Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Pháp luật ưu đãi xã hội qua thực tiễn tỉnh quảng ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 85 trang )

LÊ MINH SƠN

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬT KINH TẾ

LUẬN VĂN THẠC SỸ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI XÃ HỘI QUA THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NINH

LÊ MINH SƠN

2013 - 2015
HÀ NỘI – 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SỸ

PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI XÃ HỘI QUA THỰC TIỄN
TỈNH QUẢNG NINH
LÊ MINH SƠN

CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60380107
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS.NGUYỄN HỮU CHÍ



HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
riêng tôi. Các số liệu và kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc rõ
ràng.
Hà Nội, ngày 18 tháng 11 năm 2015
Tác giả

Lê Minh Sơn


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban Giám Hiệu, các Khoa và các thầy cô giáo
của Viện Đại học Mở Hà Nội đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và
nghiên cứu để hoàn thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến Phó giáo sư – Tiến sĩ Nguyễn
Hữu Chí, người hướng dẫn tận tình, chu đáo để tôi hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, ngày 18 tháng 11 năm 2015
Học viên

Lê Minh Sơn


MỤC LỤC
Trang
LỜI NÓI ĐẦU


1

Chương 1

6

MỘT SỐ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI XÃ
HỘI

1.1

Khái niệm pháp luật ưu đãi xã hội

6

1.1.1

Khái niệm ưu đãi xã hội

6

1.1.2

Định nghĩa pháp luật ưu đãi xã hội

7

1.2

Sự cần thiết quy định về pháp luật ưu đãi xã hội


10

1.3

Quy định pháp luật đối với ưu đãi xã hội ở Việt Nam

12

1.3.1

Đối tượng được hưởng ưu đãi

12

1.3.2

Thủ tục làm chế độ hưởng ưu đãi của đối tượng có công với cách

14

mạng
1.3.3

Chế độ được hưởng ưu đãi của các đối tượng

15

1.3.4


Nguồn lực thực hiện

21

1.4

Sơ lược lịch sử pháp luật đối với người có công ở Việt Nam

22

(Từ sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay)
Chương 2

THỰC TRẠNG THỰC HIỆN PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI

28

NGƯỜI CÓ CÔNG TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NINH
2.1

Tổng quan về tỉnh Quảng Ninh

40

2.2

Thực trạng thực hiện pháp luật đối với người có công trên

42


địa bàn tỉnh Quảng Ninh
2.2.1

Những thành tựu đạt được

43

2.2.2

Những hạn chế, tồn tại

53


Chương 3

NHỮNG GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐỐI VỚI

59

NGƯỜI CÓ CÔNG QUA THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG
NINH
3.1

Phương hướng hoàn thiện pháp luật ưu đãi xã hội

60

3.1.1


Pháp luật ưu đãi xã hội phải phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội

61

của đất nước
3.1.2

Pháp luật ưu đãi xã hội phải đảm bảo tính toàn diện

62

3.1.3

Pháp luật ưu đãi xã hội phải đảm bảo tính thực tiễn

63

3.1.4

Xã hội hóa hoạt động ưu đãi xã hội, trong đó nhà nước giữ vai trò

64

chủ đạo
3.2

Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật đối với người có công

65


3.2.1

Về đối tượng hưởng ưu đãi người có công

65

3.2.2

Về các chế độ trợ cấp ưu đãi

67

3.2.3

Hoàn thiện cơ chế thực thi, kiểm tra, giám sát việc thực hiện

68

3.2.4

Về việc xây dựng Luật ưu đãi xã hội

69

KẾT LUẬN

74

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


76


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AHLLVTND

: Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân

AHLĐ

: Anh hùng lao động

CĐHH

: Chất độc hóa học

BHYT

: Bảo hiểm y tế

BMVNAH

: Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng

ĐXCB

: Định xuất cơ bản

HĐCM


: Hoạt động cách mạng

KNLĐ

: Khả năng lao động

LĐTBXH

: Lao động - Thương binh - Xã hội

TKN

: Tiền khởi nghĩa

UBND

: Ủy ban nhân dân


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thực hiện chính sách, chế độ ưu đãi thương binh, liệt sĩ, người có công với
cách mạng và nhân thân của họ luôn được Đảng, Nhà nước và toàn xã hội quan tâm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người khởi xướng và nêu lên những quan điểm về ưu đãi
người có công với cách mạng. Người đã khẳng định: “Thương binh, bệnh binh, gia
đình quân nhân và gia đình liệt sĩ là những người có công với Tổ quốc, với nhân
dân. Cho nên bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu giúp đỡ họ...”.
Người đã chỉ thị lấy ngày 27 tháng 7 hàng năm là ngày để đồng bào cả nước thể
hiện tình nghĩa đối với những người có công, những gia đình chính sách.

Phát huy truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Ăn quả
nhớ người trồng cây” trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều
chính sách, chế độ để chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của người có công, giải
quyết có hiệu quả những tồn đọng về chính sách sau chiến tranh.
Các chính sách của Nhà nước đóng vai trò là nền tảng, hỗ trợ những yêu cầu
cơ bản và quan trọng nhất trong cuộc sống của người có công. Sự hỗ trợ đó thay đổi
theo thời gian với xu hướng ngày càng tăng cùng với sự phát triển nền kinh tế, mức
tăng trong cuộc sống của toàn dân.
Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII trình Đại hội
Đảng Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cũng ghi rõ: “Thực hiện chính sách
ưu đãi xã hội và vận động toàn dân tham gia các hoạt động đền ơn đáp nghĩa, uống
nước nhớ nguồn đối với các lão thành cách mạng, những người có công với nước,
Bà mẹ Việt nam anh hùng, thương binh và cha mẹ, vợ con liệt sĩ, gia đình chính
sách”. Nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã nêu rõ mục tiêu chăm lo tốt hơn đời sống
đối với gia đình người có công với cách mạng, đảm bảo tất cả các gia đình chính
sách có cuộc sống bằng hoặc khá hơn mức sống trung bình của cộng đồng.
Từ những quan điểm đó, qua các thời kỳ chính sách, chế độ ưu đãi người có
công với cách mạng và thân nhân của họ từng bước được bổ sung, hoàn thiện căn

1


bản, đã phát triển tương đối toàn diện cả về công tác chăm sóc đời sống, sắp xếp
việc làm, ưu đãi vật chất và tinh thần, huy động sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội,
của các ngành các cấp.
Trải qua các thời kỳ cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, đất nước ta bước vào thời kỳ đổi mới, nền kinh tế đã có sự tăng trưởng vượt
bậc, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao đáng kể, do đó
chính sách dành cho người có công cũng từ đó có những bước tiến rõ rệt, góp phần
làm ổn định đời sống mọi mặt của người có công, đảm bảo sự công bằng xã hội.

Pháp luật đối với người có công chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong hệ
thống an sinh xã hội của Việt Nam. Pháp luật đối với người có công là minh chứng
hùng hồn cho truyền thống: “Uống nước nhớ nguồn”, “Đền ơn đáp nghĩa”, “Ăn quả
nhớ người trồng cây” của dân tộc ta, là nghĩa tình, là sự biết ơn và kính trọng của
lớp lớp thế hệ sau đối với những lớp người đã hy sinh xương máu vì độc lập tự do
của Tổ quốc ở mọi thời đại.
Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Thương binh, bệnh binh, gia
đình quân nhân và gia đình liệt sĩ là những người có công với Tổ quốc, với nhân
dân. Cho nên bổn phận của chúng ta là phải biết ơn, phải thương yêu giúp đỡ họ...”.
Một khi chính sách ưu đãi người có công được quan tâm đúng mức và được
thực hiện tốt, có hiệu quả, đảm bảo được sự công bằng và công khai sẽ tạo ra niềm
tin vào một chế độ xã hội tốt đẹp cho mọi thành viên trong xã hội, là sự động viên,
khích lệ người có công tiếp tục cống hiến, hy sinh vì Tổ quốc phồn vinh và bền
vững. Qua đó cũng là động lực cho lớp trẻ cũng như mọi thành viên trong xã hội
phấn đấu, hy sinh không mệt mỏi vì một đất nước Việt Nam độc lập, phồn vinh và
thịnh vượng
Cải cách hành chính trong thực hiện chính sách ưu đãi người có công ngày
càng có nhiều tiến bộ. Địa phương, cơ sở được phân cấp mạnh. Đối tượng hưởng
chính sách sẽ thuận lợi hơn rất nhiều khi làm thủ tục hành chính nhận sự hỗ trợ của
Nhà nước.

2


Trong những năm qua, chính sách ưu đãi người có công với cách mạng được
triển khai thực hiện trên khắp các vùng miền của đất nước. Ở mỗi địa phương, việc
thực hiện chính sách có sự điều chỉnh linh hoạt, phù hợp với đặc điểm, tình hình
riêng. Quảng Ninh là một trong những tỉnh luôn dẫn đầu trong công tác thực hiện
chính sách ưu đãi người có công với cách mạng. Tỉnh Quảng Ninh nói chung, Sở
Lao động – Thương binh & Xã hội, phòng Lao động- Thương binh và xã hội các

huyện thị nói riêng, luôn thực hiện chi trả trợ cấp đúng thời hạn, đầy đủ, cùng các
chương trình chăm sóc người có công khác, với thái độ phục vụ tốt nhất, đáp ứng
nhu cầu cần thiết của đối tượng người có công. Hiện nay, công tác thực hiện chính
sách ưu đãi người có công của tỉnh là rất tốt, song vẫn còn tồn tại những hạn chế
nhất định.
Tuy nhiên, pháp luật về ưu đãi xã hội hiện nay còn một số mặt hạn chế. Có thể
thấy như mức trợ cấp còn thấp so với tốc độ gia tăng giá cả của đời sống xã hội đã
dẫn đến tình trạng đời sống của nhiều người, nhiều gia đình chính sách chưa được
bảo đảm. Thủ tục để được công nhận là đối tượng chính sách (liệt sĩ, thương binh...)
nhìn chung là đầy đủ, khá đơn giản nhưng lại không linh hoạt; thực tiễn tồn tại rất
nhiều trường hợp do thời gian hay những lý do khác đã không đáp ứng được những
yêu cầu về mặt thủ tục, giấy tờ mà pháp luật yêu cầu nên đã không được công nhận
là đối tượng chính sách để được hưởng ưu đãi xã hội...
Với tâm huyết tìm hiểu, nghiên cứu những vấn đề lý luận về pháp luật đối với
người có công, thông qua thực tiễn để tìm ra những hạn chế của pháp luật đối với
người có công, nhằm mục đích từ đó có kiến nghị hoàn thiện hơn nữa pháp luật đối
với người có công. Đó chính là lý do mà tác giả đã lựa chọn đề tài “Pháp luật ưu
đãi xã hội qua thực tiễn tỉnh Quảng Ninh” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Thực hiện chính sách pháp luật, chế độ ưu đãi đối với người có công hiện nay
là vấn đề được toàn xã hội quan tâm.

3


Từ trước đến nay có rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến đề tài pháp luật
đối với người có công như: “Đổi mới chính sách xã hội - Luận cứ và giải pháp”
của GS. Phạm Xuân Nam (Chủ biên) năm 1993; Một số suy nghĩ hoàn thiện pháp
luật ưu đãi người có công của Tiến sỹ Nguyễn Đình Liêu năm 2000; “Những nguyên
tắc cơ bản của an sinh xã hội” của TS. Lưu Bình Nhưỡng năm 2004; “Một số vấn

đề cơ bản về chính sách xã hội ở Việt Nam hiện nay” năm 2013 của GS.TS Mai
Ngọc Cường (Chủ biên)... Nhìn chung, các đề tài và tài liệu đưa ra nhiều giải pháp
thực hiện chính sách ưu đãi người có công còn giá trị cho đến thời điểm hiện nay.
Tuy nhiên, cho đến thời điểm hoàn thành Luận án này, chưa có một công trình
nghiên cứu, đánh giá chuyên sâu về pháp luật ưu đãi xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng
Ninh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài sẽ tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về pháp
luật ưu đãi xã hội trên địa bàn tỉnh Quảng Ninh. Trong nội dung của đề tài, tác giả
sẽ đưa ra những nhận xét, đánh giá thực tiễn cũng như những hạn chế của pháp luật
ưu đãi xã hội từ đó nêu lên những kiến nghị có thể được áp dụng để hoàn thiện hơn
pháp luật về ưu đãi xã hội, góp phần nâng cao đời sống, đảm bảo công bằng cho các
đối tượng được hưởng ưu đãi xã hội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn có đối tượng nghiên cứu chính là những vấn đề thực tiễn cũng như lý
luận về pháp luật ưu đãi xã hội, phân tích, tìm ra những tồn tại của pháp luật ưu đãi
xã hội từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy phạm pháp luật ưu đãi xã
hội qua thực tiễn tỉnh Quảng Ninh.
Luận văn chỉ giới hạn nghiên cứu những quy phạm pháp luật về chính sách ưu
đãi xã hội trong giai đoạn từ sau Cách mạng tháng Tám - 1945 đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu

4


Luận văn được viết dựa trên sự tổng hợp các phương pháp nghiên cứu, trong
đó tác giả sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính như phương pháp duy vật
lịch sử, phương pháp phân tích, so sánh…
6. Những đóng góp mới của Luận văn
Luận văn đã góp phần làm sáng tỏ hơn nữa những vấn đề lý luận cơ bản về

pháp luật ưu đãi xã hội.
Phân tích vai trò, ý nghĩa cũng như những nguyên tắc điều chỉnh xuyên suốt
pháp luật ưu đãi xã hội.
Phân tích thực trạng pháp luật ưu đãi xã hội từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh, trên
cơ sở đó đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật ưu đãi xã hội.
Đưa ra những vấn đề cơ bản cũng như mô hình để xây dựng pháp luật ưu đãi
xã hội ở Việt Nam.
7. Kết cấu của Luận văn
Nội dung chính của Luận văn gồm có 03 chương:
Chương 1: Khái quát chung về pháp luật ưu đãi xã hội.
Chương 2: Trực trạng thực hiện pháp luật ưu đãi xã hội từ thực tiễn tỉnh Quảng
Ninh.
Chương 3: Những giải pháp hoàn thiện thực hiện pháp luật ưu đãi xã hội từ
thực tiễn tỉnh Quảng Ninh.
Ngoài ra Luận văn còn có phần mục lục; lời nói đầu; phần kết luận và danh
mục tài liệu tham khảo.

5


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ PHÁP LUẬT ƯU ĐÃI XÃ HỘI


Khái niệm pháp luật ưu đãi xã hội
1.1.1 Khái niệm ưu đãi xã hội
Ở Việt Nam khái niệm ưu đãi xã hội gắn liền với khái niệm người có công với

cách mạng. Ngay sau khi giành được chính quyền, từ những ngày đầu của cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp, Hồ Chủ Tịch đã ký sắc lệnh số 20/SL ngày

16/02/1947 về “Ưu đãi người có công”, nhưng đến khi Nhà nước ban hành Pháp
lệnh người có công với cách mạng, thì khái niệm người có công với cách mạng mới
được nêu đầy đủ. Có thể hiểu khái niệm người có công theo hai nghĩa sau:
Theo nghĩa rộng: Người có công là những người không phân biệt tôn giáo, tín
ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác, đã tự nguyện cống hiến sức lực, tài năng, trí tuệ,
hiến dâng cả cuộc đời mình cho sự nghiệp dựng nước, giữ nước và kiến thiết đất
nước. Họ là những người có thành tích đóng góp, những cống hiến xuất sắc phục vụ
cho lợi ích của đất nước, của dân tộc được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền công
nhận theo quy định của pháp luật. Ở đây có thể thấy rõ những tiêu chí cơ bản của
người có công, đó là phải có đóng góp, cống hiến xuất sắc và vì lợi ích của dân tộc.
Những đóng góp, cống hiến của họ có thể là trong các cuộc đấu tranh giành độc lập,
tự do cho Tổ quốc và cũng có thể là trong công cuộc xây dựng và kiến thiết đất
nước.
Theo nghĩa hẹp: Người có công là những người không phân biệt tôn giáo, tín
ngưỡng, dân tộc, nam nữ, tuổi tác, có những đóng góp, những cống hiến xuất sắc
trong thời kỳ cách mạng tháng Tám năm 1945, trong các cuộc kháng chiến giải
phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận
theo quy định của pháp luật. Ở khái niệm này, Người có công bao gồm những người
đã hy sinh xương máu hoặc một phần thân thể của mình trong hoạt động giúp đỡ
cách mạng, hoặc cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp cách mạng và được các
cơ quan tổ chức có thẩm quyền công nhận.

6


Phạm trù người có công rất rộng, trong phạm vi hẹp đối tượng người có công
là những người có công trong các cuộc kháng chiến trường kỳ giải phóng dân tộc và
bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Theo quy định tại Điều 2 Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng số
26/2005/PL-UBTVQH11 ngày 29/6/2005 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá XI

(Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng năm 2005) và Pháp lệnh số
04/2012/UBTVQH13 ngày 16/7/2012 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa XIII
sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng
năm 2005, đối tượng được hưởng chế độ ưu đãi gồm:
- Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945;
- Người hoạt động cách mạng từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến ngày khởi
nghĩa Tháng Tám năm 1945;
- Liệt sĩ ;
- Bà mẹ Việt Nam anh hùng;
- Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân;
- Anh hùng lao động thời kì kháng chiến;
- Thương binh, người hưởng chính sách như thương binh;
- Bệnh binh;
- Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học;
- Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù đày;
- Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm
nghĩa vụ Quốc tế;
- Người có công giúp đỡ cách mạng.
- Thân nhân của người có công với cách mạng.
Tất cả những đối tượng được coi là người có công bao giờ cũng được Nhà
nước và xã hội dành cho những ưu tiên, những đãi ngộ hơn mức bình thường so với

7


các đối tượng khác trong mọi mặt của đời sống xã hội. Những ưu tiên, đãi ngộ hơn
mức bình thường ấy chính là ưu đãi xã hội.
Vì vậy, ưu đãi xã hội được hiểu là sự đãi ngộ của nhà nước, của cộng đồng và
toàn xã hội về đời sống vật chất cũng như tinh thần đối với những người có công và
gia đình họ.

1.1.2. Định nghĩa pháp luật ưu đãi xã hội
Ở bất kỳ thời kỳ nào của một quốc gia, một dân tộc đều có những con người
cống hiến hết mình cho hòa bình, ổn định và sự phát triển bền vững của đất nước.
Những sự cống hiến đó đều được Nhà nước và xã hội ghi nhận, tôn vinh và biết ơn
thông qua những ưu đãi về cả vật chất lẫn tinh thần mà Nhà nước, xã hội dành cho
họ.
Trải qua hơn 4000 năm dựng và giữ nước, với các chế độ chính trị xã hội
khác nhau, với những quan niệm về con người, xã hội, chính trị… khác nhau,
nhưng có thể khẳng định dù ở bất kỳ thời kỳ nào, giai đoạn lịch sử nào, chế độ nào
của đất nước thì những người có công với đất nước đều được suy tôn và chính
quyền luôn có chính sách ưu đãi đối với họ. Ở mỗi thời kỳ khác nhau, chế độ khác
nhau thì chính sách đối với người có công cũng khác nhau. Nhưng suy cho cùng thì
chính sách ưu đãi đối với người có công là sự ghi nhận những công lao của họ cho
đất nước, là những chế độ đãi ngộ về vật chất và tinh thần, là sự bày tỏ lòng biết ơn
đến những người đã hy sinh, đã cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ và phát triển đất
nước.
Với đặc điểm lịch sử của dân tộc Việt Nam, lịch sử của những cuộc đấu
tranh giành và giữ nước nên những người có công là một bộ phận lớn những người
đã hy sinh, cống hiến cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, đó là những Bà mẹ Việt Nam
anh hùng, những thương binh, liệt sĩ, người có công giúp đỡ cách mạng,… Họ là
những người có công với cách mạng, với đất nước, được Nhà nước và nhân dân ghi
nhận, biết ơn sâu sắc. Do vậy, ưu đãi xã hội xét ở một góc độ nào đó chính là những

8


ưu đãi đối với người có công với cách mạng (pháp luật ưu đãi xã hội Việt Nam hiện
nay chỉ quy định về đối tượng này).
Tuy nhiên, những người có công với đất nước không chỉ bao gồm những
người có công với cách mạng, những người đã xả thân vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc,

vì độc lập dân tộc. Bên cạnh đó còn một bộ phận những người đã cống hiến, hy sinh
hết sức mình để bảo vệ, xây dựng và giữ vững đất nước không phải chỉ trong thời
chiến mà cả trong thời bình, họ đã đem lại những thành tích, sự vinh quang cho đất
nước, góp phần vào sự phát triển của đất nước cũng như khẳng định vị thế của đất
nước trên trường quốc tế… Vì thế, đối tượng người có công được hưởng ưu đãi xã
hội không chỉ bó hẹp trong phạm vi những người có công với cách mạng mà còn
được hiểu theo nghĩa rộng, đó là những người đã cống hiến sức lực, năng lực, trí tuệ
và mạng sống của mình cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, phát triển đất nước mà
không có bất kỳ sự đòi hỏi, yêu cầu bù đắp nào. Họ là những người có thành tích
xuất sắc bảo vệ cho sự bình an của xã hội, làm rạng danh đất nước, cống hiến, hy
sinh vì lợi ích của đất nước, của dân tộc, được sự công nhận của pháp luật mà
không có sự phân biệt tôn giáo, dân tộc, tín ngưỡng, tuổi tác, giới tính, nghề
nghiệp…, như Nhà giáo nhân dân, Nghệ sĩ nhân dân, Thầy thuốc ưu tú, Nhà kinh tế,
Nhà khoa học có đóng góp xuất sắc…
Lịch sử đã chứng minh, dân tộc Việt Nam là một dân tộc anh hùng. Gần một
thập kỷ qua dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân
dân ta đã đồng lòng quyết tâm thực hiện lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh
“Không có gì quý hơn độc lập tự do”; “Thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước,
không chịu làm nô lệ”. Với quyết tâm ấy, dân tộc Việt Nam đã giành được thắng lợi
trước kẻ thù xâm lược. Để có được thắng lợi to lớn ấy, hàng triệu đồng bào, chiến sĩ
ta đã vượt qua bao gian lao, vất vả, hàng triệu người đã hy sinh, bị thương, hay bệnh
tật, không biết bao nhiêu người đã mất đi người thân, những hậu quả to lớn, những
dấu ấn tàn khốc của chiến tranh vẫn còn in đậm trong tâm trí bao thế hệ người Việt
Nam. Khi chiến tranh đã đi qua, những đối tượng này và cả người thân của họ đã
gặp không ít khó khăn trong cuộc sống. Sức khỏe của họ đã bị suy giảm, tuổi tác

9


cũng gây ra khó khăn không kém, những di chứng của chiến tranh làm cho họ khó

có thể phấn đấu, học tập, rèn luyện, làm việc để có thể thích nghi với cuộc sống
đang ngày phát triển. Hơn nữa, họ không có điều kiện để chăm lo cho gia đình, con
cái, người thân của họ bị thiệt thòi, cuộc sống gia đình bị ảnh hưởng. Họ là những
đối tượng cần tới sự trợ giúp của Nhà nước, sự giúp đỡ của xã hội. Những hy sinh,
mất mát, cống hiến, công lao của họ cũng như thân nhân của họ xứng đáng được
Nhà nước, xã hội ghi nhận và trợ giúp.
Vì vậy, “ưu đãi xã hội được hiểu là sự đãi ngộ của Nhà nước, cộng đồng và
toàn xã hội về đời sống vật chất cũng như tinh thần đối với người có công và gia
đình họ”.
Chính sách ưu đãi xã hội là một chính sách lớn của Đảng và Nhà nước ta.
Căn cứ vào nhiệm vụ chính trị, kế hoạch phát triển, tình hình kinh tế - chính trị - xã
hội ở mỗi thời kỳ mà Đảng, Nhà nước đưa ra những chính sách ưu đãi khác nhau
đối với người có công để ghi nhận những đóng góp, công lao to lớn của người có
công; thể hiện sự quan tâm, biết ơn của Đảng, Nhà nước và nhân đân đối với sự hy
sinh, cống hiến của họ cho đất nước; bù đắp một phần nào đó cho họ về đời sống
vật chất cũng như tinh thần. Ngay từ những ngày đầu giành được chính quyền (năm
1945), tuy còn nhiều khó khăn, phải đương đầu với thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm
lược nhưng Đảng và Nhà nước ta vẫn rất chú trọng đến công tác xây dựng cũng như
thực hiện chính sách này. Chính sách ưu đãi đối với người có công là một chính
sách đặc biệt giành cho những đối tượng đặc biệt. Vì thế, Nhà nước với vai trò và
chức năng của mình, sử dụng các biện pháp khác nhau để xây dựng và triển khai
đưa các chính sách ưu đãi đối với người có công vào cuộc sống. Không những vậy,
Đảng và Nhà nước còn vận động, kêu gọi và khuyến khích mọi người dân, các tổ
chức tham gia các phong trào thiết thực nhằm mục đích thực hiện tốt nhất chính
sách ưu đãi đối với người có công.
Thực hiện tốt chính sách đối với người có công là việc làm có ý nghĩa quan
trọng, nó không chỉ giúp ổn định đời sống của các đối tượng đặc biệt này, giúp họ
hòa nhập với cộng đồng mà còn góp phần vào sự ổn định và phát triển của xã hội.

10



Thực hiện chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công không chỉ thể hiện trách
nhiệm của Đảng, Nhà nước mà còn thể hiện sự biết ơn đối với những cống hiến của
họ, hơn nữa nó còn góp phần giáo dục thế hệ đi sau nhận thức được trách nhiệm của
mình, tiếp tục phát huy hơn nữa tinh thần xả thân vì đất nước, lòng dũng cảm,
những thành quả mà thế hệ cha anh đã ra sức bảo vệ, vun đắp nên. Do đó, chính
sách ưu đãi xã hội đối với người có công mang tính nhân văn sâu sắc, nó góp phần
tạo ra môi trường lành mạnh, nâng cao ý thức trách nhiệm cho mỗi công dân trong
xã hội.
Ở Việt Nam chính sách ưu đãi xã hội là một bộ phận quan trọng của chính
sách an sinh xã hội. Chính sách an sinh xã hội là sự bảo vệ của Nhà nước, xã hội đối
với các thành viên của mình thông qua các chính sách và chương trình cụ thể nhằm
giúp cho họ có cuộc sống ổn định, phát triển lành mạnh. Hệ thống chính sách an
sinh xã hội của nước ta chủ yếu điều chỉnh ba nhóm quan hệ chủ yếu là bảo hiểm xã
hội, cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội. Trong đó, chính sách bảo hiểm xã hội nhằm
mục đích bảo vệ cho người lao động ở mọi thành phần kinh tế khi họ gặp phải
những rủi ro không may trong quá trình lao động làm cho khả năng lao động của họ
bị giảm sút, hay trong trường hợp người lao động già yếu không có khả năng lao
động. Chính sách cứu trợ xã hội là sự trợ giúp của Nhà nước đối với các thành viên
của xã hội khi họ bị rơi vào hoàn cảnh rủi ro, bất hạnh, nghèo đói, khó khăn, hiểm
nghèo… nhằm giúp họ tồn tại, ổn định cuộc sống, tái hòa nhập cộng đồng. Còn
chính sách ưu đãi xã hội như đã phân tích ở trên chính là chính sách ưu đãi người có
công. Tuy nhiên, khác với các chính sách còn lại trong hệ thống an sinh xã hội thì
chính sách ưu đãi xã hội không chỉ là sự bảo vệ, trợ giúp của Nhà nước mà nó còn
là nghĩa vụ, là trách nhiệm của Nhà nước, của cộng đồng đối với người có công, thể
hiện sự biết ơn sâu sắc đến họ. Vì thế, chính sách ưu đãi xã hội có vị trí quan trọng
trong hệ thống chính sách an sinh xã hội. Đó không chỉ là vấn đề truyền thống, đạo
lý mà còn là vấn đề chính trị, giáo dục, là vấn đề kinh tế, xã hội có ý nghĩa lâu dài.
Để điều chỉnh các mối quan hệ xã hội, Nhà nước đặt ra pháp luật, quy định

những quy tắc xử sự chung nhất cho các mối quan hệ xã hội và đảm bảo việc thực

11


thi bằng những biện pháp thuyết phục, cưỡng chế của mình. “Pháp luật là hệ thống
các quy tắc xử sự do Nhà nước ban hành (hoặc thừa nhận) và đảm bảo thực hiện,
thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là yếu tố điều chỉnh các quan hệ xã
hội nhằm tạo ra trật tự và ổn định trong xã hội”.
Pháp luật ưu đãi xã hội là sự thể chế hóa các chính sách ưu đãi của Đảng,
Nhà nước đối với người có công, các quyền ưu đãi của người có công và những
đảm bảo về mặt pháp lý cho việc thực hiện các quyền đó. Pháp luật ưu đãi người có
công quy định những nguyên tắc, cách thức, phương pháp thực hiện các chế độ ưu
đãi đối với người có công; quy định quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan Nhà
nước trong việc thực hiện ưu đãi đối với người có công; điều chỉnh tất cả các hoạt
động ưu đãi đối với người có công nhằm mục đích đảm bảo thực hiện một cách tốt
nhất, hữu hiệu nhất các chế độ, ưu đãi đối với đối tượng đặc biệt này.
Từ những phân tích trên có thể rút ra kết luận, pháp luật ưu đãi xã hội
(ưu đãi người có công) là tổng thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban
hành nhằm điều chỉnh các quan hệ hình thành trong việc tổ chức và thực hiện
chính sách ưu đãi đối với người có công trên tất cả các lĩnh vực của đời sống.
Pháp luật ưu đãi xã hội là sự thể hiện rõ nhất tính dân tộc, tính xã hội của
pháp luật. Pháp luật ưu đãi xã hội là công cụ quản lý hữu hiệu mọi mặt đời sống,
tinh thần của người có công, giúp phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc,
đảm bảo công bằng, tiến bộ xã hội và góp phần làm cho xã hội phát triển bền vững.
1.2 Sự cần thiết quy định về pháp luật ưu đãi xã hội
Trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng giành chính quyền, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc có biết bao người Việt Nam yêu nước đã “quyết tử cho Tổ quốc quyết
sinh”, đã hy sinh tình cảm cá nhân, hiến dâng máu thịt, sức - trí - lực và tuổi trẻ của
mình cho đất nước. Việc chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho những người có

công với nước và gia đình họ là trách nhiệm của Đảng, Nhà nước và của cả cộng
đồng xã hội, là truyền thống, đạo lý “Đền ơn đáp nghĩa”, “Uống nước nhớ nguồn”
của dân tộc ta.

12


Ưu đãi người có công với nước là chính sách lớn của Đảng và Nhà nước, có ý
nghĩa chính trị, xã hội và nhân văn sâu sắc, thể hiện sự tôn vinh, trân trọng, biết ơn
và ghi nhớ của Tổ quốc và nhân dân đối với những người đã hy sinh và cống hiến
cho sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Cụ thể hoá quan điểm, đường lối của Đảng, Nhà nước ta đã ban hành, bổ sung,
sửa đổi nhiều văn bản pháp luật ưu đãi đối với người có công, khắc phục một số bất
hợp lý, giải quyết một khối lượng lớn công việc do hậu quả của chiến tranh để lại,
hình thành một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực thực hiện thống
nhất trong cả nước, phục vụ cho yêu cầu của giai đoạn mới.
Cùng với sự đổi mới của đất nước khi thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
công tác ưu đãi người có công với cách mạng được Đảng, Nhà nước ta đặc biệt
quan tâm. Văn kiện các Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII, VIII, IX, X trong
thời kỳ đổi mới của đất nước đã xác định rõ: Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền
đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế, và quan tâm chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình
liệt sỹ và người có công với cách mạng... vừa là trách nhiệm của Nhà nước, vừa là
trách nhiệm của nhân dân...
Đặc biệt, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành hai pháp lệnh quan trọng:
Pháp lệnh ưu đãi người hoạt động cách mạng, liệt sĩ và gia đình liệt sĩ, thương binh,
bệnh binh, người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng và Pháp
lệnh phong tặng danh hiệu vinh dự Nhà nước Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Qua đó,
nhiều vấn đề còn hạn chế trong chính sách ưu đãi trước đây được điều chỉnh phù
hợp với tình hình mới, được thể hiện trong hệ thống các chính sách cụ thể với từng

đối tượng có công.
Vấn đề ưu đãi người và gia đình có công với cách mạng đã trở thành nguyên
tắc Hiến định và được ghi nhận trang trọng ở Chương V, Điều 67 của Hiến pháp
năm 1992: “Thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ được hưởng các chính sách ưu
đãi của Nhà nước. Thương binh được tạo điều kiện phục hồi chức năng lao động, có
việc làm phù hợp với sức khoẻ và đời sống ổn định. Những người và gia đình có

13


công với nước được khen thưởng, chăm sóc”. Khoản 1 Điều 59 Hiến pháp 2013 nêu
rõ “Nhà nước, xã hội tôn vinh, khen thưởng, thực hiện chính sách ưu đãi đối với
người có công với nước”. Nguyên tắc này đã được thể chế trong Pháp lệnh Ưu đãi
người hoạt động cách mạng, liệt sỹ và gia đình liệt sỹ, thương binh, bệnh binh,
người hoạt động kháng chiến, người có công giúp đỡ cách mạng (gọi tắt là Pháp
lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng) do Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ban
hành ngày 10/9/1994, và được quy định cụ thể tại Nghị định số 28/CP ngày
29/4/1995 của Chính phủ. Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng được Ủy
ban Thường vụ Quốc hội khóa XI ban hành ngày 29/6/2005 có hiệu lực thi hành từ
01/10/2005. Pháp lệnh số 04/2012/UBTVQH13 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
ban hành sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách
mạng có hiệu lực thi hành từ ngày 01/9/2012. Đây là một bước tiến dài trong việc
pháp điển hoá pháp luật ưu đãi xã hội, là sự kế thừa, chọn lọc và phát triển những
bài học của nửa thế kỷ qua với một hệ thống trên 1.400 văn bản quy định về chính
sách ưu đãi xã hội (ưu đãi đối với người có công với cách mạng).
Với việc ban hành Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng, nhiều vấn
đề còn tồn tại trong chính sách ưu đãi trước đây được điều chỉnh phù hợp với tình
hình mới, như việc áp dụng thống nhất mức trợ cấp giữa thương binh hưởng lương
và thương binh hưởng sinh hoạt phí khi bị thương; giữa thương binh đang công tác
hay nghỉ hưu với thương binh về địa phương có cùng tỷ lệ thương tật; thực hiện

công bằng trong chính sách giữa người có công thoát ly và không thoát ly, căn bản
tách chế độ ưu đãi tồn tại từ mấy chục năm trong chính sách bảo hiểm xã hội
chuyển sang chính sách ưu đãi xã hội (như thâm niên kháng chiến, phụ cấp đối với
cán bộ Lão thành cách mạng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, Anh hùng
Lao động...).
Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách mạng đã nêu rõ một nguyên tắc
chung là chế độ ưu đãi phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội và được bảo đảm bằng
ngân sách nhà nước. Các nội dung ưu đãi người có công với cách mạng được luật
pháp hoá, trở thành một hệ thống chính sách bao gồm nhiều mặt của đời sống (trợ

14


cấp, phụ cấp, chăm sóc sức khỏe, cải thiện nhà ở, ưu đãi về giáo dục - đào tạo, về
việc làm, ruộng đất, tín dụng, thuế...).
Pháp luật ưu đãi người có công là tổng thể những quy phạm pháp luật điều
chỉnh các quan hệ xã hội hình thành trong quá trình tổ chức và thực hiện chế độ ưu
đãi người có công trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội…
Đó là phương tiện, công cụ quản lý có hiệu lực mọi mặt đời sống vật chất và
tinh thần của người có công; là những chế định pháp luật quy định các chế độ về trợ
cấp, về việc làm, về giáo dục và đào tạo… liên quan đến người có công và những
biện pháp đảm bảo thực hiện.
1.3 Quy định pháp luật ưu đãi xã hội ở Việt Nam
1.3.1 Đối tượng được hưởng ưu đãi
Đối tượng điều chỉnh của Luật ưu đãi xã hội là những quan hệ xã hội hình
thành trong lĩnh vực ưu đãi đối với người có công. Đó là quan hệ giữa một bên là
Nhà nước và một bên là người có công cùng với gia đình của họ trong nhiều lĩnh
vực khác nhau của đời sống xã hội như: quan hệ về trợ cấp, ưu đãi; quan hệ về
chăm sóc y tế; giáo dục; quan hệ về việc làm; nhà ở; trợ giúp pháp lý miễn phí…
Với đặc điểm này, pháp luật ưu đãi xã hội đã trở thành một nét đặc thù trong hệ

thống pháp luật an sinh xã hội của Việt Nam.
Điều 2 Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng năm 2005 được Pháp
lệnh số 04/2012/UBTVQH13 sửa đổi bổ sung một số điều của Pháp lệnh ưu đãi
người có công với cách mạng quy định có 2 nhóm đối tượng được hưởng chế độ ưu
đãi đó là, người có công cách mạng và thân nhân của người có công với cách mạng,
trong đó người có công cách mạng bao gồm có 12 đối tượng:
- Người hoạt động cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945: Là người
được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận đã tham gia tổ chức cách mạng
trước ngày 01 tháng 01 năm 1945.
- Người hoạt động cách mạng từ 01/01/1945 đến trước Tổng khởi nghĩa 19
tháng Tám năm 1945: Là người được cơ quan, tổ chức có thẩm quyền công nhận

15


đứng đầu một tổ chức quần chúng cách mạng cấp xã hoặc thoát ly hoạt động cách
mạng kể từ ngày 01 tháng 01 năm 1945 đến trước Tổng khởi nghĩa 19 tháng Tám
năm 1945.
- Liệt sĩ: Là người đã hy sinh vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, bảo
vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế hoặc vì lợi ích của Nhà nước, của nhân dân
được Nhà nước truy tặng Bằng “Tổ quốc ghi công”.
- Bà mẹ Việt Nam anh hùng: Những Bà mẹ được tặng hoặc truy tặng danh hiệu
“Bà mẹ Việt Nam anh hùng” là những bà mẹ có nhiều cống hiến, hy sinh vì sự
nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ Quốc tế được quy định tại
Điều 2 Nghị định 56/2013/NĐ-CP ngày 22/5/2013 quy định chi tiết và hướng dẫn thi
hành Pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam anh hùng”.
- Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân là người được Nhà nước tặng hoặc
truy tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” vì đã có thành tích đặc
biệt xuất sắc trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu.
- Anh hùng lao động trong thời kỳ kháng chiến là người được nhà nước tuyên

dương Anh hùng lao động vì có thành tích xuất sắc trong lao động, sản xuất phục vụ
kháng chiến (tuyên dương trước ngày 30/4/1975).
- Thương binh, người được hưởng chính sách như thương binh
Thương binh là người đã hy sinh vì sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc,
bảo vệ Tổ quốc và làm nghĩa vụ quốc tế hoặc vì lợi ích của Nhà nước, của nhân dân
được Nhà nước truy tặng Bằng "Tổ quốc ghi công" được quy định tại Điều 19 Pháp
lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Ưu đãi người có công với cách
mạng năm 2012.
- Bệnh binh là quân nhân, công an nhân dân mắc bệnh làm suy giảm khả năng
lao động từ 61% trở lên khi xuất ngũ về gia đình được cơ quan, đơn vị có thẩm
quyền cấp “Giấy chứng nhận bệnh binh”; mắc bệnh làm suy giảm khả năng lao
động từ 41% - 60% đã được cơ quan, đơn vị có thẩm quyền công nhận trước ngày
31/12/1994.

16


- Người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học là người được cơ
quan có thẩm quyền công nhận đã tham gia công tác, chiến đấu, phục vụ chiến đấu
tại các vùng mà quân đội Mỹ đã sử dụng chất độc hóa học, bị mắc bệnh làm suy
giảm khả năng lao động, sinh con dị dạng, dị tật hoặc vô sinh do hậu quả của chất
độc hóa học .
- Người hoạt động cách mạng, hoạt động kháng chiến bị địch bắt tù, đày là
người được cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền công nhận trong thời gian bị tù, đày
không khai báo có hại cho cách mạng, cho kháng chiến, không làm tay sai cho địch.
- Người hoạt động kháng chiến giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và làm
nghĩa vụ quốc tế là người tham gia kháng chiến trong khoảng thời gian từ ngày 19
tháng 8 năm 1945 đến ngày 30 tháng 4 năm 1975 được Nhà nước tặng Huân
chương Kháng chiến hoặc Huân chương Chiến thắng, Huy chương Kháng chiến
hoặc Huy chương Chiến thắng.

- Người có công giúp đỡ cách mạng là người đã có thành tích giúp đỡ cách
mạng trong lúc khó khăn, nguy hiểm.
1.3.2 Thủ tục làm chế độ hưởng ưu đãi của các đối tượng có công với cách
mạng
Căn cứ Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng hiện hành; Nghị định
31/2013/NĐ-CP ngày 09/4/2013 của Chính phủ quy định chi tiết, hướng dẫn thi
hành một số điều của Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng; Thông tư
05/2013/TT-BLĐTBXH ngày 15/5/2013 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
hướng dẫn về thủ tục lập hồ sơ, quản lý hồ sơ, thực hiện chế độ ưu đãi người có
công với cách mạng và thân nhân; các đối tượng lập hồ sơ theo yêu cầu gửi đến các
cơ quan chức năng để được giải quyết chế độ ưu đãi theo quy định của pháp luật;
Thông tư liên tịch số 28/2013/TTLT-BLĐTBXH-BQP ngày 22/10/2013 của Bộ Lao
động - Thương binh và Xã hội, Bộ quốc phòng hướng dẫn xác nhận liệt sỹ, thương
binh, người hưởng chính sách như thương binh trong chiến tranh không còn giấy tờ.

17


Đối với từng trường hợp, từng đối tượng nhà nước hướng dẫn lập hồ sơ để được
hưởng các chế độ ưu đãi của người có công với cách mạng:
- Thủ tục công nhận và quyết định thực hiện ưu đãi đối với người hoạt động
cách mạng trước ngày 01 tháng 01 năm 1945 được thực hiện theo Điều 1 Thông tư
05/2013/TT-BLĐTBXH; Khoản 2 Điều 7 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP.
- Người hoạt động cách mạng từ 01/01/1945 đến trước Tổng khởi nghĩa 19
tháng Tám năm 1945 thực hiện theo Điều 7 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP; Điều 2
Thông tư 05/2013/TT-BLĐTBXH.
- Tùy từng đối tượng liệt sỹ có hướng dẫn cụ thể:
Đối với liệt sỹ trong chiến tranh còn giấy tờ: Thực hiện theo Điều 18 Nghị
định 31/2013/NĐ-CP và Điều 3, Điều 4 Thông tư số 05/2013/TT-BLĐTBXH
Thủ tục xác nhận liệt sỹ hy sinh thuộc lực lượng quân đội, công an trong chiến

tranh không còn giấy tờ được thực hiện theo Điều 4 Thông tư liên tịch số 28/TTLTBLĐTBXH-BQP; Điều 17, Điều 18 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP.
Thủ tục xác nhận liệt sỹ đối với người hy sinh không thuộc lực lượng quân
đội, công an được thực hiện theo Điều 5 Thông tư liên tịch số 28/2013/TTLTBLĐTBXH-BQP; Điểm c, d khoản 2 Điều 18 Nghị định số 31/2013/NĐ-CP.
Thủ tục giải quyết chế độ đối với thân nhân liệt sỹ được thực hiện theo Điều 6,
Điều 7 Thông tư 05/2013/TT-BLĐTBXH.
Thủ tục giải quyết chế độ trợ cấp đối với vợ hoặc chồng liệt sỹ lấy chồng hoặc
vợ khác được thực hiện theo Điều 8 Thông tư 05/2013/TT-BLĐTBXH
Thủ tục giải quyết chế độ trợ cấp thờ cúng liệt sỹ được thực hiện theo Điều 10,
Điều 11 Thông tư 05/2013/TT-BLĐTBXH.
- Hồ sơ hưởng chế độ ưu đãi Bà mẹ Việt Nam anh hùng được quy định tại
Điều 10, Điều 11, Điều 12 Thông tư 05/2013/TT-BLĐTBXH.

18


×