BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SỸ
Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã ngành: 60380107
KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG
LĨNH THỊ TRƯỜNG, VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN THEO
PHÁP LUẬT VIỆT NAM
HỌC VIÊN THỰC HIỆN:
HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
NGUYỄN KHẮC MINH
Tiến sỹ ĐỒNG NGỌC BA
Hà Nội – 6/2015
i
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tôi đã nhận được sự quan tâm giúp đỡ
nhiệt tình, sự đóng góp quý báu của nhiều tập thể, cá nhân đã tạo mọi điều kiện
thuận lợi để tôi hoàn thành Luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Thầy giáo Tiến sĩ Đồng Ngọc Ba đã trực tiếp
hướng dẫn tôi trong suốt thời gian tôi nghiên cứu đề tài; cảm ơn sự góp ý và tạo
điều kiện giúp đỡ, tận tình giảng dạy của các cô giáo, thầy giáo khoa Luật và khoa
đào tạo sau đại học Viện Đại học mở Hà Nội trong suốt hai năm tôi học cao học tại
trường.
Tôi xin chân thành cảm ơn những người bạn, những đồng nghiệp đã giúp đỡ
tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Hà Nội, ngày 18 tháng 6 năm 2015
Tác giả Luận văn
Nguyễn Khắc Minh
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong công trình nào, các số liệu, thí
dụ trích dẫn trong luận văn là tin cậy và trung thực, có nguồn gốc rõ ràng đã được
công bố.
Tác giả luận văn
Nguyễn Khắc Minh
MỤC LỤC
ii
LỜI NÓI ĐẦU ..................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẠM DỤNG VỊ TRÍ
THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG, VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN VÀ PHÁP LUẬT
KIỂM SOÁT ĐỐI VỚI HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH
THỊ TRƯỜNG, VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN ............................................................. 5
1.1. Một số vấn đề lý luận về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc
quyền. ................................................................................................................... 5
1.1.1. Quan niệm về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền .......... 5
1.1.2. Các yếu tố cấu thành của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường,
vị trí độc quyền trong nền kinh tế thị trường......................................................... 9
1.1.3. Nguyên nhân và tác động của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, vị trí độc quyền trong nền kinh tế thị trường ........................................... 12
1.2. Pháp luật kiểm soát với hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị
trí độc quyền......................................................................................................... 16
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền .................................................................. 16
1.2.2. Vai trò của pháp luật trong việc kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường, vị trí độc quyền ............................................................................ 18
1.3. Pháp luật kiểm soát đối với hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường,
vị trí độc quyền của một số nước trên thế giới. ...................................................... 20
1.3.1. Kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền theo pháp
luật của Mỹ .......................................................................................................... 20
1.3.2. Kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền theo pháp luật
của Liên minh Châu Âu (EU) ................................................................................. 22
1.3.3. Kiểm soát hành vi vi phạm lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền theo
iii
Pháp luật Trung Quốc ............................................................................................. 23
CHƯƠNG 2: KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG
LĨNH THỊ TRƯỜNG, VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM ......................................................................................................... 26
2.1. Những quy định về xác định thị trường liên quan, xác định vị trí thống
lĩnh thị trường, vị trí độc quyền của doanh nghiệp. ............................................... 26
2.1.1. Xác định thị trường liên quan ..................................................................... 26
2.1.2. Xác định vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền ................................................. 31
2.2. Những quy định về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn
chế cạnh tranh. ..................................................................................................... 38
2.3. Những quy định về hành vi lạm dụng vị trí độc quyền để hạn chế cạnh
tranh. ................................................................................................................... 41
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ KIỂM SOÁT HÀNH VI LẠM
DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG, VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN Ở
VIỆT NAM ........................................................................................................ 43
3.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả kiểm soát hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền........................................... 43
3.1.1. Hoàn thiện pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, vị trí độc quyền phải phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế và hướng
tới mục đích đảm bảo duy trì môi trường cạnh tranh lành mạnh ........................... 43
3.1.2. Pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí
độc quyền phải phù hợp với thông lệ quốc tế ....................................................... 45
3.1.3. Đảm bảo đồng bộ các yếu tố: xây dựng vị trí thống lĩnh, tổ chức bộ máy
quản lý cạnh tranh, cơ chế thực thi pháp luật ........................................................ 48
iv
3.2. Một số giải pháp nhằm hoàn thiệnpháp luật và nâng cao hiệu quả kiểm
soát hành vi lạm dụng vị trí thống thị trường, vị trí độc quyền ............................. 49
3.1.1. Hoàn thiện các quy định về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh
thị trường, vị trí độc quyền ................................................................................... 49
3.2.2. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền .................................................................. 52
3.2.3. Xây dựng cơ chế thực thi pháp luật về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền .................................................................. 55
KẾT LUẬN ......................................................................................................... 60
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 62
CÁC TRANG WEB ............................................................................................. 64
v
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AFTA
: Khu vực mậu dịch tự do ASEAN
APEC
: Diễn đàn hợp tác Châu Á - Thái Bình Dương
EU
: Liên minh Châu Âu
FTC
: Uỷ ban thương mại liên bang Hoa Kỳ
OECD : Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
TRIPS : Hiệp định Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại
UNCTA : Tổ chức thương mại và phát triển Liên hiệp quốc
WTO
: Tổ chức thương mại thế giới
vi
LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa do Đảng ta khởi xướng từ năm 1986 đến
nay, nền kinh tế Việt nam đã đạt được những thành tựu quan trọng; nhiều ngành
công nghiệp, dịch vụ phát triển nhanh, có mức tăng trưởng ấn tượng. Tuy nhiên bên
cạnh những thành công bước đầu đó chúng ta cũng phải đối mặt với những hệ quả
tiêu cực của cơ chế thị trường, đó là tạo ra sức ép cạnh tranh lên các doanh nghiệp
và xuất hiện các hành vi hạn chế cạnh tranh, hành vi cạnh tranh không lành mạnh và
tình trạng lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền của các doanh
nghiệp.
Cạnh tranh thiếu lành mạnh là một khuyết tật cố hữu của kinh tế thị trường.
Đất nước ta đang xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội chủ
nghĩa, một nền kinh tế vừa thoát ra từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung, sự quản lý và
điều tiết của nhà nước đang từng bước đổi mới cho phù hợp và đáp ứng đòi hỏi của
quy luật kinh tế thị trường; lối mòn hoạt động của các doanh nghiệp quốc doanh vẫn
còn ảnh hưởng, sự gia tăng nhanh chóng và không ngừng lớn mạnh của các doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân; sự hiện diện của các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài có sự vượt trội về khả năng tài chính, tư duy kinh tế và kinh
nghiệm thương trường, đã khiến cho các hành vi cạnh tranh thiếu lành mạnh, hạn
chế cạnh tranh, mà trong đó có hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí
độc quyền đang có chiều hướng gia tăng khó kiểm soát, ảnh hưởng nghiêm trọng
đến môi trường đầu tư, và xa hơn đó là gây ra những thiệt hại về kinh tế - xã hội,
ảnh hưởng không tốt đến chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và công cuộc công
nghiệp hoá, hiện đại hoá của đất nước.
Vì vậy, việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và xem xét, đối chiếu với thực
tiễn nhằm xác định hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường từ đó xây dựng
chính sách pháp luật có thể kiểm soát và ngăn chặn các hành vi trên, duy trì trật tự
cạnh tranh lành mạnh, bảo vệ lợi ích cho các chủ thể trong nền kinh tế là vấn đề có
1
tầm quan trọng được Đảng và nhà nước ta hết sức quan tâm. Luật Cạnh tranh được
Quốc hội thông qua ngày 03 tháng 12 năm 2004, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7
năm 2005, thi hành đến nay được 10 năm , đã phát huy tác dụng to lớn trong trật tự
quan hệ thương mại, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển lành mạnh. Tuy nhiên
qua quá trình thực hiện còn có nhiều vấn về phát sinh, bộc lộ những bất cập cần
phải nghiên cứu, đề xuất sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế tại Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường và vị trí độc
quyền còn khá mới mẻ ở nước ta, cho đến nay việc nghiên cứu về lĩnh vực này còn
khá khiêm tốn. Có một số công trình nghiên cứu như: Đặng Vũ Huân (2002), Pháp
luật về kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam,
Luận án tiến sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; Viện nghiên cứu quản lý
trung ương (2002), các vấn đè pháp lý và thể chế về chính sách cạnh tranh và kiểm
soát độc quyền kinh doanh, Dự án hoàn thiện môi trường kinh doanh VIE/97/061,
NXB Giao thông vận tải, Hà Nội; PGS, TS Nguyễn Như Phát, Ths. Nguyễn Ngọc
Sơn (2006), Phân tích và luận giải các quy định của Luật Cạnh tranh về hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh, NXB
Tư pháp, Hà Nội; ThS Lữ Lâm Uyên, Thực hiện pháp luật chống cạnh tranh không
lành mạnh theo pháp luật Việt Nam, Đại học Luật TP Hồ Chí Minh; Viện nghiên
cứu quản lý kinh tế trung ương, Các vấn đề pháp lý và thể chế về chính sách cạnh
tranh và kiểm soát độc quyền kinh doanh, v.v...Tuy nhiên, các nghiên cứu nói trên
tiếp cận, xem xét ở phạm vi rộng hoặc nội dung của một vài khía cạnh. Chưa có
công trình nghiên cứu độc lập chuyên sâu nào xem xét xem xét, mổ xẻ các khía
cạnh liên quan đến hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền,
đặc biệt là pháp luật về kiểm soát vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền. Do
vậy việc nghiên cứu đề tài này là rất thiết thực.
3. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn là các quy định của pháp luật cạnh tranh
hiện hành và pháp luật quốc tế về cạnh tranh, các vấn đề lý luận và thực tiễn áp
2
dụng pháp luật canh tranh ở Việt Nam; đi sâu nghiên cứu vấn đề kiểm soát hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền theo pháp luật Việt Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng để thực hiện đề tài là phương pháp
luận của triết học Mác - Lênin mà hạt nhân là phép duy vật biện chứng và phép duy
vật lịch sử cũng như các quy luật, phạm trù cơ bản, nhất là quy luật cơ sở hạ tầng
quyết định kiến trúc thượng tầng, các quan hệ kinh tế quyết định các quan hệ pháp
luật. Trên nền tảng các phương pháp đó, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên
cứu cụ thể của khoa học xã hội như phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, hệ
thống hoá...
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn bám sát các chủ trương, đường lối
của Đảng và Nhà nước ta thể hiện qua các văn kiện của Đảng và hệ thống pháp luật
của Nhà nước về cạnh tranh và kiểm soát các hành vi độc quyền, lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường .
5. Mục đích nghiên cứu đề tài
- Làm rõ những vấn đề lý luận về kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống
lĩnh thị trường, vị trí độc quyền ỏ Việt Nam, phân tích nguyên nhân kinh tế-xã hội,
những tác động tích cực hay tiêu cực của tình trạng thống lĩnh thị trường và đặc biệt
là hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, độc quyền .
- Tìm hiểu chính sách pháp luật về kiểm soát vị trí thống lĩnh thị trường, vị
trí độc quyền ở một số nước trên thế giới để tham khảo, rút kinh nghiệm.
- Tìm hiểu thực trạng thống lĩnh thị trường, độc quyền và tình trạng lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường, độc quyền ở Việt Nam, qua đó rút ra những đánh
giá và những nguyên nhân.
- Đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện và thực thi có hiệu quả chính sách
pháp luật về điều chỉnh, kiểm soát các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường
và vị trí độc quyền trong thương mại ở Việt Nam.
3
6. Những kết quả nghiên cứu mới
- Khái quát những vấn đề lý luận về vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc
quyền và việc kiểm soát các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc
quyền, phân tích nguyên nhân, những tác động tích cực và tác động tiêu cực vào
nền kinh tế.
- Trình bày khái quát các quy định của pháp luật về kiểm soát các hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền của các doanh nghiệp ở một số nước
trên thế giới, rút ra những nhận xét để tham khảo, rút kinh nghiệm cho Việt Nam.
- Trình bày bức tranh toàn cảnh về thực trạng lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, vị trí độc quyền ở nước ta, phân tích nguyên nhân của tình trạng lạm dụng
vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền ở nước ta.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế, tăng cường hiệu quả
thực thi pháp luật góp phần kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường,
vị trí độc quyền.
7. Cơ cấu của luận văn
Luận văn được chia làm 3 chương, cơ cấu như sau:
Lời nói đầu
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, vị trí độc quyền và pháp luật điều chỉnh đối với hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền.
Chương 2: Kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc
quyền theo Luật cạnh tranh Việt Nam.
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền ở Việt Nam.
CHƯƠNG I
4
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ LẠM DỤNG VỊ TRÍ
THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG, VỊ TRÍ ĐỘC QUYỀN
VÀ PHÁP LUẬT KIỂM SOÁT ĐỐI VỚI HÀNH VI
LẠM DỤNG VỊ TRÍ THỐNG LĨNH THỊ TRƯỜNG, VỊ
TRÍ ĐỘC QUYỀN.
1.1. Một số vấn đề lý luận về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí
độc quyền.
1.1.1. Quan niệm về lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh chính là động lực phát triển của các
thành phần, các chủ thể kinh tế cùng tham gia kinh doanh. Động lực cạnh tranh kích
thích các doanh nghiệp cải tiến thiết bị, công nghệ, phương thức quản lý để ứng
dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của sản
phẩm, hàng hoá và của doanh nghiệp của mình. Theo một phương diện nào đó, cạnh
tranh cũng có ý nghĩ tích cực là nó duy trì áp lực liên tục lên tất cả các đối thủ trên
thương trường, buộc chúng phải luôn tìm cách đổi mới để thích nghi và tồn tại, nếu
không muốn bị loại khỏi cuộc chơi. Nhưng mặt khác, sự cạnh tranh sẽ dẫn đến các
đối thủ sẽ tìm mọi cách tiêu diệt, thôn tính lẫn nhau để chiếm lĩnh thị trường và
khẳng định sức mạnh kinh tế của mình. Quá trình này thường diễn biến theo logic
từ cạnh tranh lành mạnh đến cạnh tranh không lành mạnh và dẫn đến một hệ quả tất
yếu là sản sinh ra tình trạng thống lĩnh và độc quyền.
Vị trí thống lĩnh được hiểu là khả năng kiểm soát thực tế hoặc tiềm năng đối
với thị trường liên quan của một loại hoặc một nhóm hàng hóa, dịch vụ của một
hoặc một số doanh nghiệp. Với cách hiểu như vậy thì vị trí thống lĩnh không chỉ
được xem xét dưới góc độ vị trí của một doanh nghiệp mà còn có thể là vị trí của
một nhóm doanh nghiệp cùng hành động. Tức là giữa nhóm doanh nghiệp này
không có sự thỏa thuận trước nhưng đã cùng hành động, cùng nhau thực hiện các
hành vi như bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ dưới giá thành toàn bộ để loại bỏ đối
thủ…
5
Trong khi đó, vị trí độc quyền được hiểu là vị trí của một doanh nghiệp khi
không còn đối thủ nào cạnh tranh với doanh nghiệp đó hoặc có sự cạnh tranh nhưng
sự cạnh tranh đó rất yếu ớt và không đáng kể. Nói cách khác sự cạnh tranh trên thị
trường liên quan của doanh nghiệp hầu như bị loại trừ.
Độc quyền có thể hình thành từ việc doanh nghiệp có ưu thế về vốn, quy mô
sản xuất, thậm trí quyền lực chính trị, xã hội để độc quyền sản xuất, hay nhập khẩu
một loại sản phẩm nhất định. Độc quyền có thể có được từ việc doanh nghiệp có ưu
thế về kỹ thuật, công nghệ trong sản xuất và kinh doanh. Độc quyền sẽ gây ra nhiều
tác động tiêu cực đối với nền kinh tế. Nếu doanh nghiệp lạm dụng vị trí thống lĩnh,
độc quyền để hạn chế sản lượng, tăng giá bán thì sẽ gây thiệt hại cho người tiêu
dùng. Độc quyền làm cản trở cạnh tranh lành mạnh, giảm động lực phát triển của
nền kinh tế và hạn chế tự do kinh doanh.
Chính vì vậy, việc xác định vị trí độc quyền tương đối dễ dàng, nhưng trong
trường hợp chưa đạt được vị trí độc quyền thì việc xác định vị trí thống lĩnh là khá
phức tạp. Vì vị trí thống lĩnh chỉ cho thấy sức mạnh kinh tế vượt trội của doanh
nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp so với các đối thủ cạnh tranh khác trên thị
trường liên quan đối với một hoặc một nhóm hàng hóa, dịch vụ cụ thể. Như vậy,
cho dù doanh nghiệp hay nhóm doanh nghiệp đã có vị trí thống lĩnh thị trường thì
trên thị trường vẫn có sự cạnh tranh các đối thủ yếu hơn. Điều đó có nghĩa là sự
cạnh tranh trên thị trường vẫn tồn tại. Mặc dù có những nét đặc trưng khác biệt vị trí
thống lĩnh và vị trí độc quyền như vậy, song không có nghĩa là chúng hoàn toàn
khác biệt mà thực chất vị trí độc quyền chỉ là một dạng đặc thù vị trí thống lĩnh.
Khi đã xác lập được vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền, các doanh nghiệp
thống lĩnh, độc quyền luôn tìm cách để duy trì địa vị thống lĩnh thị trường của mình
với cách thức như: Thôn tính, tiêu diệt các đối thủ cạnh tranh, ngăn cản không cho
các đối thủ tiềm năng gia nhập thị trường, tiếp tục củng cố ưu thế và sức mạnh thị
trường bằng việc lôi kéo các đối thủ liên kết tạo sức mạnh, phân chia thị trường,
định giá cả…
Theo các nhà kinh tế học thì thống lĩnh và độc quyền là những hiện tượng
khách quan, tồn tại trong tất cả các nền kinh tế. Nó là kết quả của quá trình cạnh
6
tranh, một yếu tố không thể thiếu để thúc đẩy nền kinh tế phát triển, thậm trí một số
hình thái độc quyền còn được nhà nước xác lập và duy trì như một trạng thái cần
thiết cho sự phát triển cân bằng của nền kinh tế. Quan trọng là ở chỗ, các doanh
nghiệp sau khi đã có được vị trí thống lĩnh, độc quyền hoặc được nhà nước xác lập
cho vị trí thống lĩnh, độc quyền thì luôn có xu hướng lạm dụng vị trí của mình để
thu lợi nhuận, gây hại đến lợi ích của các chủ thể khác và của nhà nước. Chính từ
thực trạng các doanh nghiệp khi có vị trí thống lĩnh, độc quyền thường lạm dụng vị
trí của mình đã làm cho pháp luật tất yếu phải có những quy định để điều chỉnh và
kiểm soát các hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để kiếm lời và
xâm phạm đến lợi ích của các chủ thể khác thì bị coi là bất chính.
Với bất kỳ nền kinh tế nào, nếu không có sự quản lý, điều tiết hiệu quả bằng
chính sách, luật pháp thì rất dễ phát sinh lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền.
Khi mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, phát triển nền kinh tế thị trường thì quá
trình tích tụ Tư bản dẫn tới sự hình thành các tập đoàn kinh tế có khả năng chi phối
hoạt động kinh doanh, sản xuất, cung ứng và giá cả trên thị trường.
Muốn kiểm soát được một quan hệ nào đó thì trước hết pháp luật phải nhận
diện được đối tượng đó và những thuộc tính của nó. Tương tự như vậy, để điều
chỉnh hành vi thống lĩnh và độc quyền thì pháp luật về cạnh tranh và chống lạm
dụng vị trí thống lĩnh và vị trí độc quyền cũng phải đưa ra được khái niệm về thống
lĩnh, vị trí độc quyền. Tùy theo đặc điểm kinh tế xã hội khác nhau mà pháp luật của
mỗi nước cũng đưa ra những quan niệm và tiêu chí xác định hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh, vị trí độc quyền khác nhau.
Tại Canada Điều 79 của Luật cạnh tranh quy định ba dấu hiệu của hành vi
lạm dụng vị trí thống lĩnh là
- (i) một hoặc một nhóm doanh nghiệp kiểm soát thị trường liên quan
- (ii) thực hiện hành vi phản cạnh tranh được quy định trong luật cạnh tranh;
- (iii) hành vi đó đã, đang và hoặc có thể làm cản trở, làm giảm cạnh tranh trên thị
trường một cách đáng kể [11].
Bên cạnh đó, còn có một xu hướng khác trong pháp luật cạnh tranh trên thế
giới khi định nghĩa về hành vi lạm dụng. Bộ quy tắc về cạnh tranh của Liên hiệp
7
quốc được thông qua ngày 22 tháng 4 năm 1980 và Luật mẫu về cạnh tranh của tổ
chức thương mại và phát triển liên hiệp quốc định nghĩa hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh và vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh là hành vi hạn chế cạnh tranh
mà doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền sử dụng để duy trì hay tăng
cường vị trí của nó trên thị trường bằng cách hạn chế khả năng gia nhập thị trường
hoặc hạn chế quá mức cạnh tranh [22, tr52]. Ở đây có sự khác nhau giữa Luật cạnh
tranh của Canada và Bộ quy tắc mẫu có dấu hiệu chủ quan của hành vi. Nếu như
Luật cạnh tranh Canada mô tả hành vi lạm dụng luôn mang trong mình nó khả năng
(hậu quả) làm sai lệch cản trở hoặc làm giảm cạnh tranh, thì bộ quy tắc và luật mẫu
về cạnh tranh lại nhấn mạnh đến mục đích duy trì, củng cố vị trí của doanh nghiệp
vi phạm bằng cách ngăn cản người khác gia nhập thị trường hoặc hạn chế quá mức
cạnh tranh.
Nếu so sánh từ góc độ lý luận, cách tiếp cận của Luật cạnh tranh Canada có
vẻ trừu tượng hơn so với khái niệm của luật mẫu cạnh tranh, bởi lẽ việc xác định
mức độ sai lệch, giảm hoặc cản trở cạnh tranh không phải là việc đơn giản, do cạnh
tranh là khái niệm phản ánh mối quan hệ ganh đua trên thương trường nên khó có
đại lượng khách quan nào có thể cân đong được mức độ của quan hệ cạnh tranh một
cách chính xác. Trong khi đó, xác định khả năng duy trì và củng cố vị trí của doanh
nghiệp sẽ là đơn giản hơn, người ta có thể dựa vào những thông số kinh tế, kỹ thuật
trên thị trường liên quan về số lượng doanh nghiệp, về thị phần, mức chênh lệch thị
phần giữa các doanh nghiệp… là có thể đưa ra các kết luận khá chính xác.
Ở Việt Nam, không phải đợi hội nhập, hay sức ép của việc gia nhập WTO
mà ngay từ Đại hội Đảng lần thứ IX đã nêu rõ: “Hình thành đồng bộ và tiếp tục
phát triển, hoàn thiện các loại thị trường đi đôi với xây dựng khuôn khổ pháp lý và
thể chế, để thị trường hoạt động năng động, có hiệu quả, có trật tự, kỷ cương trong
môi trường cạnh tranh lành mạnh, công khai, minh bạch, hạn chế và kiểm soát độc
quyền kinh doanh” và “Mọi doanh nghiệp, mọi công dân được đầu tư kinh doanh
theo các hình thức do luật định và được pháp luật bảo vệ. Mọi tổ chức kinh doanh
theo các hình thức sở hữu khác nhau hoặc đan xen hỗn hợp đều được khuyến khích
phát triển lâu dài, hợp tác, cạnh tranh bình đẳng và là bộ phận cấu thành quan
8
trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN”. Thêm vào đó, Nghị quyết Hội
nghị Trung ương Đảng lần thứ 3, khoá IX đã chỉ rõ: “Thực hiện độc quyền nhà
nước trong những lĩnh vực cần thiết, nhưng không biến độc quyền nhà nước thành
độc quyền doanh nghiệp...”.
Thực hiện chủ chương đúng đắn đó của Đảng, với việc phát triển nền kinh tế
nhiều thành phần, chúng ta đã từng bước xoá bỏ sự độc quyền của các doanh nghiệp
nhà nước và tạo lập được môi trường kinh doanh bình đẳng cho tất cả các chủ thể
tham gia kinh doanh trên thị trường. Điều này đã tạo động lực cho nền kinh tế Việt
Nam phát triển lành mạnh và đúng hướng. Để trở thành thành viên chính thức thứ
150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) Việt Nam đã phải mất hơn 11 năm
đàm phán và sửa đổi, bổ sung chính sách kinh tế thương mại của mình. Trong số
những nguyên tắc chủ đạo của WTO thì nguyên tắc không phân biệt đối xử và cạnh
tranh bình đẳng có vai trò cực kỳ quan trọng. Là Thành viên của WTO, Việt Nam
bắt buộc phải thực hiện nguyên tắc này. Hơn thế nữa, để đảm bảo có được một môi
trường kinh doanh bình đẳng, ngay từ trước khi gia nhập, trong số hàng trăm văn
bản quy phạm pháp luật Việt Nam phải sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới có Luật
Cạnh tranh. Ngày 03/12/2004, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Luật Cạnh tranh và
Luật này đã có hiệu lực từ ngày 01/7/2005.
1.1.2. Các yếu tố cầu thành của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, vị trí độc quyền
Các yếu tố dù được mô tả bằng nhiều hình thức khác nhau, song nhìn chung
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền thường có ba dấu hiệu
để nhận dạng.
Dấu hiệu thứ nhất: Hành vi lạm dụng là những hành vi được luât cạnh tranh
liệt kê. Ngoài những khái niệm căn bản mang tính học thuật về hành vi hạn chế
cạnh tranh nói chung, cần phải gọi tên được từng hành vi lạm dụng. Dựa vòa đó,
người ta có thể phân tích bản chất của hành vi dưới góc độ của lý thuyết, đồng thời
trong công tác thực thi pháp luật, cơ quan nhà nước có thẩm quyền có thể dễ dàng
xác định sự vi phạm bằng cách đối chiếu các hành vi thực tế với những quy định
của pháp luật. Một hành vi của doanh nghiệp thống lĩnh hoặc độc quyền trên thị
9
trường chỉ bị quy kết là lạm dụng để hạn chế cạnh tranh khi nó mang đầy đủ các
dấu hiệu của một hành vi nào đó đã được luật quy định là lạm dụng. Khi chưa thể
hoặc chưa có đủ chứng cứ cần thiết để kết luận về doanh nghiệp đã thực hiện một số
các dạng vi phạm được quy định thì cũng không thể quy kết trách nhiệm về sự lạm
dụng [19]. Dưới góc độ lý luận, hành vi nào đó đã được luật quy định là lạm dụng
mang trong mình nó không chỉ là những thủ đoạn lợi dụng lợi thế do quyền lực thị
trường đem lại cho doanh nghiệp, mà còn là nguyên nhân gây ra những hậu quả
không tốt cho tình trạng cạnh tranh trên thị trường hiện đại hoặc tương lai.
Dấu hiệu thứ hai: Chủ thể thực hiện hành vi là doanh nghiệp hoặc nhóm
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền trên thị trường liên quan. Lý
thuất cạnh tranh đã chỉ ra rằng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền có thể được hình
thành từ sự tích tụ trong quá trình cạnh tranh; từ những điều kiện tự nhiên của thị
trường như: yêu cầu về quy mô hiệu quả tối thiểu, sự biến dị của sản phẩm, sự tồn
tại của các rào cản gia nhập thị trường; hoặc sự bảo hộ của quyền lực nhà nước…
Trong những trường hợp nói trên, vị trí thống lĩnh hoặc độc quyền của doanh
nghiệp là hợp pháp và đem lại cho doanh nghiệp quyền lực thị trường, hay còn gọi
là khả năng chi phối các quan hệ trên thị trường.
Theo cuốn từ điển kinh tế học hiện đại thì quyền lực độc quyền là khả năng
của một doanh nghiệp hoặc một nhóm các doanh nghiệp trong việc tác động đến giá
cả thị trường của một loại hàng hóa hoặc dịch vụ mà họ bán hoặc mua. [13,tr682]
Về mặt học thuật, có hai vấn đề cần phải làm rõ là: thứ nhất, hành vi lạm
dụng chỉ xảy ra sau khi vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền trên thị trường liên
quan đã được xác lập. Do đó, pháp luật chống lạm dụng không nhằm đến việc xóa
bỏ vị trí thống lĩnh của doanh nghiệp, pháp luật chỉ hướng đến việc loại bỏ hành vi
lạm dụng vị trí thống trị thị trường để trục lợi hoặc để bóp méo cạnh tranh. Một khi
doanh nghiệp có quyền lực thị trường chưa có các biểu hiện của sự lạm dụng thì
chúng vẫn có chủ thể được pháp luật bảo vệ; thứ hai, chủ thể thực hiện việc lạm
dụng có thể là một doanh nghiệp đơn lẻ hoặc một nhóm doanh nghiệp (tối đa là 4)
có vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền trên thị trường liên quan.
10
Đối với vụ việc điều tra về hành vi lạm dụng của nhóm doanh nghiệp có
quyền lực thị trường, cơ quan có thẩm quyền cần phải phân biệt được hành vi lạm
dụng vị trí thống lĩnh với các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh. Bởi trong pháp luật về
hạn chế cạnh tranh, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh và hành vi lạm dụng có một số
điểm giống nhau, ví dụ (i) đều có thể do một nhóm doanh nghiệp thực hiện; (ii) nội
dung của chúng cũng giống nhau, như: phân chia thị trường, hạn chế sản xuất, phân
phối sản phẩm, hạn chế phát triển khoa học kỹ thuật… Tuy nhiê, khi một nhóm
doanh nghiệp (với tổng thị phần kết hợp đủ để thống lĩnh thị trường) thực hiện hành
vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường để hạn chế cạnh tranh thì giữa họ không có
sự thỏa thuận trước. Ngược lại, nếu cơ quan nhà nước có thẩm quyền có đủ chứng
cứ chứng minh rằng đã tồn tại một thỏa thuận trong nhóm doanh nghiệp đó để thực
hiện những hành vi nói trên thì hành động của họ sẽ được điều chỉnh bởi pháp luật
chống thỏa thuận hạn chế cạnh tranh.
Dấu hiệu thứ ba: Hậu quả của hành vi lạm dụng là làm sai lệch, cản trở hoặc
giảm cạnh tranh trên thị trường liên quan. Dấu hiệu này cho thấy khả năng hạn chế
cạnh tranh của hành vi lạm dụng và tác hại của nó đối với thị trường. Như đã phân
tích, doanh nghiệp thực hiện hành vi lạm dụng với mục đích duy trì, củng cố vị trí
hiện có hoặc tận tưởng các lợi ích có được từ việc bóc lột khách hàng. Các nhà
hoạch định chính sách cạnh tranh của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (viết tắt
của OECD) đã đưa ra nhiều khuyến nghị về việc xác định hành vi lạm dụng, trong
đó họ cảnh báo rằng chỉ có thể chống lại sự lạm dụng quyền lực thị trường thành
công, khi pháp luật và người thi hành nó xác định được những hành vi cụ thẻ có thể
gây hại cho cạnh tranh và đánh giá được những hành động toàn diện của chúng trên
thị trường có liên quan [23,tr60]. Đối với hành vi hạn chế cạnh tranh, lý luận và
kinh nghiệm pháp lý của các nước đã chỉ ra rằng, nhóm hành vi này có 3 lạm dụng
vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền và tập trung kinh tế, nên không thể đưa ra một khái
niệm chung chứa đựng nhữn căn cứ cụ thể cho mọi trường hợp. Trong tình trạng đó,
dấu hiệu về hậu quả của hành vi hạn chế cạnh tranh chỉ được diễn tả rất khái quát,
mang tính định dạng về mặt lý luận hơn là lượng hóa bằng những căn cứ cụ thể.
Mặt khác, do hành vi vi phạm được liệt kê rất đa dạng bao gồm các hành vi về việc
11
định giá bán, giá mua sản phẩm, hành vi hạn chế sản lượng sản xuất, phân phối, hạn
chế thị trường, hành vi phân biệt đối xử , áp đặt các điều kiện thương mại bất hợp lý
đối với khách hàng,.. mỗi hành vi có đối tượng xâm hại khác nhau và mức độ thiệt
hại có thể gây ra cũng không giống nhau, nên việc đưa ra một tiêu chuẩn chung để
làm căn cứ xác định hậu quả gây ra của mọi hành vi là không thể. Vì thế, khoa học
pháp lý và thực tiễn áp dụng buộc phải dựa vào việc phân tích từng hành vi vi phạm
để kết luận về khả năng và mức gây thiệt hại của nó đối với thị trường. Theo đó,
từng hành vi có khả năng cản trở, giảm và sai lệch cạnh tranh ở những mức độ khác
nhau.
Dấu hiệu về hậu quả của hành vi là căn cứ để phân biệt hành vi lạm dụng với
hiện tượng tập trung kinh tế (cũng là một loại hành vi hạn chế cạnh tranh). Tập
trung kinh tế được luật cạnh tranh mô tả thông qua bốn biểu hiện cụ thể là sáp nhập,
hợp nhất, mua lại và liên doanh, là những chiến lược do các doanh nghiệp thực hiện
có khả năng hình thành nền các thế lực độc quyền thông qua các sự tích tụ dần từ
hiệu quả kinh tế. Như vậy, nếu mức giảm, sai lệch hoặc hạn chế cạnh tranh mà hành
vi lạm dụng gây ra được chứng minh bằng những lợi ích mà các doanh nghiệp khác,
hoặc khách hàng phải gánh chịu, thì đối với tập trung kinh tế, điều đó sẽ được
chứng minh bằng những suy đoán là việc các doanh nghiệp sáp nhập, hợp nhất, mua
lại hay liên doanh có thể thay đổi cấu trúc và tương quan cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp trên thị trường do chúng đã tạo ra doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có
quyền lực thị trường. Nói cách khác, pháp luật chống lạm dụng hướng đến việc cấm
đoán hành vi, còn pháp luật kiểm soát tập trung kinh tế có nhiệm vụ ngăn chạn khả
năng hình các thế lực có quyền lực trên thị trường bằng việc tiến hành tập trung
kinh tế.
1.1.3. Nguyên nhân và tác động của hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, vị trí độc quyền trong nền kinh tế thị trường
Thống lĩnh và độc quyền có thể xuất hiện với tính cách là hậu quả của thủ
pháp thông đồng ngầm của các doanh nghiệp về giá, sản lượng, khách hàng hoặc
vùng tiêu thụ nhằm tối đa hóa lợi nhuận của ngành. Thống lĩnh và độc quyền cũng
có thể xuất hiện do sự tồn tại của những vật cản đối với khả năng nhập cuộc của các
12
doanh nghiệp tiềm năng. Đó là những vật cản mang tính pháp lý, hành chính và
những vật cản mang tính kinh tế. Những vật cản mang tính pháp lý chính là các điều
luật loại bỏ hoàn toàn sự nhập cuộc của các doanh nghiệp tiềm năng vào một ngành
kinh tế trong một giai đoạn nhất định. Một ví dụ phổ biến nhất trong thực tế là lĩnh
vực bảo hộ việc độc quyền khai thác các đối tượng thuộc quyền sở hữu công nghiệp
của chủ văn bằng bảo hộ. Việc làm này, một mặt khuyến khích đầu tư cho khoa học
kỹ thuật, mặt khác lại gây ra sự thiệt haị cho xã hội do có sự độc quyền. Bởi vậy,
pháp luật phải tìm được thời hạn tối ưu cho việc khai thác độc quyền các đối tượng
của quyền sở hữu công nghiệp của chủ văn bằng bảo hộ.
Ngoài nguyên nhân cạnh tranh khốc liệt như đã nói ở trên, có thể chỉ ra 3
nguyên nhân khác dẫn đến vị trí thống lĩnh và độc quyền là:
- (i) sự thông đồng ngầm giữa các doanh nghiệp ở trong ngành;
- (ii) những cản trở đối với việc nhập cuộc của các doanh nghiệp tiềm năng, - (iii)
độc quyền nhà nước và độc quyền tự nhiên.
Mặc dù độc quyền gây nhiều hậu quả cho xã hội, song ở một số ngành đặc
biệt (hàng hóa và dịch vụ công cộng, ảnh hưởng tới an ninh quốc gia) nhiều nước đã
phải duy trì tình trạng độc quyền nhà nước ở mức độ nhất định để đảm bảo lợi ích
của người tiêu dùng và duy trì chi phí sản xuất xã hội ở mức hợp lý do tính kinh tế
của quy mô sản xuất lớn.
Độc quyền tự nhiên xuất hiện thoát ly ý thức chủ quan của nhà kinh doanh.
Tự nhiên ở đây nói lên rằng, cơ cấu độc quyền là do đặc điểm công nghệ và nhu cầu
đối với sản phẩm của ngành tạo ra chứ không phải là yếu tố lịch sử hay ảnh hưởng
của cơ chế chính sách kinh tế. Hay nói cách khác, trong những điều kiện về công
nghệ và nhu cầu như vậy, sự tồn tại của độc quyền là khách quan và do đó biện
pháp duy nhất mà nhà nước có thể làm là điều tiết những độc quyền đó. Hình thái
độc quyền tự nhiên thường gặp trong các ngành công nghiệp như: điện, khí đốt,
nước sạch, viễn thông…
Giống như các hiện tượng khác, thống lĩnh và độc quyền có tác động rất lớn
đối với đời sống kinh tế xã hội của mỗi quốc gia, theo cả chiều hướng tiêu cực và
tích cực.
13
Đối với chiều tiêu cực: Bên cạnh những tác động tích cực nếu lạm dụng vị trí
thống lĩnh và độc quyền thì tác hại của nó như sau:
Thứ nhất lạm dụng vị trí thống lĩnh và độc quyền sẽ ngược lại trật tự cạnh
tranh lành mạnh, kìm hãm động lực phát triển của nền kinh tế. Khi đã có vị trí thống
lĩnh, vị trí độc quyền, các doanh nghiệp luôn tìm cách duy trì vị trí thống lĩnh, độc
quyền của mình bằng cách tiêu diệt các đối thủ tiềm năng, hạn chế sự xuất hiện trên
thị trường của các đối thủ này. Bằng thủ đoạn bóp chết đối thủ cạnh tranh thực chết
đã triệt tiêu sự cạnh tranh thương trường, mà một khi không còn cạnh tranh thì sẽ
không còn áp lực để các doanh nghiệp phát triển.
Thứ hai, lạm dụng vị trí thống lĩnh và độc quyền tạo ra nguy cơ khủng hoảng
và suy thoái của nền kinh tế. Các doanh nghiệp thống lĩnh và độc quyền sử dụng vị
thế này vào việc tự định giá cả hàng hóa độc quyền, kìm hãm sản lượng hàng hóa để
tăng giá bán nhằm thu lợi nhuận siêu ngạch mà không chú trọng tới việc đổi mới
công nghệ, tăng năng suất nữa. Tình trạng này kéo dài sẽ làm cho năng lực của các
công ty thống lĩnh và độc quyền bị suy yếu, thậm chí dẫn đến suy giảm và suy thoái
của cả một ngành sản xuất nào đó. Sự khan hiếm của hàng hóa và giả cá leo thang
do tình trạng thống lĩnh và độc quyền gây ra sẽ là nguyên nhân đến sự lạm phát và
gây ổn định nền kinh tế, làm tăng số người thất nghiệp.
Thứ ba, lạm dụng vị trí thống lĩnh và độc quyền tạo ra cho các công ty thống
lĩnh và độc quyền những khoản thu nhập bất chính từ lợi nhuận siêu ngạch, góp
phần làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo, bất công trong xã hội. Ngay từ thế kỷ
XIX, trong tác phẩm nổi tiếng “Sự giàu có của các quốc gia”, Adam Smith đã chỉ ra
bản chất của độc quyền là: “Bằng cách làm cho thị trường luôn luôn không đủ dự
trữ, các nhà độc quyền… đã bán hàng hóa của họ với mức giá cao hơn giá tự nhiên
rất nhiều, và nhờ đó, tăng phần thu nhập của họ dưới dạng tiền thưởng hay lợi
nhuận…”. Như vậy, lợi nhuận mà các công ty độc quyền có được thực chất là nhờ
vào việc hưởng mức chênh lệch quá đáng từ giá cả độc quyền với giá tự nhiên của
hàng hóa, tức là đã bòn rút thu nhập của đại bộ phận người tiêu dùng bỏ vào túi một
số ít công ty độc quyền, đẩy những người nghèo đi đến chỗ càng nghèo thêm, còn
các công ty độc quyền thì phất lên nhanh chóng.
14
Thứ tư, lạm dụng vị trí thống lĩnh và độc quyền còn dẫn đến tình trạng “cửa
quyền”, hay “đặc quyền” cho một nhóm người có lợi ích. Thống lĩnh, độc quyền tất
yếu sẽ sản sinh ra cơ chế “xin – cho”, “ban phát” và điều này ảnh hưởng không nhỏ
đến sinh hoạt và sản xuất. Nói về tác hại của độc quyền đối với tự phát triển về nền
kinh tế, Thủ tướng Phan Văn Khải cũng đã từng nhận định : “…Độc quyền sẽ dẫn
đến cửa quyền… Độc quyền sẽ làm cho những nhân tốt tích cực, những người làm
ăn giỏi không ngóc đầu dậy được…” [24]
Ngoài ra thống lĩnh và độc quyền còn là bạn đồng hành với tiêu cực và tham
nhũng. Các doanh nghiệp thống lĩnh, độc quyền luôn có xu hướng liên hệ và tranh
thủ sự ủng hộ các cơ quan quản lý Nhà nước để bảo vệ thế thống lĩnh và độc quyền
của mình. Điều này làm xuất hiện nguy cơ tham nhũng, tha hóa trong bộ máy công
quyền. Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy, khi các Chaebol vượt ra ngoài tầm
kiểm soát, chúng quay trở lại mua chuộc, lôi kéo các quan chức nhà nước, gây nên
nạn tham nhũng trầm trọng [26. tr84]. Ở Việt Nam hiện nay cũng vậy, trong bối
cảnh dư luận xã hội đang lên tiếng mạnh mẽ phản đối tình trạng thống lĩnh, độc
quyền nhà nước, để duy trì vị thế thống lĩnh, độc quyền, các doanh nghiệp thống
lĩnh, độc quyền phải tìm cách “nuôi” bộ máy công quyền, mua chuộc những nhà
chức trách có thẩm quyền để họ lên tiếng bảo vệ sự thống lĩnh và độc quyền. Một số
vụ án kinh tế lớn được đưa ra xét xử trong thời gian qua có liên quan đến các quan
chức cấp cao trong bộ máy Nhà nước đã phần nào minh chứng cho điều này.
Đối với chiều tích cực:
Vị trí thống lĩnh và độc quyền góp phần đẩy nhanh quá trình tích tụ, tập trung
các nguồn lực để phát triển, nhất là trong những ngành kinh tế mũi nhọn. Sau khi đã
xác lập được vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền, các công ty thống lĩnh, độc quyền
thường phát triển nhanh chóng thành những tập đoàn hùng mạnh. Sự tích tụ và tập
trung nguồn lực vào tay một hoặc một nhóm các doanh nghiệp tạo điều kiện đẩy
mạnh nghiên cứu, ứng dụng khoa học công nghệ, mở rộng quy mô, tăng năng xuất
lao động, tạo ra những bước ngoặt mang tính đột phá cho bản thân doanh nghiệp và
cho ngành sản xuất đó [15,tr32]. Sự mở rộng về quy mô sản xuất, đến lượt nó sẽ tạo
động lực kích thích trở lại các doanh nghiệp, bởi trên thực tế ai cũng biết rằng lợi
15
nhuận của một doanh nghiệp sẽ tăng lên theo quy mô sản suất kinh doanh. Không
phải ngẫu nhiên mà nhà kinh tế học nổi tiếng người Mỹ là Joseph Shcumpeter
(1883 – 1950) đã ủng hộ mô hình kinh tế trong đó có sự tồn tại của các thế lực
thống lĩnh và độc quyền.
Đối với độc quyền nhà nước, nếu duy trì ở quy mô thích hợp và được kiểm
soát tốt sẽ góp phần tạo ra sự ổn định cho nền kinh tế cũng như trong việc thực thi
các chiến lược phát triển kinh tế xã hội của chính phủ, tạo thế chủ động trong hội
nhập kinh tế quốc tế, bảo vệ các ngành và các cơ sở sản xuất trong nước, bảo vệ lợi
ích của người tiêu dùng và đáp ứng tốt các nhu cầu của quốc kế dân sinh. Ở hầu hết
các quốc gia, độc quyền nhà nước được sử dụng như một công cụ kinh tế hữu hiệu
bên cạnh các công cụ khác trong việc điều tiết nền kinh tế quốc dân.
Cũng cần nói thêm rằng người tiêu dùng không chỉ phải chi phí đắt thêm cho
hàng hóa, dịch vụ thống lĩnh, độc quyền, mà họ chỉ chịu thiệt thòi khi không được
hưởng những thành quả sáng tạo trong sản xuất. Nhà sản xuất sau khi đã đạt đến vị
trí thống lĩnh và độc quyền sẽ lơ là việc đầu tư cho nghiên cứu phát minh vì giờ đây
họ không còn đối thủ để ganh đua nữa, thay vào đó họ chỉ lo việc khống chế sản
lượng để tăng giá nhằm thu về lợi nhuận thống lĩnh, độc quyền tối đa. Kết quả là
nền sản xuất bị giậm chân tại chỗ, thị trường sẽ thiếu vắng những sản phẩm dịch vụ
mới với những chất lượng tốt hơn, còn người tiêu dùng thì vẫn phải chấp nhận
những sản phẩm, dịch vụ cũ với giá cao vì họ không còn có sự lựa chọn nào khác.
1.2. Pháp luật kiểm soát với hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị
trường, vị trí độc quyền.
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng vị
trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền.
Về khái niệm và đặc điểm đó là: Nhằm tạo ra một môi trường cạnh tranh lành
mạnh, điều hòa lợi ích của các chủ thể trên thị trường, thúc đẩy nền kinh tế phát
triển, các quốc gia đều phải xây dựng một khung pháp luật về cạnh tranh và kiểm
soát thống lĩnh, độc quyền. Theo giáo sư Yves Serra, Giám đốc Trung tâm nghiên
cứu luật cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng, khoa Luật, Đại học Montpellier,
Luật cạnh tranh được hiểu là “tổng hợp các quy phạm pháp luật áp dụng đối với các
16
tác nhân kinh tế trong hoạt động cạnh tranh nhằm bảo đảm cho cạnh tranh diễn ra
một cách hợp lý, tức là không thái quá”. Luật cạnh tranh thực chất là tổng hợp các
biện pháp tác động ngược trở lại các quyền tự do này bằng cách xác định những
hành vi mà các chủ thể kinh doanh không được phép làm. Nói cách khác, luật cạnh
tranh chính là biện pháp mà nhà nước sử dụng để điều tiết, để đảm bảo cho cạnh
tranh không diễn ra một cách nguyên thủ, vô chính phủ.
Hoa kỳ là nước đầu tiên trên thế giới ban hành đạo luật chống độc quyền. Đó
là đạo luật Sherman năm 1890, sau đó là đạo luật Clayton năm 1914. Mục đích của
việc ban hành những đạo luật này là nhằm ngăn cản độc quyền hay sự tập tung quá
mức của quyền lực kinh tế, ngăn cản những hành vi hạn chế, phá hoại cạnh tranh.
Những quy định trong hai đạo luật nói trên là của Hoa Kỳ sau này đã ảnh hưởng
đến hầu hết các quốc gia Phương Tây cũng như các quốc gia khác.
Tiếp sau Hòa Kỳ, hàng loạt các nước Châu Âu và Châu Á đã ban hành đạo
luật riêng rẽ hoặc các văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động cạnh tranh, trong đó
có các quy định về kiểm soát hành vi thống lĩnh và độc quyền.
Mặc dù chính sách cạnh tranh và kiểm soát thống lĩnh, độc quyền của từng
nước là khác nhau, song vẫn có thể nhận thấy bên cạnh những điểm đặc thù của sự
chi phối bởi các yếu tố chính trị và truyền thống, pháp luật về kiểm soát thống lĩnh,
độc quyền các quốc gia có những điểm chung.
Thứ nhất, Pháp luật kiểm soát thống lĩnh, độc quyền bao gồm những quy
phạm pháp luật nội dung và các quy phạm pháp luật tố tụng. Các quy phạm pháp
luật tố tụng là những đảm bảo pháp lý quan trọng cho việc thực thi các quy phạm
pháp luật nội dung trong thực tiễn. Pháp luật kiểm soát thống lĩnh, độc quyền cũng
quy định cụ thể và các thiết chế có thẩm quyền thực thi pháp luật kiểm soát thống
lĩnh, độc quyền như Cơ quan quản lý cạnh tranh, Hội đồng cạnh tranh. Bên cạnh đó
pháp luật kiểm soát thống lĩnh, độc quyền có mối quan hệ chặt chẽ với các ngành
luật khác nhau như Hiến pháp, Luật hình sự, Luật hành chính và các lĩnh vực khác
như Luật tài sản, Luật hợp đồng, Luật về bồi thường thiệt hại, Luật sở hữu trí tuệ…
Thứ hai, cho dù nội dung cụ thể có khác nhau, nhưng mục đích chung của
việc điều chỉnh các quan hệ cạnh tranh và kiểm soát thống lĩnh, độc quyền bằng
17
pháp luật ở các nước là nhằm tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, điều hòa
lợi ích của các chủ thể trên thị trường, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Pháp luật
chống các hành vi hạn chế cạnh tranh, kiểm soát độc quyền nhằm mục đích đảm
bảo sự cạnh tranh lành mạnh, công bằng và từ đó đảm bảo cho hoạt động kinh
doanh được công bằng, tự do. Nó là công cụ của Nhà nước để duy trì quyền tự do
cạnh tranh lành mạnh bằng việc hạn chế các đặc quyền kinh tế trong kinh doanh.
Mục đích lớn nhất của pháp luật chống các thỏa thuận hoặc hành vi hạn chế cạnh
tranh, kiểm soát độc quyền là đảm bảo sự điều hành nền kinh tế phát triển một cách
tự do, xác lập các hoạt động kinh doanh công bằng. Và ngày nay, ở nhiều nước trên
thế giới người ta nói rằng, pháp luật chống các thỏa thuận hoặc hành vi hạn chế
cạnh tranh, kiểm soát độc quyền được xem như là hiến pháp của kinh tế.
Thứ ba, Pháp luật về kiểm soát thống lĩnh, đôc quyền của hầu hết các nước
đều tập trung vào hai vấn đề trọng tâm là quy định hành lang pháp lý để kiểm soát
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền của các công ty thống lĩnh, độc
quyền, và kiểm soát hoạt động tập trung quyền lực kinh tế thông qua việc hợp nhất,
sáp nhập, mua lại quyền điều hành dưới mọi hình thức. Trong đó khía cạnh thứ hai
được pháp luật kiểm soát hành vi thống lĩnh, độc quyền của các nước đặc biệt quan
tâm. Tuy nhiên, pháp luật các nước có sự điều chỉnh cũng không hoàn toàn giống
nhau về kiểm soát việc hợp nhất, sáp nhập doanh nghiệp.
Thứ tư, Pháp luật về kiểm soát thống lĩnh, độc quyền ở các nước đều quy
định các biện pháp chế tài rất nghiêm khắc đối với những hành vi bị coi là vi phạm
pháp luật chống độc quyền hoặc tập trung kinh tế trái pháp luật đối với các công ty
thống lĩnh, độc quyền cũng như đối với những người lãnh đạo, quản lý các công ty
đó. Những chế tài này có thể bao gồm từ chế tài hành chính (như hủy bỏ vụ sáp
nhập, buộc phải chia tách…) chế tài kinh tế (phạt tiền) đến chế tài hình sự (bỏ tù
những cá nhân sai phạm…)
1.2.2. Vai trò của pháp luật trong việc kiểm soát hành vi lạm dụng vị trí
thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền.
Đa số các quốc gia đều nhận thức được rằng không thể xóa bỏ thống lĩnh,
độc quyền bằng sức mạnh nhà nước hay bằng bất kỳ cách thức nào khác, trái lại,
18