Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Các biện pháp khuyến khích và bảo đảm đầu tư theo pháp luật việt nam hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.69 MB, 90 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

CÁC BIỆN PHÁP KHUYẾN KHÍCH
VÀ BẢO ĐẢM ĐẦU TƯ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

HOÀNG THỊ THANH

HÀ NỘI – 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

CÁC BIỆN PHÁP KHUYẾN KHÍCH
VÀ BẢO ĐẢM ĐẦU TƯ
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

HOÀNG THỊ THANH
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN MINH NGỌC


HÀ NỘI – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài luận văn nghiên cứu của riêng tôi
dưới sự hướng dẫn khoa học của TS. Trần Minh Ngọc - Trường Đại học
Luật Hà Nội, các luận điểm, dẫn chứng, số liệu nêu trong luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tác giả luận văn

Hoàng Thị Thanh


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Khoa đào tạo sau đại học – Viện Đại
học Mở Hà Nội và các thầy cô đã giúp đỡ tôi trang bị kiến thức, tạo môi trường điều
kiện thuận lợi nhất trong suốt quá trình học tập và thực hiện luận văn này.
Với lòng kính trọng và biết ơn, tôi xin được bày tỏ lời cảm ơn tới TS. Trần
Minh Ngọc, người đã chỉ dẫn tận tình cho tôi trong suốt thời gian thực hiện việc
nghiên cứu và hoàn thiện luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các đồng chí cán bộ kế hoạch đầu tư đã chia sẻ
thông tin, cung cấp cho tôi nhiều nguồn tư liệu hữu ích phục vụ cho đề tài nghiên
cứu cũng như tạo điều kiện cho tôi trong quá trình thực hiện luận văn.
Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến gia đình và những người bạn đã động viên,
hỗ trợ tôi trong suốt quá trình học tập, làm việc và hoàn thiện luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn!


MỤC LỤC
Trang

Trang bìa phụ
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
Chương 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP KHUYẾN KHÍCH
VÀ BẢO ĐẢM ĐẦU TƯ ....................................................................................... 5
1.1. Khái niệm đầu tư, các biện pháp khuyến khích và bảo đảm đầu tư ............ 5
1.1.1. Khái niệm đầu tư ................................................................................... 5
1.1.2. Các biện pháp bảo đảm đầu tư .............................................................. 6
1.1.3. Các biện pháp khuyến khích đầu tư ....................................................... 7
1.2. Vai trò của các biện pháp khuyến khích và bảo đảm đầu tư........................ 8
1.3. Tác động tiêu cực của các biện pháp khuyến khích đầu tư ........................ 10
1.4. Hệ thống pháp luật về các biện pháp khuyến khích và bảo đảm đầu tư
tại Việt Nam ......................................................................................................... 13
1.4.1. Giai đoạn trước khi ban hành luật đầu tư 2005 ................................... 13
1.4.2. Giai đoạn từ khi có Luật Đầu tư 2005 đến nay .................................... 16
1.4.3. Các điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia ..................... 17
Kết luận chương 1 ............................................................................................... 23
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ KHUYẾN KHÍCH VÀ BẢO
ĐẢM ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM ........................................................................ 24
2.1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về khuyến khích đầu tư ........................... 24
2.1.1. Quy định về ưu đãi đầu tư ................................................................... 24
2.1.2. Quy định về hỗ trợ đầu tư .................................................................... 34
2.2. Thực trạng pháp luật Việt Nam về bảo đảm đầu tư ................................... 38


2.2.1. Bảo đảm vốn và tài sản cho nhà đầu tư ............................................... 38
2.2.2. Bảo đảm quyền chuyển vốn và tài sản của nhà đầu tư nước ngoài....... 44

2.2.3. Bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ ................................................................. 46
2.2.4. Bảo đảm lợi ích của nhà đầu tư trong trường hợp thay đổi chính sách
pháp luật........................................................................................................ 48
2.2.5. Bảo đảm cơ chế giải quyết tranh chấp từ hoạt động đầu tư ................. 50
2.2.6. Bảo đảm đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư ................................... 53
2.2.7. Mở cửa thị trường đầu tư liên quan đến thương mại ........................... 55
2.2.8. Bảo lãnh của Chính phủ đối với một số dự án quan trọng ................... 59
Kết luận chương 2 ............................................................................................... 61
Chương 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC THI PHÁP
LUẬT VỀ KHUYẾN KHÍCH VÀ BẢO ĐẢM ĐẦU TƯ TẠI VIỆT NAM ............ 62
3.1. Thực trạng hoạt động thu hút vốn đầu tư trực tiếp tại Việt Nam trong
những năm gần đây ............................................................................................. 62
3.1.1. Những thành tựu đã đạt được .............................................................. 62
3.1.2. Những hạn chế, tồn tại ........................................................................ 64
3.2. Những giải pháp căn bản nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
Việt Nam về khuyến khích và bảo đảm đầu tư .................................................. 66
3.2.1. Giải pháp chung .................................................................................. 66
3.2.2. Những giải pháp cụ thể ....................................................................... 69
Kết luận chương 3 ............................................................................................... 78
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................ 80


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
AIA

BITs

Free Trade Area: Hiệp định khung về khu vực đầu tư ASEAN
Asia-Pacific Economic Cooperation:

Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương
Association of Southeast Asian Nations:
Hiệp hội các Quốc gia Đông Nam Á
Bilateral Investment Treaties: Hiệp định đầu tư song phương

BLDS

Bộ luật dân sự

CP

Chính phủ

ĐTNN

Đầu tư nước ngoài

FDI

Foreign Direct Investment: Đầu tư trực tiếp nước ngoài

FPI

Foreign Portfolio Investment: Đầu tư gián tiếp nước ngoài

FTA

IMF

Free Trade Agreement: Hiệp định thương mại tự do

General Agreement on Trade in Services:
Hiệp định chung về thương mại dịch vụ
International Centre for Settlement of Investment Disputes:
Công ước Washington về giải quyết tranh chấp đầu tư giữa
nhà nước và công dân của nhà nước khác
International Monetary Fund: Quỹ tiền tệ thế giới



Nghị định

NQ

TW

Nghị quyết
Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement:
Hiệp định Đối tác Kinh tế Xuyên Thái Bình Dương
Agreement on Trade Related Investment Measures:
Hiệp định về các biện pháp đầu tư lien quan đến thương mại
Trung ương

TXNK

Thuế xuất nhập khẩu

WB

World Bank: Ngân hàng thế giới


WTO

World Trade Organization: Tổ chức Thương mại Thế giới

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

APEC
ASEAN

GATS
ICSID

TPP
TRIMs


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Đầu tư là một lĩnh vực quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế của
mỗi quốc gia. Nhất là trong giai đoạn hiện nay, khi mục tiêu phát triển kinh tế xã hội được đặt lên hàng đầu, cùng với sự cạnh tranh gay gắt giữa các quốc gia,
vấn đề làm sao thu hút đầu tư nước ngoài và phát huy mọi tiềm lực trong nước là
vấn đề sống còn của mỗi quốc gia. Xuất phát từ lợi ích cũng như vai trò của hoạt
động đầu tư mà mỗi quốc gia đều có chính sách thu hút đầu tư phù hợp nhằm
huy động lượng vốn đổ vào nền kinh tế nhiều nhất và mang lại hiệu quả cao. Vì
vậy, nhà nước với vai trò hoạch định và quản lý mọi mặt của đời sống xã hội đã
sử dụng pháp luật, một công cụ hữu hiệu để thống nhất và định hướng cho hoạt
động đầu tư. Một môi trường đầu tư hấp dẫn ngoài yếu tố kinh tế còn các yếu tố
chính trị, pháp luật ổn định và đồng bộ. Do đó pháp luật luôn đóng một vai trò

quan trọng trong hoạt động đầu tư, nó là một công cụ thiết yếu và tiên quyết cho
hoạt động đầu tư diễn ra đạt hiệu quả cao.
Luật Đầu tư 2014 số 67/2014 được Quốc hội ban hành ngày 26/11/2014 sửa
đổi một số điều của Luật Đầu tư số 59/2008-QH11 có hiệu lực từ ngày 01/7/2015,
một lần nữa đã khẳng định quan điểm đúng đắn của nhà nước ta về thu hút đầu tư
thông qua việc quy định các biện pháp khuyến khích và bảo đảm đầu tư tại Việt
Nam và hoạt động đầu tư kinh doanh từ Việt Nam ra nước ngoài. Tuy nhiên, trên
thực tế nguồn đầu tư nước ngoài cũng như đầu tư trong nước ở nước ta hiện nay
chưa đáp ứng được nhu cầu về vốn cũng như chưa tương ứng với tiềm lực của đất
nước. Điều đó thể hiện chính sách, pháp luật của nước ta cũng như việc thi hành
chính sách, pháp luật trong lĩnh vực này còn có những hạn chế, chưa thực sự hiệu
quả, chưa đáp ứng được hết các kỳ vọng của nhà đầu tư, cần phải có những giải
pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về đầu tư tại nước ta trong
thời gian tới. Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài “Các biện pháp khuyến khích và bảo
đảm đầu tư theo pháp luật Việt Nam hiện hành” làm luận văn thạc sỹ luật học.

1


2.Tình hình nghiên cứu đề tài
Các biện pháp khuyến khích và bảo đảm đầu tư cũng như đầu tư nói chung
đã được đề cập trong một số công trình nghiên cứu khoa học, như: Luận án tiến sĩ
của Mai Đức Lộc năm 1994 về “Đầu tư trực tiếp nước ngoài trong việc phát triển
kinh tế ở Việt Nam”; “Đầu tư trực tiếp nước ngoài của liên minh châu âu vào Việt
Nam” – Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Duy Quang năm 2007;
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp cơ sở năm 1999 của Tiến sĩ Nguyễn Bá Diến
về “Các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài trong luật
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các điều ước quốc tế về khuyến khích đầu tư trực
tiếp nước ngoài.”;
Sách tham khảo của Trần Nguyên Tuyên năm 2005 về “hoàn thiện môi

trường và chính sách khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, thực
trạng và giải pháp”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội; Luận văn thạc sỹ
luật học năm 2007 của Phạm Thị Thu Huyền về “Quyền bình đẳng giữa các nhà
đầu tư theo Luật Đầu tư năm 2005.”;
Luận văn thạc sĩ luật học năm 2009 của Kiều Thị Thuỳ Linh về “Thực
trạng và phương hướng hoàn thiện pháp luật về bảo đảm đầu tư của Việt Nam
theo quy định của WTO”; Bài viết của tác giả Nguyễn Văn Long về “Thực trạng
pháp luật bảo đảm đầu tư tại Việt Nam” đăng trên tạp chí Quản lý nhà nước, Học
viện Hành chính, Số 9/2009; Bài viết của tác giả Sông Thương về “Tăng cường
thu hút vốn FDI thiết thực và hiệu quả” đăng trên tạp chí công nghiệp, kinh tế và
quản lý, số 6/2012. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu khoa học trên chí tập
trung nghiên cứu về các biện pháp bảo đảm đầu tư hoặc các biện pháp khuyến
khích đầu tư hoặc các vấn đề về đầu tư nói chung. Cơ sở pháp lý mà các tác giả sử
dụng để đánh giá, phân tích các vấn đề đều là những văn bản pháp luật cũ, đã hết
hiệu lực pháp lý. Đến nay, chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu một
cách toàn diện và có hệ thống về các biện pháp khuyến khích và bảo đảm đầu tư
theo pháp luật Việt Nam hiện hành.

2


3. Mục đích nghiên cứu và ý nghĩa của đề tài
Xuất phát từ ý nghĩa của quá trình xây dựng và phát triển, góp phần vào sự
hoàn thiện của hệ thống pháp luật về đầu tư nói chung và các chính sách về khuyến
khích và bảo đảm đầu tư nói riêng, Tác giả đã chọn và nghiên cứu đề tài “Các biện
pháp khuyến khích và bảo đảm đầu tư theo pháp luật Việt Nam hiện hành”.
Để thực hiện được mục đích trên, Luận văn có nhiệm vụ nghiên cứu những
vấn đề sau:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật khuyến khích và bảo
đảm đầu tư.

- Phân tích làm rõ hơn nội dung các quy định của pháp luật Việt Nam hiện
hành về khuyến khích và bảo đảm đầu tư.
- Đánh giá thực trạng pháp luật khuyến khích và bảo đảm đầu tư tại Việt
Nam, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp then chốt nhằm nâng cao hiệu quả thi
hành pháp luật về khuyến khích và bảo đảm đầu tư tại Việt Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài tập trung nghiên cứu một cách có hệ thống những quy định của pháp
luật Việt Nam về các biện pháp khuyến khích và bảo đảm đầu tư trực tiếp.
Phạm vi nghiên cứu chủ yếu ở những vấn đề cơ bản về pháp luật điều chỉnh
các biện pháp khuyến khích và bảo đảm đầu tư trực tiếp tại Việt Nam, bao gồm các
biện pháp ưu đãi đầu tư, hỗ trợ đầu tư và bảo đảm đầu tư theo quy định của pháp
luật Việt Nam. Trong đó, có liên hệ với thực tiễn và kết quả đầu tư tại Việt Nam.
Đưa ra những giải pháp căn bản nhằm nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về
khuyến khích và bảo đảm đầu tư tại Việt Nam, góp phần nâng cao hiệu quả thu hút
đầu tư tại Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được dựa trên các phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của Triết học Mác-Lênin.

3


Bên cạnh đó vận dụng những quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước trong
sự nghiệp đổi mới và xây dựng nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa.
Ngoài ra khóa luận còn sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ
thể khác như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống
kê và so sánh.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
cơ cấu gồm 3 chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Lý luận chung về các biện pháp khuyến khích và bảo đảm đầu tư
Chương 2: Thực trạng pháp luật về khuyến khích và bảo đảm đầu tư tại Việt Nam
Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về khuyến
khích và bảo đảm đầu tư tại Việt Nam.

4


Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP KHUYẾN
KHÍCH VÀ BẢO ĐẢM ĐẦU TƯ
1.1. Khái niệm đầu tư, các biện pháp khuyến khích và bảo đảm đầu tư
1.1.1. Khái niệm đầu tư
Theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học biên soạn năm 2003 thì đầu
tư được hiểu là việc bỏ nhân lực, vật lực, tài lực vào công việc gì, trên cơ sở tính
toán hiệu quả kinh tế, xã hội. Đầu tư là một trong những yếu tố quyết định sự phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia. Thông qua hoạt động đầu tư, quốc gia có thể huy
động được nguồn lực trong và ngoài nước về vồn và công nghệ kỹ thuật… để đẩy
nhanh nền kinh tế của đất nước phát triển.
Như vậy, đầu tư được hiểu chính là việc bỏ vốn dưới một hình thức vào sản
xuất kinh doanh. Trên cơ sở tính toán đến lợi ích kinh tế, xã hội.
Trong khoa học kinh tế, đầu tư được quan niệm là hoạt động sử dụng các
nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế xã hội những kết quả trong
tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó. Còn dưới
góc độ pháp lý, đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn, tài sản theo các hình thức và
cách thức do pháp luật quy định để thực hiện hoạt động nhằm mục đích lợi nhuận
hoặc lợi ích kinh tế, xã hội khác. Hoạt động đầu tư có thể có tính chất thương mại
hoặc phi thương mại.
Ở Việt Nam, trước khi ban hành Luật Đầu tư 2005 khái niệm đầu tư kinh
doanh chưa được định nghĩa thống nhất trong các văn bản pháp luật. Trong thời

kỳ này thì các nhà làm luật chỉ đưa ra hai khái niệm là đầu tư trong nước và đầu
tư trực tiếp nước ngoài. Luật Đầu tư được sửa đổi, Luật Đầu tư 2005 ra đời với
phạm vi điều chỉnh là hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh doanh đã đưa ra

5


định nghĩa chung về đầu tư: Đầu tư là việc nhà đầu tư bỏ vốn bằng các loại tài
sản hữu hình hoặc vô hình để hình thành tài sản tiến hành các hoạt động đầu tư.
Đến luật Đầu tư năm 2014 đã sử dụng khái niệm “Đầu tư kinh doanh” để thay
thế hai khái niệm trước đây là “Đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp”. Định nghĩa
chung đầu tư kinh doanh được quy định tại khoản 5, điều 3, Luật Đầu tư năm
2014, theo đó “Đầu tư kinh doanh là việc nhà đầu tư bỏ vốn đầu tư để thực hiện
hoạt động kinh doanh thông qua việc thành lập tổ chức kinh tế, đầu tư góp vốn,
mua cổ phần, phần vốn góp của tổ chức kinh tế; đầu tư theo hình thức hợp đồng
hoặc thực hiện dự án đầu tư”.
1.1.2. Các biện pháp bảo đảm đầu tư
Khi tiến hành đầu tư, đặc biệt là đầu tư ở môi trường nước ngoài, các nhà
đầu tư thường quan tâm tới các biện pháp để giảm thiểu rủi ro có thể phát sinh. Các
nhà đầu tư có thể chủ động hạn chế những rủi ro bằng cách tự chủ động thiết kế và
thực hiện những biện pháp bảo đảm riêng cho mình, ví dụ như tiến hành mua bảo
hiểm đối với một số bộ phận của dự án đầu tư. Tuy nhiên, những biện pháp bảo
đảm trên chỉ mang tính cá thể, tức là các nhà đầu tư chỉ giảm được rủi ro đối với
những dự án đã đóng bảo hiểm chứ không phải tất cả các dự án đầu tư. Ngược lại,
các biện pháp bảo đảm đầu tư do quốc gia tiếp nhận đầu tư quy định lại được áp
dụng đối với tất cả các dự án đầu tư, không phân biệt quy mô vốn, nguồn gốc cũng
như lĩnh vực và địa bàn đầu tư.
Từ điển giải thích thuật ngữ luật học giải thích bảo đảm đầu tư là “những
cam kết của Nhà nước nhằm tạo sự an toàn về mặt pháp lý đối với tài sản, vốn đầu
tư, thu nhập, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của nhà đầu tư khi họ tiến hành

đầu tư tại Việt Nam” [33, tr.17].
Dưới góc độ khoa học pháp lý, biện pháp bảo đảm đầu tư được hiểu là những
biện pháp mà pháp luật quy định nhằm bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính đáng của
các nhà đầu tư với mục đích kinh doanh. Nói cách khác các biện pháp bảo đảm đầu
tư chính là những cam kết của Nhà nước với các nhà đầu tư trước một số quyền lợi
cụ thể chính đáng của nhà đầu tư.
6


Mặc dù pháp luật Việt Nam chưa đưa ra một khái niệm cụ thể nào về bảo
đảm đầu tư, nhưng dựa trên tinh thần của các văn bản pháp luật về đầu tư có liên
quan, có thể hiểu, bảo đảm đầu tư là các quy định của pháp luật về bảo đảm quyền
và lợi ích chính đáng của các nhà đầu tư trong quá trình thực hiện hoạt động đầu tư
kinh doanh tại Việt Nam. Nói cách khác, bảo đảm đầu tư “chính là những cam kết
từ phía nhà nước tiếp nhận đầu tư với các chủ đầu tư về trách nhiệm của nhà nước
tiếp nhận đầu tư trước một số quyền lợi cụ thể của nhà đầu tư” [34, tr. 65-66]. Có
thể nói, các biện pháp bảo đảm đầu tư đã góp phần không nhỏ vào sự ổn định của
môi trường đầu tư, từ đó, tạo nên sự an tâm và vững tin cho các nhà đầu tư.
Để có thể nâng cao khả năng thu hút vốn đầu tư trong nước cũng như ngoài
nước thì các quốc gia nhất định phải ban hành những quy định pháp luật có tính
chất hấp dẫn đầu tư. Một quốc gia có hệ thống pháp luật càng thống nhất và hoàn
thiện thì khả năng thu hút đầu tư của quốc gia đó càng cao. Các quy định của pháp
luật về đầu tư là sự thể hiện của quốc gia tiếp nhận đầu tư đối với các chủ đầu tư và
dự án đầu tư của họ. Trong đó, các quy định về bảo đảm đầu tư được coi như sự thể
hiện rõ nét nhất thiện ý của nhà nước tiếp nhận đầu tư.
1.1.3. Các biện pháp khuyến khích đầu tư
Dưới góc độ pháp lý, khuyến khích đầu tư được coi là một trong những
biện pháp thu hút vốn đầu tư có hiệu quả. Do đó, hầu hết các quốc gia trên thế
giới đã ban hành các văn bản pháp luật quy định về khuyến khích đầu tư như một
công cụ hữu hiệu để tạo lập môi trường đầu tư có sức cạnh tranh lớn trong lĩnh

vực thu hút đầu tư.
Các biện pháp khuyến khích đầu tư được hiểu là tất cả những quy định do
nhà nước ban hành nhằm tạo điều kiện thuận lợi hoặc tạo ra những lợi ích nhất
định cho các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài khi tiến hành đầu tư
vào nền kinh tế, trên cơ sở hài hòa giữa lợi ích nhà nước, của nền kinh tế - xã hội
và của các nhà đầu tư.
Theo Luật Đầu tư năm 2014, các biện pháp khuyến khích đầu tư bao gồm
7


các biện pháp ưu đãi đầu tư và hỗ trợ đầu tư. Việc áp dụng các biện pháp khuyến
khích đầu tư dựa trên cơ sở các lĩnh vực đầu tư và địa bàn đầu tư. Luật đã hoàn
thiện các quy định của Luật đầu tư hiện hành về ngành nghề ưu đãi đầu tư cũng như
các nguyên tắc, điều kiện áp dụng ưu đãi nhằm đảm bảo thu hút đầu tư có chọn lọc,
chất lượng, tập trung vào các ngành sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại, dự án
sản xuất có quy mô lớn, dự án đầu tư tại vùng nông thôn sử dụng nhiều lao động, dự
án sản xuất các sản phẩm công nghiệp hỗ trợ, dự án thực hiện trong các lĩnh vực xã
hội hóa đầu tư (y tế, giáo dục, dạy nghề, văn hóa…)
1.2. Vai trò của các biện pháp khuyến khích và bảo đảm đầu tư
Các nhà đầu tư khi thực hiện đầu tư ở bất kỳ một môi trường đầu tư nào đều
phải xem xét trước tiên những rủi ro mà mình có thể gặp phải khi đầu tư ở khu vực
đó. Cùng với những rủi ro khách quan như thiên tai, chiến tranh…. thì những rủi ro
mang tính chủ quan như sự thay đổi hệ thống pháp luật chính sách ở các nước tiếp
nhận đầu tư luôn là những rủi ro được quan tâm hàng đầu. Các nhà đầu tư luôn lo
ngại quyền sở hữu, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình sẽ không được bảo
đảm tại nước tiếp nhận đầu tư. Vì vậy chính sách về đầu tư của nước sở tại phải tạo
ra được sự yên tâm, tin tưởng cho các nhà đầu tư. Muốn vậy phải tạo lập được một
môi trường pháp lý thông thoáng, hiệu quả, trong đó quy định một cách rõ ràng và
đầy đủ những cách thức, những biện pháp nhất định làm cơ sở cho các nhà đầu tư.
Trong chính sách đầu tư của hầu hết các nước đều ghi nhận những quy định về

khuyến khích vào bảo đảm đầu tư.
Dưới góc độ lý luận chung, bảo đảm đầu tư là một khái niệm rộng bao gồm
nhiều biện pháp do nhà nước đặt ra nhằm bảo đảm quyền, lợi ích thiết thực của các
nhà đầu tư. Trong đó quan trọng hơn cả là sự đảm bảo bằng pháp lý. Nhằm đảm bảo
sự ổn định về lợi ích, sự an toàn về vốn và lãi của các nhà đầu tư, tạo điều kiện cho
quá trình đầu tư có hiệu quả, đảm bảo lợi ích trước mắt cũng như lâu dài cho các
nhà đầu tư, giúp các nhà đầu tư tránh được những rủi ro về mặt lập pháp cũng như
sự thay đổi bất thường về mặt chính sách pháp luật của nước tiếp nhận đầu tư đối

8


với các hoạt động kinh doanh của nhà đầu tư. Các biện pháp bảo đảm đầu tư do nhà
nước tiếp nhận đầu tư quy định được áp dụng đối với tất cả các dự án đầu tư, không
phân biệt về quy mô vốn, nguồn gốc vốn cũng như lĩnh vực và địa bàn đầu tư. Do
đó, mà các biện pháp bảo đảm đầu tư thường có tính ổn định, lâu dài. Nếu như các
biện pháp bảo đảm đầu tư tạo những cơ sở vững chắc để nhà đầu tư an tâm, tin
tưởng quyền lợi hợp pháp của mình sẽ được đảm bảo bởi những cam kết từ nước
tiếp nhận đầu tư thì các biện pháp khuyến khích đầu tư là những biện pháp do nhà
nước ban hành nhằm tạo điều kiện thuận lợi hoặc tạo ra những lợi ích nhất định cho
các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài khi tiến hành đầu tư vào nền kinh
tế. Thông qua các biện pháp khuyến khích đầu tư, nước tiếp nhận ưu đãi đầu tư tạo
điều kiện ưu đãi thuận lợi để các nhà đầu tư lựa chọn hình thức đầu tư cũng như
lĩnh vực đầu tư thích hợp và hưởng những ưu đãi nhất định. Tuy nhiên, đối với các
biện pháp khuyến khích đầu tư, các đối tượng được áp dụng không được trải đều
cho các nhà đầu tư mà chỉ áp dụng đối với các nhà đầu tư đáp ứng đủ các điều kiện
nhất định của pháp luật. Theo Luật Đầu tư năm 2005, 2014, các dự án đầu tư được
khuyến khích theo các lĩnh vực đầu tư và địa bàn đầu tư. Thông qua quy định này,
nhà nước có thể chủ động cơ cấu lại nền kinh tế theo định hướng của mình. Khi đầu
tư vào những lĩnh vực, địa bàn sẽ nhận được sự hỗ trợ đáng kể của Nhà nước. Như

vậy, một mặt khuyến khích đầu tư sẽ tạo ra những lợi ích nhất định cho nhà đầu tư,
mặt khác sẽ giúp nhà nước chuyển dịch được cơ cấu một cách hợp lý và phát triển
được các ngành nghề, lĩnh vực, địa bàn luôn trong tình trạng thiếu vốn kinh doanh
phát triển đồng đều đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung, tạo đà tăng trưởng bền
vững và ổn định.
Có thể nói bảo đảm đầu tư và khuyến khích đầu tư có mối quan hệ qua lại
mật thiết với nhau. Mối quan hệ mật thiết đó được thể hiện ở việc không thể thiếu
một trong hai biện pháp trong chính sách thu hút vốn đầu tư của mỗi quốc gia. Các
biện pháp đó cùng tồn tại và hỗ trợ cho nhau. Nếu thiếu các biện pháp bảo đảm đầu
tư thì các biện pháp khuyến khích đầu tư đặt ra chỉ là lý thuyết, giáo điều và khó có
cơ sở để thực hiện. Mặc dù, các nhà đầu tư có thể tìm thấy những điểm hấp dẫn,

9


những ưu đãi dành cho mình, song việc đầu tư lại không có một cơ chế đảm bảo
chắc chắn đến quyền và lợi ích của họ. Ngược lại nếu thiếu biện pháp khuyến khích
đầu tư thì cho dù có một cơ chế bảo đảm chắc chắn về quyền và lợi ích của nhà đầu
tư cũng không thúc đẩy được việc thực hiện đầu tư.
Một môi trường đầu tư tốt là một môi trường hội đủ nhiều yếu tố, trong đó
phải có các biện pháp bảo đảm đầu tư tốt và các biện pháp khuyến khích đầu tư tốt,
hấp dẫn cả hai biện pháp này đều nhằm mục đích thu hút vốn đầu tư, tuy nhiên
trước khi tham gia vào bất cứ một môi trường nào thì các nhà đầu tư sẽ luôn quan
tâm trước tiên đến các biện pháp bảo đảm đầu tư vì đây là những quy định tối thiểu
của pháp luật dành cho nhà đầu tư mà căn cứ vào đó họ lựa chọn hình thức đầu tư
và lĩnh vực đầu tư. Có thể coi bảo đảm đầu tư là mặt bằng, là nền tảng còn khuyến
khích đầu từ là những điểm hấp dẫn trên mặt bằng đó. Do đó khi xem xét nghiên
cứu các biện pháp này phải đặt chúng trong mối liên hệ tác động qua lại với nhau
không thể tách rời.
Các biện pháp khuyến khích và bảo đảm đầu tư được coi là công cụ hữu

hiệu, vũ khí cạnh tranh sắc bén của mỗi quốc gia trong việc cạnh tranh nhằm thu hút
nguồn vốn. Đặc biệt trong bối cảnh cạnh tranh kinh tế hiện nay, môi trường đầu tư
của các nước luôn được cải thiện, sự chênh lệch khá xa về khả năng cung cấp vốn
càng làm cho cuộc cạnh tranh thu hút vốn càng trở nên gay gắt. Do đó, mà quốc gia
nào có chế định đảm bảo đầu tư tốt cũng như chính sách ưu đãi đầu tư hấp dẫn thì
khả năng thu hút vốn đầu tư của quốc gia đó càng cao.
1.3. Tác động tiêu cực của các biện pháp khuyến khích đầu tư
Không thể phủ nhận vai trò vô cùng quan trọng của các biện pháp khuyến
khích đầu tư trong việc thu hút vốn đầu tư nhằm phát triển đất nước. Tuy nhiên,
nhiều nghiên cứu cũng như thực tiễn đã chỉ ra những tác động tiêu cực đối với nước
tiếp nhận đầu tư trong quá trình thực thi chính sách và pháp luật về khuyến khích
đầu tư. Có thể chỉ ra một số tác động tiêu cực cơ bản sau đây:
Thứ nhất, áp dụng chính sách, pháp luật khuyến khích đầu tư quá mức, không
10


coi trọng chất lượng vốn đầu tư có thể ảnh hưởng lớn tới quá trình chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng hiện đại.
Thực tế cho thấy, các nước đang phát triển do nhu cầu về vốn rất lớn để phục
vụ cho quá trình phát triển kinh tế đất nước, đã thực thi các chính sách thu hút vốn
đầu tư kém chọn lọc, chấp nhận cả vốn đầu tư chất lượng thấp. Đó là vốn đầu tư đòi
hỏi sử dụng nhiều lao động phổ thông mà ít chú trọng tới việc sử dụng công nghệ
tiên tiến. Kết quả là, nền kinh tế có thể sẽ phát triển lệch lạc theo hướng sản xuất ra
những sản phẩm thô cao, giá trị thấp, sức cạnh tranh quốc tế kém. Mặt khác, do các
nhà đầu tư chỉ chú trọng tới những lĩnh vực sinh lời cao trong khi chi phí bỏ ra phải
thấp dẫn đến sự phát triển mất cân đối của nền kinh tế, phân hóa sâu sắc giữa thành
thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền ngược. Về lâu dài, chính sách thu hút vốn
đầu tư đại trà như vậy sẽ làm nền kinh tế trở nên lạc hậu, tăng trưởng rất kém.
Thứ hai, Ở một số quốc gia, nhằm chạy đua thành tích, đã xảy ra tình trạng
“xé rào” trong thu hút vốn đầu tư.

Có thể lấy Việt Nam làm ví dụ. Khi chính phủ trao quyền cho các tỉnh được
ban hành một số chính sách đầu tư. Đã có cuộc chạy đua về thu hút đầu tư giữa các
tỉnh. Nguy hiểm ở chỗ, có tỉnh vì thành tích đã ban hành chính sách thu hút đầu tư
dưới chuẩn, những chính sách ưu đãi đầu tư không cần thiết, gây hậu quả nặng nề
về môi trường, cơ cấu kinh tế và xã hội mà phải mất nhiều năm sau mới khắc phục
được một phần.
Thứ ba, làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế của nước nhận đầu tư vào
vốn, kỹ thuật và mạng lưới tiêu thụ hàng hóa của các tập đoàn kinh tế nước ngoài.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có đóng góp phần vốn bổ sung quan trọng cho quá trình
phát triển kinh tế và thực hiện chuyển giao công nghệ cho các nước nhận đầu tư.
Đồng thời, cũng thông qua các công ty xuyên quốc gia là những bên đối tác nước
ngoài để có thể tiêu thụ hàng hóa vì các công ty này nắm hầu hết các kênh tiêu thụ
hàng hóa từ nước này sang nước khác. Vì vậy, nếu dựa quá mức vào đầu tư trực tiếp

11


nước ngoài, thì sự phụ thuộc của nền kinh tế vào các nước công nghiệp phát triển
càng lớn. Nếu nền kinh tế dựa nhiều vào đầu tư trực tiếp nước ngoài thì sự phát
triển của nó hoàn toàn không vững chắc, không khác gì “người khổng lồ có đôi
chân bằng cát”. Sự phát triển chỉ là tạm thời, không dựa vào nội lực. Trong trường
hợp nhà đầu tư rút vốn vì bất kỳ lý do nào thì nền kinh tế sẽ suy yếu nhanh chóng.
Tuy nhiên, nếu nước tiếp nhận đầu tư tận dụng được nguồn vốn, công nghệ hiện đại
và các kênh phân phối hàng hóa do các nhà đầu tư nước ngoài mang vào, tập trung
nghiên cứu, ứng dụng, phát triển đội ngũ khoa học kỹ thuật, có chiến lược tiếp cận
và nâng cấp công nghệ hiện đại, chủ động mở rộng thị trường phân phối sản phẩm,
thì sẽ hạn chế được đáng kể những ảnh hưởng tiêu cực do sự phụ thuộc vào nguồn
vốn đầu tư nước ngoài.
Thứ tư, thu hút vốn đầu tư nước ngoài cũng có thể ảnh hưởng xấu tới môi
trường và an sinh xã hội.

Việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài gây ảnh hưởng xấu tới môi trường và an
sinh xã hội đã được thấy rõ ở các nước đang phát triển. Trung Quốc hiện đang trả
giá đắt về môi trường cho nhiều thập kỷ tăng trưởng kinh tế nóng với những chính
sách ưu đãi nhằm thu hút thật nhiều vốn đầu tư trong và ngoài nước. Mới đây rất
nhiều chuyên gia và người dân ở khu vực Hạ lưu sông Mê Kông đã lên tiếng cảnh
báo rằng việc Lào cho xây thủy điện Xayaburi với vốn đầu tư từ các nhà đầu tư
Thái Lan sẽ làm tuyệt diệt các loài cá trên dòng sông này ảnh hưởng nghiêm trọng
tới sinh thái khu vực cũng như ngành khai thác thủy sản trên sông, đồng thời gây lụt
lội cho các nước vùng hạ lưu.
Thứ năm, trong số những nhà đầu tư không phải là không có những nhà đầu
tư hoạt động vì mục đích chính trị nhằm âm mưu lật đổ hoặc làm suy yếu chính
quyền nước sở tại. Bài học từ Chi Lê năm 1973, NiCaRaGua, VeNeZuela những
năm gần đây, vẫn là những ví dụ điển hình cho sự can thiệp của các công ty nước
ngoài vào hoạt động, thậm chí là tồn tại của chính phủ các nước này.

12


1.4. Hệ thống pháp luật về các biện pháp khuyến khích và bảo đảm đầu tư tại
Việt Nam
1.4.1. Giai đoạn trước khi ban hành luật đầu tư 2005
Xuất phát từ điều kiện kinh tế thời kỳ này, nhà nước ta rất cần thu hút đầu tư
nước ngoài để tăng tốc độ phát triển kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, tiếp thu công nghệ tiên tiến và kỹ năng quản lý kinh doanh của nhà đầu tư nước
ngoài. Trong quá trình xây dựng đường lối phát triển kinh tế của đất nước Đảng ta
đã có những chủ trương, chính sách và đường lối quan trọng trong việc mở cửa kinh
tế, khuyến khích và thừa nhận các hình thức đầu tư nước ngoài. Cụ thể, văn kiện
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã vạch ra
phương hướng để thúc đẩy và thu hút đầu tư nước ngoài như sau:
“Công bố chính sách và khuyến khích nước ngoài đầu tư vào nước ta dưới

nhiều hình thức, nhất là đối với các ngành và cơ sở đòi hỏi kỹ thuật cao, làm hàng
xuất khẩu. Đi đôi với việc công bố luật đầu tư, cần có các chính sách và biện pháp
tạo điều kiện thuận lợi cho người nước ngoài và Việt kiều vào nước ta kinh doanh”.
“Những năm tới phải tranh thủ các nguồn vốn bên ngoài với mức cao
nhất…” … “Trong những năm tới, một mặt chúng ta phấn đấu có tích lũy từ nội bộ
nền kinh tế để tăng thêm vốn đầu tư, mặt khác hết sức tranh thủ và sử dụng có hiệu
quả vốn bên ngoài, sớm chấm dứt việc dùng vốn bên ngoài và vốn khấu hao cơ bản
vào tiêu dùng”.
Trên cơ sở tư tưởng, đường lối và chính sách của Đảng là tập trung cho việc
thu hút và phát triển nguồn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, nhà nước ta đã ban
hành các quy định pháp luật điều chỉnh riêng cho hoạt động đầu tư nước ngoài với
một số ưu đãi khuyến khích hơn so với các nhà đầu tư trong nước. Do đó mà pháp
luật về đầu tư có trong thời kỳ này được chia thành hai mảng riêng biệt là đầu tư
trong nước và đầu tư nước ngoài.

13


1.4.1.1. Pháp luật về các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư nước ngoài
Theo định hướng của Đảng, kỳ họp Họp Quốc hội khoá VII đã thông qua
luật ĐTNN (1987) đánh dấu một bước mốc quan trọng trong việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật về việc thu hút đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Luật ĐTNN (1987)
đã quy định những vấn đề cơ bản như các hình thức đầu tư, các biện pháp ưu đãi và
bảo đảm đầu tư. Đặc biệt, Điều 1 khẳng định: “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam hoan nghênh và khuyến khích các tổ chức cá nhân nước ngoài đầu
tư vốn và kỹ thuật vào Việt Nam trên cơ sở tôn trọng độc lập và chủ quyền của Việt
Nam, tuân thủ pháp luật Việt Nam, bình đẳng và các bên cùng có lợi”. Mặc dù, Luật
ĐTNN được xuất hiện từ khá sớm và đã được sửa đổi bổ sung nhiều lần nhưng các
quy định về bảo đảm và ưu đãi đầu tư chỉ thực sự phát triển và đi vào cuộc sống từ
Luật ĐTNN (1996) và luật sửa đổi, bổ sung năm 2000. Luật ĐTNN 1996 và luật

sửa đổi, bổ sung năm 2000 được ban hành vào thời kỳ mà Việt Nam đã thực sự
bước vào công cuộc đổi mới và có những bước tiến nhanh chóng về kinh tế nhằm
xứng bước hội nhập với thế giới. Các quy định về ưu đãi đầu tư ở các luật này đã có
nhiều điểm tiến bộ và hấp dẫn do mang nhiều yếu tố thực tế hơn và đã tháo gỡ một
số khó khăn vướng mắc cho các doanh nghiệp đang hoạt động, giảm dần một bước
sự khác biệt giữa doanh nghiệp đầu tư trong nước và doanh nghiệp đầu tư nước
ngoài. Tuy nhiên, vẫn còn một số trở ngại như: Hệ thống pháp luật chính sách chưa
ổn định, các lĩnh vực chưa nhất quán, đồng bộ. Danh mục lĩnh vực không cấp giấy
phép và cấp giấy phép có điều kiện của ta còn chung chung và quá rộng, do vậy độ
mở cửa của thị trường đầu tư còn hạn hẹp, hình thức đầu tư chưa đa dạng. Nhiều
vướng mắc trong quá trình triển khai hoạt động thuộc phạm vi điều chỉnh của các
luật và quy định có tính chuyên ngành như lao động, đất đai, quản lý ngoại hối, chế
độ kế toán và kiểm toán, xuất nhập cảnh, thuế GTGT, thuế TNDN, thuế xuất nhập
khẩu, thi hành án; Các văn bản pháp luật chưa đồng bộ thậm chí còn mâu thuẫn,
chồng chéo nhau; Các nguyên tắc chống phân biệt đối xử và cam kết WTO chưa
được đảm bảo.

14


1.4.1.2. Pháp luật về các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư trong nước
Luật khuyến Luật Khuyến khích đầu tư tư nhân (1994) và luật sửa đổi, bổ
sung năm 1998 đã tạo lập môi trường pháp lý thuận lợi cho các hoạt động đầu tư
trong nước. Đây là những văn bản luật đầu tiên điều chỉnh các quan hệ chủ yếu về
khuyến khích đầu tư trong nước ở nước ta, Luật Khuyến khích đầu tư tư nhân ra đời
bắt nguồn từ yêu cầu cuộc sống, sự xuất hiện của Luật đã đưa vào môi trường đầu
tư trong nước một yếu tố đảm bảo cho nền kinh tế thị trường có thể phát triển. Theo
những quy định của Luật này thì Chính phủ Việt Nam cam kết tài sản và vốn đầu tư
hợp pháp của nhà đầu tư Việt Nam không bị tịch thu bằng biện pháp hành chính.
Bên cạnh đó quy định đảm bảo đầu tư trong trường hợp thay đổi quy định của pháp

luật cũng được cam kết. Mặt khác theo quy định của Nghị định số 07/1998/NĐ-CP
ngày 15/1/1998 của chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Khuyến khích đầu tư tư
nhân thì đây là lần đầu tiên pháp luật Việt Nam áp dụng thống nhất giá, phí và lệ
phí đối với nhà đầu tư là người Việt Nam và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Cụ thể là các nhà đầu tư là người Việt Nam được áp dụng cùng một mức giá đối với
hàng hóa, dịch vụ đầu vào do Nhà nước định giá, chịu chùng mức thuế, được hưởng
cùng mức ưu đãi đầu tư và được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, cho thuê và phải
thực hiện các nghĩa vụ đã được pháp luật quy định như các tổ chức trong nước.
Những tư tưởng về tư tưởng phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, định hướng
XHCN được thể hiện khá rõ trong Luật này cũng như trong một số văn bản dưới
luật hướng dẫn thi hành. Như vậy, Khuyến khích đầu tư tư nhân đã đi vào cuộc
sống phát huy tác dụng to lớn trong việc huy động nguồn lực trong nước tạo ra môi
trường đầu tư không những thuận lợi, thúc đẩy kinh tế thị trường, định hướng
XHCN phát triển lên một trình độ mới. Tuy nhiên bên cạnh đó có luật Khuyến
khích đầu tư tư nhân còn một số hạn chế như hệ thống ưu đãi đầu tư ở Việt Nam
vẫn còn phức tạp. Tính hiệu quả của ưu đãi đầu tư thấp, còn nhiều bất cập trong
quản lý hành chính về bảo đảm và khuyến khích đầu tư.

15


1.4.2. Giai đoạn từ khi có Luật Đầu tư 2005 đến nay
Sau gần hai thập kỷ thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, Việt Nam đã thu
được những kết quả và bài học đáng kể. Tuy nhiên nếu xét về mặt tổng thể thì có
thể nhận thấy việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam chưa
tương xứng với tiềm năng và lợi thế của đất nước. Một trong những nguyên nhân
dẫn đến thực trạng này đó là sự tồn tại song hành của hai Luật đầu tư trên một lãnh
thổ quốc gia. Mặc dù, không thể phủ nhận những đóng góp của hai luật này cho nền
kinh tế vì nó đã đáp ứng được những bức xúc của các nhà đầu tư trong nước và

ngoài nước trong một thời kỳ nhất định khi Việt Nam đang trong thời kỳ chuyển
hướng phát triển nền kinh tế từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường. Tuy nhiên,
khi nền kinh tế đất nước phát triển, sự hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng
thì việc bảo hộ các nhà đầu tư trong nước theo cơ chế cũ tỏ ra không còn phù hợp.
Chính vì vậy nhằm tăng tốc nền kinh tế, Nghị quyết TW khóa IX đã khẳng định:
“Chủ động và khẩn trương hơn trong hội nhập kinh tế quốc tế, thực hiện đầy đủ các
cam kết quốc tế đa phương, song phương nước ta đã ký và chuẩn bị tốt điều kiện để
sớm ra nhập WTO, tạo ra môi trường đầu tư kinh doanh bình đẳng, minh bạch, ổn
định thông thoáng, có tính cạnh tranh cao so với khu vực, tăng nhanh xuất khẩu và
thu hút mạnh đầu tư nước ngoài”.
Hoạt động cụ thể nhằm thực hiện chủ trương nói trên là xây dựng một Luật
đầu tư chung cho các nhà đầu tư trong nước và ngoài nước. Việc ban hành Luật Đầu
tư 2005 và mới đây là Luật Đầu tư 2014, là đòi hỏi tất yếu khách quan của việc tiếp
tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo định hướng XHCN, bắt nguồn từ chủ
trương đường lối của Đảng, từ thực tiễn hoạt động đầu tư, đòi hỏi của hội nhập và
cạnh tranh quốc tế nhằm huy động nhiều hơn, sử dụng có hiệu quả, khắc phục tình
trạng lãnh phí các nguồn lực đầu tư trong nước và nước ngoài. Quan điểm và tư
tưởng chỉ đạo lớn nhất trong việc xây dựng Luật Đầu tư 2005 và 2014 là xóa bỏ các
phân biệt đối xử bất hợp lý giữa các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần kinh tế, giữa
các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài, tôn trọng quyền tự do kinh doanh, quyền
tự quyết trong quản lý của nhà đầu tư. Luật Đầu tư 2005 và 2014 cũng đổi mới một
16


cách cơ bản phương thức quản lý của Nhà nước với hoạt động đầu tư, hoạt động
kinh doanh theo hướng hạn chế sự can thiệp hành chính; tăng cường sự khuyến
khích, hỗ trợ hướng dẫn của Nhà nước và đảm bảo các điều kiện cho các nhà đầu
tư, các thương nhân; áp dụng các nguyên tắc MFN, NT theo cam kết tại các điều
ước quốc tế mà Việt Nam đã kí kết. Có thể nói Luật Đầu tư 2005 và được “nâng
cấp” thành Luật Đầu tư 2014 đã củng cố và hoàn chỉnh hơn những quy định cơ bản

về đảm bảo và ưu đãi đầu tư của hai đạo luật đầu tư trước đây để phù hợp với yêu
cầu của hội nhập kinh tế quốc tế.
Bên cạnh quy định của Luật đầu tư 2005, 2014 và các văn bản dưới luật
hướng dẫn thi hành thì các biện pháp khuyến khích và bảo đảm đầu tư còn được
quy định trong các văn bản pháp luật chuyên ngành khác như: "Bộ luật Dân sự
(2005), Luật sở hữu trí tuệ (2005), Bộ luật tố tụng dân sự (2004), Luật Đất đai
(2013), Luật Trọng tài thương mại (2010)… và các văn bản hướng dẫn thi hành các
luật này. Cụ thể Bộ luật Dân sự (2005), Luật Sở hữu trí tuệ (2005) và các văn bản
hướng dẫn thi hành quy định về cách thức thực thi và bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
của nhà đầu tư, Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật trọng tài thương mại 2010 qui định chi
tiết cách thức thực thi các quyền trong quá trình giải quyết tranh chấp tại các cơ
quan tòa án, trọng tài tại Việt Nam. Luật Đất đai, Luật Quốc phòng, Luật An ninh
quốc gia và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định về việc thu hồi đất, trưng thu,
trưng dụng tài sản của nhà đầu tư vì mục đích quốc phòng an ninh…
1.4.3. Các điều ước quốc tế mà Việt Nam kí kết hoặc tham gia
1.4.3.1. Các điều ước quốc tế song phương
Từ hiệp định song phương đầu tiên về khuyến khích và bảo hộ đầu tư (BITs)
kí với chính phủ Italia từ năm 1990 đến nay Việt Nam đã đạt được thỏa thuận kí kết
hiệp ước loại này với 48 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới hầu hết các BITs mà
Việt Nam kí kết đã được điều chỉnh 4 nội dung chủ yếu gồm: Tiếp nhận đầu tư (hay
quyền thành lập đầu tư), Các nguyên tắc đối xử khi thành lập, các biện pháp bảo hộ
đầu tư, cơ chế giải quyết tranh chấp. Trong tất cả các BITs đã kí kết thì nguyên tắc

17


chung mà Việt Nam thừa nhận là tạo điều kiện thuận lợi khuyến khích đầu tư của
bên kí kết bằng việc chấp thuận đầu tư trên nguyên tắc công bằng, thỏa đáng không
gây phương hại bằng biện pháp bất hợp lý và phân biệt đối xử. Phạm vi hoạt động
đầu tư được tiếp nhận và bảo hộ cũng được quy định rộng rãi hơn so với pháp luật

hiện hành, bao gồm cả đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp, các quyền theo hợp đồng,
tài sản hữu hình, vô hình, quyền sở hữu trí tuệ và các quyền khác theo quy định của
pháp luật. Bên cạnh đó, BITs cũng quy định những nguyên tắc cơ bản về trưng thu,
quốc hữu hóa tài sản của nhà đầu tư. Có thể nói, không một BITs nào ngăn cản
được bên kí kết tước đoạt tài sản của nhà đầu tư. Tuy nhiên, theo nguyên tắc phổ
biến của BITs việc tước đoạt tài sản này chỉ được phép với điều kiện đền bù nhanh
chóng, đầy đủ theo giá thị trường và tuân thủ các thủ tục luật định. BITs cũng khẳng
định quyền của nhà đầu tư trong việc chuyển vốn lợi nhuận và các thu nhập hợp
pháp khác về nước theo nguyên tắc: không chậm chễ, bằng đồng tiền tự do chuyển
đổi và phù hợp với các nghĩa vụ của IMF.
Ngoài các BITs thì Việt Nam còn kí các hiệp định song phương khác có liên
quan đến khuyến khích và bảo hộ đầu tư như hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa
Kỳ. Hiệp định này được kí kết ngày 13/7/2000 (viết tắt là BTA). Đây là hiệp định
song phương được kí kết trên cơ sở WTO và có mức độ cao nhất mà Việt Nam từng
kí kết. Hiệp định chứa đựng các lộ trình, kế hoạch chi tiết cần cải cách có tác động
đến các lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam. Phát triển quan hệ đầu tư là một trong
những nội dung cơ bản của hiệp định được quy định tại chương VI, các phụ lục và
điều khoản. Mặc dù chỉ là một bộ phận trong Hiệp định thương mại, nhưng chương
phát triển đầu tư có nội dung tương tự như một hiệp định song phương hoàn chỉnh
về khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa hai nước. Đặc biệt ngoài việc thực hiện các
tiêu chuẩn về khuyến khích và bảo hộ đầu tư như các hiệp định song phương nói
trên, thì đây là lần đầu tiên Việt Nam cam kết với tính chất rằng buộc việc đối xử
quốc gia và đối xử tối huệ quốc cho nhà đầu tư Hoa Kỳ. Trong hiệp định này Việt
Nam cam kết sẽ giành quy chế đối xử quốc gia đối với nhà đầu tư Hoa Kỳ trong
một số lĩnh vực, loại bỏ các biện pháp đầu tư làm cản trở, méo mó thương mại như

18



×