chu kỳ
thay giống mới kéo dài vài năm mới thay giống một lần…, khác với các khâu khác
như kỹ thuật, chăm sóc, tiêu thụ… lại diễn ra thường xuyên); các tác nhân (tổ chức, cá
nhân) tham gia sản xuất – kinh doanh cũng rất đa dạng, đặc biệt là các hộ cá thể… Do
vậy, liên kết trong sản xuất – kinh doanh nông nghiệp cũng có những điểm khác biệt,
và có thể được định nghĩa như sau:
“Liên kết trong sản xuất – kinh doanh nông nghiệp là hình thức phối hợp, hợp tác
thường xuyên các hoạt động do các đơn vị kinh tế tự nguyện tiến hành để cùng nhau đề
ra và thực hiện các công việc sản xuất kinh doanh của các bên tham gia nhằm thúc đẩy
sản xuất, kinh doanh phát triển theo hướng có lợi nhất. Liên kết kinh tế được xây dựng
trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, cùng có lợi thông qua hợp đồng kinh tế ký kết
giữa các bên tham gia dưới hai hình thức chủ yếu là hợp đồng bằng văn bản (hợp đồng
chính thống) trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước và hợp đồng phi chính thống
(thỏa thuận miệng). Mục tiêu của liên kết kinh tế là tạo ra mối quan hệ kinh tế ổn định,
hoặc các quy chế hoạt động để tiến hành phân công sản xuất chuyên môn hóa, hợp tác
hóa, nhằm khai thác tốt tiềm năng của mỗi đơn vị tham gia liên kết, hoặc để cùng nhau



15

tạo ra thị trường chung, phân định hạn mức sản lượng cho từng đợn vị thành viên, giá cả
cho từng loại sản phẩm, nhằm bảo vệ lợi ích của nhau và cùng có lợi. Trong liên kết các
đơn vị thành viên có tư cách pháp nhân đầy đủ và không đầy đủ, không phân biệt hình
thức sở hữu, quan hệ trực thuộc về mặt quản lý Nhà nước, ngành kinh tế - kỹ thuật hay
lãnh thổ. Trong khi tham gia liên kết, không một đơn vị thành viên nào bị mất quyền tự
chủ của mình, không được miễn giảm bất cứ nghĩa vụ nào đối với Nhà nước theo pháp
luật hoặc nghĩa vụ hợp đồng đã ký với các đơn vị khác.
1.1.2. Các khái niệm liên quan đến kinh tế hộ nông dân
1.1.2.1. Khái niệm hộ
Hộ đã có từ lâu đời, cho đến nay nó vẫn tồn tại và phát triến. Trải qua mỗi thời
kỳ kinh tế khác nhau, hộ và kinh tế hộ được biểu hiện dưới nhiều hình thức khác nhau
song vẫn có bản chất chung đó là:“Sự hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành
viên trong gia đình cố gắng làm sao tạo ra nhiều của cải vật chất đế nuôi sống và tăng
thêm tích luỹ cho gia đình và xã hội”.
Theo Martin (1988) thì hộ là đơn vị cơ bản liên quan đến sản xuất, tái sản xuất,
đến tiêu dùng và các hoạt động xã hội khác. Theo Harris, ở viện nghiên cứu phát triển
trường Đại học tổng hợp Susex (Lon Don- Anh) cho rằng: “Hộ là một đơn vị tự nhiên
tạo nguồn lao động” Theo Raul Iturna, giáo sư trường đại học tổng hợp Liôbon khi
nghiên cứu cộng đồng nông dân trong quá trình quá độ ở một số nước châu Á đã chứng
minh “Hộ là một tập hợp những người cùng chung huyết tộc có quan hệ mật thiết với
nhau trong quá trình sáng tạo ra vật phẩm để bảo tồn chính bản thân họ và cộng đồng”.
Qua các quan điểm khác nhau về khái niệm hộ trên, có thể rút ra một số đặc trưng về
hộ. Hộ là một nhóm người cùng chung huyết tộc hay không cùng huyết tộc. Hộ cùng
sống chung hay không cùng sống chung một mái nhà. Có chung một nguồn thu nhập và
ăn chung, cùng tiến hành sản xuất chung.
Qua nghiên cứu cho thấy, có nhiều quan niệm của các nhà khoa học về hộ:
- Theo từ điển chuyên ngành kinh tế và từ điển ngôn ngữ "Hộ là tất cả những
người cũng sổng chung trong một mủi nhà. Nhóm người đó bao gồm những người

cùng chung huyết tộc và những người làm công".
- Theo Liên hợp quốc "Hộ là những người cùng sổng chung dưới một mái nhà,
cùng ăn chung và có chung một ngân quỹ".


16

1.1.2.2. Kinh tế hộ nông dân
GS. Frank Ellis (1988) cho rằng kinh tế nông hộ khác những người làm kinh tế
khác trong nền kinh tế thị trường ở 3 yếu tố: đất đai, lao động, vốn “Kinh tế nông hộ là
một hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền kinh tế xã hội. Các nguồn lực đất đai, tư
liệu sản xuất, vốn, lao động được góp chung, chung một ngân sách, ngủ chung một
mái nhà, ăn chung, mọi quyết định trong sản xuất kinh doanh và đời sống đều do chủ
hộ phát ra” Từ khái niệm trên đã thống nhất những vấn đề cơ bản của kinh tế nông hộ
đó là: Kinh tế hộ nông dân là đơn vị hoạt động của xã hội, làm cơ sở cho phân tích
kinh tế. Các nguồn lực cùng được góp vào thành nguồn vốn chung của mọi thành viên
trong gia đình và cùng chung một ngân sách. Cùng sống chung dưới một mái nhà.
Kinh tế hộ nông dân là loại hình kinh tế có qui mô hộ gia đình, trong đó các
hoạt động chủ yếu là dựa vào lao động gia đình.
Phát triển kinh tế là quá trình tăng tiến về mọi mặt của nền kinh tế trong một
thời kỳ nhất định. Trong đó bao gồm cả sự tăng lên về quy mô sản lượng và tiến bộ
mọi mặt của xã hội hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý.
1.1.2.3. Đặc điểm của kinh tế hộ nông dân
Dựa vào các khái niệm và các đặc trưng của kinh tế hộ nông dân ta có thể thấy
các đặc điểm cơ bản của kinh tế hộ nông dân là:
- Hoạt động của kinh tế hộ nông dân chủ yếu là dựa vào lao động gia đình hay
là lao động có sẵn mà không cần phải thuê ngoài. Các thành viên tham gia hoạt động
kinh tế hộ có quan hệ gắn bó với nhau về kinh tế và huyết thống.
- Đất đai là tư liệu sản xuất quan trọng nhất không thể thiếu của sản xuất kinh tế
hộ nông dân.

- Người nông dân là người chủ thật sự của quá trình sản xuất trực tiếp tác động
vào sinh trưởng, phát triển của cây trồng vật nuôi, không qua khâu trung gian, họ làm
việc không kể giờ giấc và bám sát vào tư liệu sản xuất của họ.
- Kinh tế nông hộ có cấu trúc lao động đa dạng, phức tạp, trong một hộ có nhiều
loại lao động vì vậy chủ hộ vừa có khả năng trực tiếp điều hành, quản lý tất cả các
khâu trong sản xuất, vừa có khả năng tham gia trực tiếp quá trình đó.


17

- Do có tính thống nhất giữa lao động quản lý và lao động sản xuất nên kinh tế
hộ nông dân giảm tối đa chi phí sản xuất, và nó tác động trực tiếp lên lao động trong
hộ nên có tính tự giác để nâng cao hiệu quả và năng suất lao động.
1.1.2.4. Vai trò của kinh tế hộ nông dân đối với phát triển kinh tế - xã hội
* Kinh tế hộ nông dân với vấn đề việc làm và sử dụng tài nguyên ở nông thôn.
Việc làm hiện nay là một vấn đề cấp bách với nông thôn nói riêng và với cả
nước nói chung. Đặc biệt nước ta có tới 80% dân sống ở nông thôn. Nếu chỉ trông chờ
vào khu vực kinh tế quốc doanh, Nhà nước hoặc sự thu hút lao động ở các thành phố
lớn thì khả năng giải quyết việc làm ở nước ta còn rất hạn chế. Lao động là nguồn lực
dồi dào nhất ở nước ta, là yếu tố năng động và là động lực của nền kinh tế quốc dân
nhưng việc khai thác và sử dụng nguồn nhân lực vẫn đang ở mức thấp.
Do chi phí cho một lao động ở nông thôn ít tốn kém nhất nên đây là một điều
kiện thuận lợi khi nền kinh tế còn nghèo, ít vốn tích luỹ. Mặt khác, là kinh tế độc lập
trong sản xuất kinh doanh hộ sản xuất đồng thời vừa là lao động chính, vừa là lao động
phụ thực hiện những công việc không nặng nhọc nhưng tất yếu phải làm.
Do việc gắn trực tiếp lợi ích cá nhân với quyền sử dụng, quản lý, lâu dài đất đai,
tài nguyên nên việc sử dụng của hộ sản xuất hết sức tiết kiệm và khoa học, không làm
giảm độ mầu mỡ của đất đai, hay cạn kiệt nguồn tài nguyên vì họ hiểu đó chính là lợi
ích lâu dài của họ trên mảnh đất mà họ sở hữu. Mặt khác, đối với hộ sản xuất, việc
khai hoang phục hoá cũng được khuyến khích tăng cường thông qua việc tính toán chi

li từng loại cây trồng vật nuôi để từng bước thay đổi bộ mặt kinh tế ở nông thôn, nâng
cao đời sống nông dân.
Tóm lại, khi hộ sản xuất được tự chủ về sản xuất kinh doanh, chịu trách nhiệm
về kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Đất đai, tài nguyên và các công cụ lao động
cũng được giao khoán. Chính họ sẽ dùng mọi cách thức, biện pháp sử dụng chúng sao
cho có hiệu quả nhất, bảo quản để sử dụng lâu dài. Họ cũng biết tự đặt ra định mức
tiêu hao vật tư kỹ thuật, khai thác mọi tiềm năng kỹ thuật vừa tạo ra công ăn việc làm,
vừa cung cấp được sản phẩm cho tiêu dùng của chính mình và cho toàn xã hội.
* Kinh tế hộ nông dân có khả năng thích ứng được thị trường thúc đẩy sản
xuất hàng hoá phát triển.
Kinh tế thị trường là tự do cạnh tranh trong sản xuất hàng hoá. Là đơn vị kinh tế độc
lập, các hộ sản xuất hoàn toàn được làm chủ các tư liệu sản xuất và quá trình sản xuất. Căn


18

cứ điều kiện của mình và nhu cầu của thị trường họ có thể tính toán sản xuất cái gì? sản
xuất như thế nào? Hộ sản xuất tự bản thân mình có thể giải quyết được các mục tiêu có
hiệu quả kinh tế cao nhất mà không phải qua nhiều cấp trung gian chờ quyết định. Với quy
mô nhỏ hộ sản xuất có thể dễ dàng loại bỏ những dự án sản xuất, những sản phẩm không
còn khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường để sản xuất loại sản phẩm thị trường cần mà
không sợ ảnh hưởng đến kế hoạch chi tiêu do cấp trên quy định.
Mặt khác, là chủ thể kinh tế tự do tham gia trên thị trường, hoà nhập với thị
trường, thích ứng với quy luật trên thị trường, do đó hộ sản xuất đã từng bước tự cải
tiến, thay đổi cho phù hợp với cơ chế thị trường. Để theo đuổi mục đích lợi nhuận, các
hộ sản xuất phải làm quen và dần dần thực hiện chế độ hạch toán kinh tế để hoạt động
sản xuất có hiệu quả, đưa hộ sản xuất đến một hình thức phát triển cao hơn.
Như vậy, kinh tế hộ sản xuất có khả năng ngày càng thích ứng với nhu cầu của
thị trường, từ đó có khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của toàn xã hội. Hộ sản
xuất cũng là lực lượng thúc đẩy mạnh sản xuất hàng hoá ở nước ta phát triển cao hơn.

* Đóng góp của hộ nông dân đối với phát triển bền vững xã hội
Như trên đã nói, hộ sản xuất đã đứng ở cương vị là người tự chủ trong sản xuất
kinh doanh ở các lĩnh vực khác nhau và góp phần quan trọng trong sự phát triển của
nền kinh tế.
Bên cạnh sản xuất lương thực, sản xuất nông sản hàng hoá khác cũng có bước
phát triển, đã hình thành một số vùng chuyên canh có năng suất cao như: chè, cà phê,
cao su, dâu tằm...
Tóm lại, kinh tế hộ sản xuất có vai trò hết sức quan trọng, nhất là khi quyền
quản lý và sử dụng đất đai, tài nguyên lâu dài được giao cho hộ sản xuất thì vai trò sử
dụng nguồn lao động, tận dụng tiềm năng đất đai, tài nguyên, khả năng thích ứng với
thị trường ngày càng thể hiện rõ nét. Người lao động có toàn quyền tổ chức sản xuất
kinh doanh, tiêu thụ sản phẩm, trực tiếp hưởng kết quả lao động sản xuất của mình, có
trách nhiệm hơn trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Ở một khía cạnh khác, kinh tế hộ sản xuất còn đóng vai trò đảm bảo an ninh trật
tự, ổn định chính trị xã hội, giảm bớt các tệ nạn trong xã hội do hành vi "nhàn cư vi
bất thiện" gây ra.
1.1.3. Tính tất yếu, cơ sở liên kết kinh tế của hộ nông dân


19

Liên kết kinh tế như đã phân tích ở phần trên, đó là sự hợp tác cùng phát triển của
hai hay nhiều bên không kể quy mô hay loại hình sở hữu. Mối quan hệ liên kết chính là
bảo đảm về lợi ích của các bên tham gia liên kết kinh tế. Do đó các bên tất yếu sẽ liên
kết với nhau nhằm đảm bảo, nâng cao lợi ích của mình. Điều đó được thể hiện:
- Chủ thể sản xuất, kinh doanh cá ngành, lĩnh vực (các doanh nghiệp, hợp tác
xã, hộ gia đình, trang trại..) có quy mô nhỏ và vừa thường bị các chủ thể lớn cạnh
tranh và mang lại bất lợi về lợi ích cho các chủ thể vừa và nhỏ. Trong hoạt động sản
xuất kinh doanh, mỗi chủ thể đều có một hoặc vài lĩnh vực chủ đạo, mang tính đặc
thù, chuyên biệt, hoặc có những sản phẩm đặc thù riêng; bên cạnh đó, là một loạt các

hoạt động phụ mà bản thân chủ thể không thể tự mình sản xuất ra thành phẩm, hoặc tự
thực hiện tiêu thụ được mà phải nhờ đến các chủ thể khác mới đảm bảo sản xuất và
tiêu thụ được sản phẩm ấy. Muốn vậy, phải có sự hợp tác giữa các chủ thể với doanh
nghiệp khác để tạo ra sản phẩm với quy mô lớn hơn và tiêu thụ được trên thị trường;
giảm thiểu được bất lợi trong hoạt động kinh tế theo cơ chế thị trường, tiết kiệm chi
phí sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh.
- Liên kết kinh tế còn giúp cho các chủ thể phản ứng nhanh với những thay đổi
của thị trường, tạo cơ hội đứng vững khi thị trường có những biến đổi bất lợi. Điều đó
thể hiện trong những trường hợp sau:
+ Nhu cầu của thị trường là luôn thay đổi, điều đó buộc các chủ thể sản xuất
vừa phải luôn thay đổi các mẫu mã của các sản phẩm hiện có, vừa phải tìm cách đa
dạng hóa sản phẩm. Chính sự liên kết kinh tế mới có thể giúp cho các chủ thể đạt
được điều mong muốn là thích ứng với thị trường.
+ Liên kết kinh tế giúp cho các chủ thể sản xuất kinh doanh tiêu thụ sản phẩm
của mình được nhanh hơn. Trong xu thế toàn cầu hóa các hình thức liên kết được thực
hiện với quy mô “xuyên quốc gia”; những sản phẩm hàng hóa do bản thân từng doanh
nghiệp khó tiêu thụ, nhưng nếu đặt trong vị trí liên kết thì dễ tiêu thụ được, từ đó thúc
sản xuất phát triển.
+ Liên kết kinh tế còn giúp các chủ thể có thể tiếp cận nhanh chóng với các
công nghệ, kỹ thuật mới vào sản xuất nhờ có sự phối hợp với các nhà nghiên cứu ở
các trường đại học hay cơ sở nghiên cứu trong và ngoài nước.
+ Liên kết kinh tế còn thúc đẩy liên kết, hỗ trợ nhau về vốn trước những thay
đổi của thị trường mà vượt ra ngoài khả năng đáp ứng của doanhh nghiệp, buộc các


×