Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Pháp luật về dịch vụ kiểm toán ở việt nam những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.53 MB, 89 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

--------------------------

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ

PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ KIỂM TOÁN Ở
VIỆT NAM - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TRỊNH MINH HUÂN

HÀ NỘI - 2015


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI

--------------------------

LUẬN VĂN THẠC SĨ
PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ KIỂM TOÁN Ở
VIỆT NAM - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

TRỊNH MINH HUÂN
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ
MÃ SỐ: 60 38 01 07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐỒNG NGỌC BA



HÀ NỘI – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan bản luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học
độc lập của tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có
nguồn gốc rõ ràng.
Tác giả luận văn

Trịnh Minh Huân


LỜI CẢM ƠN
Luận văn được thực hiện tại Khoa Sau đại học – Viện Đại học mở Hà
Nội. Để hoàn thành được luận văn này tôi đã nhận được sự động viên, giúp đỡ
của rất nhiều cá nhân và tập thể.
Trước hết, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Đồng Ngọc Ba
đã hướng dẫn tôi thực hiện luận văn của mình.
Xin được cùng bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các thầy, cô giáo đã
giảng dạy cho chương trình Cao học Luật kinh tế Khóa 2013-2015, những
người đã đem lại cho tôi những kiến thức vô cùng có ích trong những năm
học vừa qua.
Tôi cũng xin gửi lời cám ơn chân thành tới Ban Giám hiệu, lãnh đạo
Khoa Sau đại học - Viện Đại học mở Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi cho
tôi trong quá trình học tập.
Cuối cùng tôi xin gửi lời cám ơn đến gia đình, bạn bè, những người
đã luôn bên tôi, động viên và khuyến khích tôi trong quá trình thực hiện đề
tài luận văn của mình.
Tác giả luận văn


Trịnh Minh Huân


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC BẢNG BIỂU
LỜI NÓI ĐẦU .............................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ KIỂM TOÁN
VÀ PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ KIỂM TOÁN............................................. 5
1.1. Khái quát về dịch vụ kiểm toán ............................................................ 5
1.1.1. Khái niệm dịch vụ kiểm toán ......................................................... 5
1.1.2. Phân biệt dịch vụ kiểm toán với hoạt động kiểm toán .................... 7
1.1.3. Phân biệt hoạt động kiểm toán độc lập với hoạt động kiểm toán nhà
nước và hoạt động kiểm toán nội bộ ........................................................ 8
1.1.4. Sự cần thiết và quá trình hình thành kiểm toán độc lập ở Việt Nam . 12
1.1.5. Vai trò của dịch vụ kiểm toán đối với việc hình thành thị trường
dịch vụ thương mại ở Việt Nam............................................................. 16
1.2. Khái quát pháp luật về dịch vụ kiểm toán ở Việt Nam ..................... 18
1.2.1. Khái niệm và vai trò của pháp luật về dịch vụ kiểm toán ............. 18
1.2.2. Những nội dung cơ bản của pháp luật về dịch vụ kiểm toán ........ 21
1.2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến sự điều chỉnh pháp luật về dịch vụ
kiểm toán ........................................................................................ 22
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ KIỂM TOÁN
Ở VIỆT NAM ............................................................................................. 27
2.1. Nội dung của pháp luật hiện hành về dịch vụ kiểm toán .................. 27
2.1.1. Các quy định về doanh nghiệp kiểm toán ..................................... 27
2.1.2. Các quy định về kiểm toán viên và tổ chức nghề nghiệp kiểm toán.... 31
2.1.3. Các quy định về báo cáo kiểm toán, hợp đồng dịch vụ kiểm toán ...... 39



2.2. Thực trạng thi hành pháp luật về dịch vụ kiểm toán ở Việt Nam .... 45
2.2.1. Những thành công trong thi hành pháp luật về dịch vụ kiểm toán.....45
2.2.2. Những vướng mắc, bất cập và nguyên nhân trong thực thi pháp luật
về dịch vụ kiểm toán.............................................................................. 52
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VÀ ĐẢM
BẢO THỰC THI CÓ HIỆU QUẢ PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ KIỂM
TOÁN Ở VIỆT NAM ................................................................................. 64
3.1. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về dịch vụ kiểm toán............ 64
3.2. Một số giải pháp đảm bảo thực thi có hiệu quả pháp luật về dịch vụ
kiểm toán ở Việt Nam ................................................................................ 71
3.2.1. Nâng cao năng lực doanh nghiệp kiểm toán ................................. 71
3.2.2. Đổi mới chương trình, nội dung, phương thức và nâng cao chất
lượng đào tạo, đạo đức hành nghề của kiểm toán viên ........................... 73
3.2.3. Tăng cường vai trò và chất lượng hoạt động của tổ chức nghề nghiệp ..76
KẾT LUẬN ................................................................................................. 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 80


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tổng hợp các thông tin chủ yếu .................................................. 46
Bảng 2.2: Một số công ty là thành viên của các hãng kiểm toán quốc tế ..... 49


LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Dịch vụ kiểm toán là một hoạt động đặc trưng của kinh tế thị trường.
Chủ trương đa dạng hoá các loại hình sở hữu và đa phương hoá đầu tư đã đặt
ra những đòi hỏi cấp thiết về dịch vụ kiểm toán.

Cho đến nay, trên thế giới đã có hàng trăm ngàn tổ chức kiểm toán độc
lập hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán và tư vấn tài chính. Đây là các tổ chức
kinh doanh dịch vụ kiểm toán và tư vấn theo yêu cầu của khách hàng. Ở Việt
Nam, trước năm 1976 đã có DNKT độc lập của nước ngoài và các giám định
viên kế toán hành nghề độc lập ở các tỉnh và thành phố phía Nam. Tuy nhiên
sự hiện diện chính thức của kiểm toán độc lập Việt Nam được đánh dấu bằng
sự ra đời của Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO) và Công ty Dịch vụ kế
toán, kiểm toán và tư vấn tài chính (AASC) vào ngày 13/5/1991(do Bộ Tài
chính thành lập). Theo Công văn số 521/VACPA ngày 21/11/2008 của Hội
Kiểm toán viên hành nghề Việt Nam có gần 160 DNKT độc lập với 5.000
nhân viên, cung cấp 20 loại dịch vụ khác nhau cho đến nay Việt Nam đã có
218 DNKT độc lập với 7.000 nhân viên và cung cấp rất nhiều các dịch vụ trên
cả nước như Kiểm toán, thuế, tư vấn tài chính….
Sự ra đời của các DNKT độc lập đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng
trong việc cung cấp dịch vụ kiểm toán, tư vấn cho những người quan tâm
trong cơ chế kinh tế mới. Việc thị trường chứng khoán Việt Nam hình thành
và phát triển nhanh chóng, yêu cầu phải minh bạch hoá thông tin tài chính của
các doanh nghiệp khi niêm yết lên sàn, khi đăng ký trở thành công ty đại
chúng càng đòi hỏi vai trò của các DNKT độc lập phải chuyên nghiệp theo
chuẩn quốc tế. Sự kiện Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức

1


Thương mại thế giới (WTO) đã ảnh hưởng tích cực đến thị trường cung cấp
dịch vụ kiểm toán trong nước. Với cam kết mở cửa thị trường, thị trường dịch
vụ kiểm toán Việt Nam hứa hẹn sẽ phát triển nhanh, mạnh và đi cùng với đó
là sự cạnh tranh quyết liệt không chỉ giữa các DNKT trong nước mà giữa cả
các DNKT trong nước với các DNKT nước ngoài với nhau.
Thực tế cho thấy, sự hình thành và phát triển một thị trường dịch vụ

kiểm toán không chỉ đòi hỏi ở sự đồng thuận chuẩn mực chuyên môn và năng
lực chuyên gia kiểm toán mà còn phụ thuộc rất nhiều vào việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật về kiểm toán. Vì lẽ đó, cần phải nghiên cứu pháp luật điều
chỉnh thị trường dịch vụ kiểm toán để tạo lập một thị trường cạnh tranh lành
mạnh đa dạng về sản phẩm; và từ đó, đưa ra một số biện pháp kiến nghị nhằm
hoàn thiện hệ thống pháp luật kiểm toán, phát triển thị trường dịch vụ kiểm
toán Việt Nam theo hướng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Các công trình nghiên cứu về kiểm toán độc lập từ trước đến nay hầu hết
đều tập trung nghiên cứu ở góc độ nghiệp vụ kiểm toán, nhằm xây dựng và
hoàn thiện các quy trình kiểm toán, nghiệp vụ kiểm toán. Một vài công trình
nghiên cứu đề cập đến khía cạnh pháp lý của dịch vụ kiểm toán và hoạt động
cung cấp dịch vụ kiểm toán như:
- Bài viết của Thạc sĩ Nguyễn Thị Hồng Thuý trên Tạp chí Công nghiệp
số tháng 5 năm 2005: “Một số vấn đề về kiểm soát chất lượng hoạt động của
kiểm toán độc lập ở Việt Nam”. Bài viết đã đưa ra được những giải pháp thực
hiện từ phía công ty kiểm toán và từ phía Nhà nước nhằm nâng cao chất
lượng hoạt động cung cấp dịch vụ kiểm toán.
- Kỷ yếu Hội thảo ACCA (Hiệp hội kế toán công chứng Anh - Việt
Nam) ngày 25/9/2007 của Hội kế toán và Kiểm toán Việt Nam: “Giải pháp

2


đưa kế toán và kiểm toán Việt Nam ngang tầm khu vực và quốc tế” đã giới
thiệu những đặc điểm riêng của hoạt động kiểm toán độc lập ở Việt Nam
và phân tích những khó khăn, thách thức đối với kiểm toán Việt Nam, đồng
thời đưa ra được một số biện pháp nhằm phát triển dịch vụ kiểm toán ở
Việt Nam.
- Bài viết của Tiến sĩ Trần Thị Giang Tân, giảng viên Đại học Kinh tế

thành phố Hồ CHí Minh trên Tạp chí Kế toán số tháng 9/2008 (10/9/2008):
“Đạo đức nghề nghiệp từ lý luận đến thực tiễn” đã phân tích, đánh giá vai trò
của các chuẩn mực kiểm toán, đặc biệt là chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, từ
đó đưa ra giải pháp xây dựng một cơ chế để giám sát việc tuân thủ đạo đức
nghề nghiệp cũng như xử lý các vi phạm đạo đức nghề nghiệp thông qua tham
khảo kinh nghiệm của các quốc gia khác.
Có thể khẳng định đề tài: “Pháp luật về dịch vụ kiểm toán ở Việt Nam Những vấn đề lý luận và thực tiễn” là một đề tài đã từng được nghiên cứu
xong đề tài này sẽ đi sâu và cập nhật những nội dung mới nhất, đồng thời
không trùng lặp cách tiếp cận với các công trình khoa học đã được công bố
trước đây.
3. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về hệ thống pháp
luật về dịch vụ kiểm toán của Việt Nam; chủ yếu đi sâu nghiên cứu những
quy định pháp lý về hoạt động cung cấp dịch vụ kiểm toán, về DNKT độc lập
cũng như các dịch vụ kiểm toán mà nó cung cấp, đồng thời có tham khảo
pháp luật về kiểm toán độc lập của một số nước trên thế giới.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của đề tài là nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về
pháp luật về dịch vụ kiểm toán; đánh giá được những ưu điểm, tồn tại, nguyên

3


nhân của tồn tại trong xây dựng và thi hành pháp luật về dịch vụ kiểm toán ở
Việt Nam; trên cơ sở đánh giá, phân tích đưa ra phương hướng, giải pháp góp
phần hoàn thiện và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về dịch vụ kiểm toán.
Để đạt mục đích trên, luận văn đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Làm rõ bản chất của dịch vụ kiểm toán; vai trò của pháp luật về dịch vụ
kiểm toán đối với nền kinh tế thị trường.
- Chỉ rõ những điểm hạn chế, bất cập trong hệ thống pháp luật Việt Nam

hiện hành về dịch vụ kiểm toán.
- Đưa ra một số giải pháp hoàn thiện và đảm bảo thực thi có hiệu quả
pháp luật về dịch vụ kiểm toán ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác-Lênin về phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, quan
điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước trong phát triển các dịch vụ thương
mại. Đồng thời, quá trình nghiên cứu đề tài còn sử dụng một số phương pháp
cụ thể như: phương pháp nghiên cứu tổng hợp, phân tích, khảo sát, thống kê,
hệ thống hoá, mô hình hoá, so sánh…
6. Cơ cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Một số vấn đề lý luận về dịch vụ kiểm toán và pháp luật về
dịch vụ kiểm toán.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về dịch vụ kiểm toán ở Việt Nam.
- Chương 3: Phương hướng, giải pháp hoàn thiện và đảm bảo thực thi có
hiệu quả pháp luật về dịch vụ kiểm toán ở Việt Nam.

4


CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ DỊCH VỤ KIỂM TOÁN VÀ
PHÁP LUẬT VỀ DỊCH VỤ KIỂM TOÁN
1.1. Khái quát về dịch vụ kiểm toán
1.1.1. Khái niệm dịch vụ kiểm toán
Khái niệm kiểm toán đã xuất hiện khá lâu đời nhưng cho đến nay vẫn
còn có những cách hiểu khác nhau, đôi khi chưa có sự đồng nhất: Vương
quốc Anh đã đưa ra khái niệm: “Kiểm toán là sự kiểm tra độc lập và là sự

bày tỏ ý kiến về những bản khai tài chính của một xí nghiệp do một kiểm
toán viên được bổ nhiệm để thực hiện những công việc đó theo đúng với
bất kỳ nghĩa vụ pháp định có liên quan”[1, tr.30]; Với khái niệm này, các
nhà khoa học ở Anh quan niệm kiểm toán là sự kiểm tra độc lập và bày tỏ ý
kiến về bản khai tài chính của kiểm toán viên theo nghĩa vụ pháp định. Hoa
Kỳ lại quan niệm: “Kiểm toán là một quá trình mà qua đó một người độc
lập, có nghiệp vụ tập hợp và đánh giá rõ ràng về một thông tin có thể
lượng hoá có liên quan đến một thực thể kinh tế riêng biệt nhằm mục đích
xác định và báo cáo mức độ phù hợp giữa thông tin có thể lượng hoá với
những tiêu chuẩn đã được thiết lập” [1, tr.30-31]; các nhà khoa học về
kiểm toán Hoa Kỳ cũng khẳng định sự kiểm tra độc lập của kiểm toán viên,
tuy nhiên nhấn mạnh hơn đến khía cạnh chuyên môn tức là các kiểm toán
viên không chỉ độc lập mà phải “có nghiệp vụ”; khái niệm của Hoa Kỳ
cũng nhấn mạnh đến sự phù hợp giữa thông tin với các tiêu chuẩn đã được
thiết lập. Còn các nhà kinh tế nước Cộng hoà Pháp lại quan niệm rằng:
“Kiểm toán là việc nghiên cứu và kiểm tra các tài khoản niên độ của một tổ
chức do một người độc lập, đủ danh nghĩa gọi là một kiểm toán viên tiến
5


hành để khẳng định rằng những tài khoản đó phản ánh đúng tình hình tài
chính thực tế không che dấu sự gian lận và chúng được trình bày theo mẫu
chính thức của luật định” [1, tr.31].
Theo định nghĩa của Liên đoàn quốc tế các nhà kế toán (International
Federation of Accountants –IFAC) thì “ Kiểm toán là việc các kiểm toán viên
độc lập kiểm tra và trình bày ý kiến của mình về các bản báo cáo tài chính”.
Trong giáo trình kiểm toán của các tác giả Alvin A.Rens và James
K.Loebbecker đã định nghĩa: Kiểm toán là quá trình các chuyên gia độc lập
và có thẩm quyền thu thập và đánh giá các bằng chứng về các thông tin có thể
định lượng được của một đơn vị cụ thể nhằm mục đích xác nhận và báo cáo

về mức độ phù hợp giữa các thông tin này với các chuẩn mực đã được thiết
lập; Định nghĩa khác nêu: Kiểm toán là thủ pháp xem xét và kiểm tra một
cách khách quan về từng khoản mục bao gồm việc thẩm tra những thông tin
đặc trưng được xác định bởi kiểm toán viên hoặc thiết lập bởi thực hành
chung. Nói tổng quát, mục đích của kiểm toán là trình bày ý kiến hoặc đi đến
kết luận về cái được kiểm toán. (Auditing - Theory & Practice của John
Dunn, University of Strathclyde, Glasgow nhà xuất bản Prentice Hall).
Ở Việt Nam, Nghị định số 105/2004/NĐ-CP ngày 30/3/2004 về kiểm
toán độc lập của Chính phủ có nêu: “Kiểm toán độc lập là việc kiểm tra và
xác nhận của KTV và DNKT về tính trung thực và hợp lý của các tài liệu, số
liệu kế toán và báo cáo tài chính (BCTC) của các doanh nghiệp, tổ chức (gọi
chung là đơn vị được kiểm toán) khi có yêu cầu của các đơn vị này”; còn Luật
Kiểm toán độc số 67/2011/QH12 giải thích “Kiểm toán độc lập là việc kiểm
toán viên hành nghề, doanh nghiệp kiểm toán, chi nhánh doanh nghiệp kiểm
toán nước ngoài tại Việt Nam kiểm tra, đưa ra ý kiến độc lập của mình về báo
cáo tài chính và công việc kiểm toán khác theo hợp đồng kiểm toán”. Như

6


vậy có thể thấy kiểm toán là một hoạt động nghề nghiệp, là một loại dịch vụ
trong nền kinh tế.
Dịch vụ kiểm toán là một trong những loại hình của thương mại dịch vụ.
Có thể hiểu dịch vụ kiểm toán là việc cung ứng các hoạt động kiểm tra và thể
hiện ý kiến bằng văn bản của KTV chuyên nghiệp thuộc các DNKT về tính
trung thực, đúng đắn và hợp lý của các tài liệu, số liệu kế toán và báo cáo tài
chính của các doanh nghiệp, tổ chức theo yêu cầu của chính các khách hàng
này đã thỏa thuận trong hợp đồng kiểm toán (HĐKT). Đây là loại dịch vụ có
thu phí dịch vụ được pháp luật thừa nhận và quản lý chặt chẽ; là loại dịch vụ
có chất lượng cao, có giá trị pháp lý nhất định và không được phép có sản

phẩm sai hỏng và thiếu độ tin cậy. Tính độc lập, tính khách quan, những
bằng chứng pháp lý, phẩm chất nghề nghiệp và yêu cầu kiểm soát chất lượng
dịch vụ là các đặc điểm nổi bật của loại hình dịch vụ này. Khái niệm dịch vụ
kiểm toán được cụ thể hóa trong khoản 1 Điều 40 Luật Kiểm toán độc lập
số: 67/2011/QH12: “Phạm vi hoạt động của doanh nghiệp kiểm toán, chi
nhánh doanh nghiệp kiểm toán nước ngoài tại Việt nam được thực hiện các
dịch vụ: 1) Các dịch vụ kiểm toán, gồm kiểm toán báo cáo tài chính, kiểm
toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán báo cáo quyết toán dự án hoàn
thành, kiểm toán báo cáo tài chính vì mục đích thuế và công việc kiểm toán
khác; 2) Dịch vụ soát xét báo cáo tài chính, thông tin tài chính và dịch vụ
đảm bảo khác.
1.1.2. Phân biệt dịch vụ kiểm toán với hoạt động kiểm toán
Hoạt động kiểm toán là một hoạt động khoa học, thể hiện ở các điểm sau:
Thứ nhất, đây là hoạt động độc lập, có chức năng cơ bản xác minh,
thuyết phục để tạo niềm tin cho những người quan tâm vào những kết luận
kiểm toán cho dù những kết luận này có thể hướng vào các mục tiêu cụ thể

7


khác nhau như tính trung thực của thông tin, tính quy tắc trong việc thực hiện
các nghiệp vụ, tính hiệu quả hay tính hiệu năng của hoạt động;
Thứ hai, đối tượng của hoạt động kiểm toán là thực trạng hoạt động tài
chính thể hiện qua các bảng khai tài chính của một thực thể kinh tế;
Thứ ba, khách thể của hoạt động kiểm toán là một thực thể kinh tế;
Thứ tư, chủ thể của hoạt động kiểm toán là những kiểm toán viên (KTV)
độc lập, có nghiệp vụ;
Thứ năm, phương pháp riêng của hoạt động kiểm toán bao gồm những
phương pháp kiểm toán chứng từ (cân đối, đối chiếu logics, diễn giải thông
tin, quy nạp nguồn thông tin...) và phương pháp kiểm toán ngoài chứng từ

(điều tra, quan sát, kiểm kê, thử nghiệm...).
Như vậy có thể thấy hoạt động kiểm toán là một hoạt động chuyên sâu,
một khoa học chuyên ngành. Còn dịch vụ kiểm toán là một loại hình của
thương mại dịch vụ, được cung ứng theo yêu cầu của khách hàng nhằm mục
đích thu phí dịch vụ.
1.1.3. Phân biệt hoạt động kiểm toán độc lập với hoạt động kiểm toán
nhà nước và hoạt động kiểm toán nội bộ
Mối quan hệ giữa các chủ thể kiểm toán phản ánh bản chất của các loại
hình kiểm toán, nó thể hiện địa vị pháp lý của các KTV trong nền kinh tế và
trong quá trình kiểm toán. Sự khác biệt này dẫn đến quyền hạn, trách nhiệm,
phạm vị hoạt động của KTV cũng như những đóng góp khác nhau đối với nền
kinh tế. Trong thực tiễn, tuỳ thuộc vào hệ thống tổ chức và chủ thể kiểm toán
mà kiểm toán được phân thành kiểm toán nhà nước (KTNN), kiểm toán độc
lập và kiểm toán nội bộ. Đặc điểm của hoạt động kiểm toán độc lập bao gồm
những thuộc tính riêng phản ánh bản chất của hoạt động kiểm toán độc lập
với những loại hình kiểm toán khác.

8


Thứ nhất, hoạt động kiểm toán độc lập thực chất là thực hiện một hợp
đồng dịch vụ trên cơ sở tự nguyện và theo thỏa thuận giữa DNKT đơn vị
được kiểm toán (khách hàng). Hợp đồng dịch vụ này thể hiện bằng thư mời
kiểm toán và sự đồng ý kiểm toán; kết quả của hoạt động kiểm toán độc lập là
các kiến nghị trong BCKT hoàn toàn mang tính chất khuyến nghị không bắt
buộc thực hiện với đơn vị được kiểm toán. Đây là tiêu chí cơ bản và quan
trọng để phân biệt sự khác nhau giữa hoạt động kiểm toán độc lập với KTNN.
Nếu kiểm toán độc lập là hoạt động dịch vụ và có thu phí thì KTNN là công
việc kiểm toán do cơ quan KTNN tiến hành theo luật định và không thu phí
kiểm toán, tiến hành dịch vụ kiểm toán phục vụ nhu cầu về quản lý và hoạch

định chính sách. Hoạt động KTNN được thực hiện trên cơ sở của một quyết
định kiểm toán; quyết định này mang tính hành chính của cơ quan nhà nước
có thẩm quyền (cơ quan KTNN) và quyết định này có giá trị bắt buộc tuân thủ
đối với đơn vị được kiểm toán. Về BCKT, báo cáo của KTNN cũng đòi hỏi
tính giải trình cao hơn. Còn đối với hoạt động kiểm toán nội bộ thì kiểm toán
nội bộ là một bộ phận của đơn vị được kiểm toán, thực hiện kiểm tra và báo
cáo trực tiếp theo yêu cầu của cấp cao nhất của đơn vị (như Thủ trưởng đơn
vị, Hội đồng quản trị, Ban giám đốc...) hoặc theo đúng quy chế về cơ cấu tổ
chức cũng như hoạt động của đơn vị được kiểm toán. Như vậy, có thể thấy về
tính độc lập thì kiểm toán nội bộ không cao so với kiểm toán độc lập.
Thứ hai, chủ thể thực hiện kiểm toán trong hoạt động kiểm toán độc lập
là các KTV độc lập thuộc các tổ chức kiểm toán chuyên nghiệp (DNKT) tiến
hành. Các KTV độc lập này là đội ngũ hành nghề chuyên nghiệp (đã đăng ký
hành nghề tại một DNKT được thành lập và hoạt động theo quy định của
pháp luật), có đạo đức, có kỹ năng nghề nghiệp và phải đạt được những tiêu
chuẩn nhất định về bằng cấp và kinh nghiệm theo quy định về kiểm toán độc

9


lập. Còn chủ thể tiến hành kiểm toán trong hoạt động KTNN là các KTV của
cơ quan KTNN. Theo quy định tại Điều 27 Luật KTNN: “KTV nhà nước là
công chức nhà nước được bổ nhiệm vào ngạch KTV để thực hiện nhiệm vụ
kiểm toán” và cơ quan KTNN là một tổ chức kiểm tra tài chính công cao nhất
trong bộ máy quản lý của nhà nước; trong khi đó, theo Điều 16 của Luật
Kiểm toán độc lập số thì “cán bộ, công chức, viên chức” là một trong những
tiêu chí về những người không được đăng ký hành nghề kiểm toán độc lập.
Đây chính là đặc điểm quan trọng nhất để phân biệt giữa hoạt động kiểm toán
độc lập và hoạt động KTNN về chủ thể tiến hành. Theo Chuẩn mực kiểm toán
quốc tế số 610 thì “Kiểm toán nội bộ là bộ phận kiểm soát trong đơn vị, thực

hiện kiểm tra vì lợi ích của đơn vị này”, như vậy kiểm toán nội bộ là do các
KTV nội bộ của đơn vị tiến hành theo yêu cầu của Giám đốc doanh nghiệp
hoặc thủ trưởng đơn vị.
Thứ ba, về đơn vị được kiểm toán. Đơn vị được kiểm toán của kiểm
toán độc lập là tất cả các doanh nghiệp, các tổ chức có nhu cầu được cung
cấp dịch vụ kiểm toán, ngoài ra còn có các đơn vị bắt buộc và các đơn vị
phải được DNKT kiểm toán BCTC hàng năm, gồm các đối tượng quy định
tại khoản 1 và khoản 2 Điều 37 Luật Kiểm toán độc lập. Còn đơn vị được
kiểm toán của hoạt động KTNN là những tổ chức, đơn vị sử dụng vốn và
kinh phí của nhà nước quy định trong Điều 55 Luật KTNN đã được Quốc
hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp thứ 9
thông qua ngày 24 tháng 6 năm 2015. Đơn vị được kiểm toán trong hoạt
động kiểm toán nội bộ chính là đơn vị có bộ phận kiểm toán nội bộ đó.
Như vậy, có thể thấy các đơn vị được kiểm toán trong kiểm toán độc lập đa
dạng, phong phú hơn so với của hoạt động KTNN cũng như của hoạt động
kiểm toán nội bộ.

10


Thứ tư, về phạm vi kiểm toán. Điều 40 Luật Kiểm toán độc lập quy định
phạm vi hoạt động kiểm toán độc lập bao gồm kiểm toán BCTC, kiểm toán
báo cáo quyết toán dự án hoàn thành, kiểm toán báo cáo tài chính vì mục đích
thuế, kiểm toán hoạt động, kiểm toán tuân thủ... hay tiến hành các dịch vụ tư
vấn tài chính - kinh tế khác theo yêu cầu của khách hàng được quy định rõ
ràng trong HĐKT. Tuy nhiên, phạm vi của hoạt động kiểm toán độc lập phụ
thuộc vào yêu cầu của đơn vị được kiểm toán và bị áp đặt trong HĐKT cũng
như phụ thuộc vào việc thực hiện trách nhiệm của đơn vị được kiểm toán đến
đâu trong cung cấp thông tin, tài liệu phục vụ cho việc kiểm toán, trong phối
hợp tạo điều kiện thuận lợi cho KTV thực hiện kiểm toán... Mặc dù vậy,

phạm vi của hoạt động kiểm toán độc lập vẫn rộng hơn phạm vi của hoạt
động KTNN và của kiểm toán nội bộ. Điều này thể hiện ở chỗ, hoạt động
KTNN được thực hiện thường xuyên hàng năm theo chương trình, kế hoạch
kiểm toán đã được chấp thuận, đối với những đơn vị phải chịu kiểm toán theo
quy định của pháp luật với mục đích xem xét việc chấp hành các chính sách
luật lệ và các chế độ của Nhà nước và đánh giá sự hữu hiệu, hiệu quả hoạt
động tại các đơn vị sử dụng vốn và kinh phí của nhà nước; về BCKT, báo cáo
của KTNN cũng đòi hỏi có tính giải trình cao hơn. Còn về phạm vi của kiểm
toán nội bộ thì có sự biến động, tùy thuộc vào quy mô, cơ cấu tổ chức của
doanh nghiệp cũng như theo yêu cầu của các nhà quản lý đơn vị, thường hạn
hẹp trong lĩnh vực sau: 1) Rà soát lại hệ thống kế toán và các quy chế kiểm
soát nội bộ có liên quan, giám sát sự hoạt động của các hệ thống này cũng
như góp phần hoàn thiện chúng; 2) Kiểm tra lại các thông tin tác nghiệp và
thông tin tài chính bao gồm việc soát xét lại các phương tiện đã sử dụng để
xác định, tính toán phân loại và báo cáo những thông tin này, thẩm định cụ
thể các khoản cá biệt (kiểm tra chi tiết các nghiệp vụ, các số dư tài khoản...);

11


3) Kiểm tra tính hiệu lực, tính kinh tế và hiệu quả của các hoạt động trong
đơn vị.
Tóm lại, kiểm toán độc lập, KTNN và kiểm toán nội bộ tuy có sự khác
nhau nhưng mục đích của chúng vẫn là đưa ra ý kiến nhận xét một cách độc
lập, khách quan về đối tượng kiểm toán; chúng đều không làm tăng thêm các
thông tin kinh tế mà chỉ đảm bảo từ nguồn độc lập, hợp lý rằng các thông tin
kinh tế đó đã được lập có dựa trên các nguyên tắc, chuẩn mực đã được thiết
lập và có trình bày một cách trung thực, hợp lý hay không.
1.1.4. Sự cần thiết và quá trình hình thành kiểm toán độc lập ở Việt Nam
Về quá trình hình thành kiểm toán có thể thấy dạng thức của kiểm toán có

từ trước 500 năm trước công nguyên ở thành Athens-Hy Lạp. Xuất hiện và phát
triển cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, hoạt động kiểm toán đã
trở thành nhu cầu tất yếu đối với hoạt động kinh doanh và nâng cao chất lượng
của các doanh nghiệp. Do vậy một vấn đề đặt ra là nhu cầu về kiểm toán xuất
phát từ các yêu cầu pháp lý bắt buộc hay nhu cầu về kiểm toán là tất yếu, là sản
phẩm của nền kinh tế thị trường.
Thực tế các quy định pháp lý yêu cầu các doanh nghiệp phải được kiểm
toán đã dẫn đến sự hiểu nhầm rằng cơ sở hay sự cần thiết của hoạt động kiểm
toán trong nền kinh tế là do các quy định pháp lý. Cụ thể trong Luật đầu tư
nước ngoài tại Việt Nam quy định “Báo cáo tài chính hằng năm của các xí
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải được một tổ chức kiểm toán hợp pháp
ở Việt Nam kiểm tra, xác nhận trước khi nộp cho SCCI (Ủy ban Nhà nước về
hợp tác xã và đầu tư, nay là Bộ Kế hoạch và đầu tư) và cơ quan thuế”; hoặc
theo hướng dẫn tại Thông tư số 73TC/TCDN ngày 12/11/1996 cũng quy định:
BCTC của doanh nghiệp phải được kiểm toán độc lập hoặc kiểm toán nội bộ
xác nhận trước khi công bố. Hoặc theo quy định của Ủy ban Chứng khoán

12


Nhà nước thì BCTC của các doanh nghiệp đăng ký tại thị trường chứng khoán
phải được kiểm toán xác nhận, đối với doanh nghiệp cổ phần hóa, bán, khoán,
cho thuê cũng phải có kiểm toán xác nhận BCTC. Ở các nước có nền kinh tế
phát triển, nhiều ý kiến cũng cho rằng kiểm toán tồn tại là do các quy định
pháp lý bắt buộc. Tuy nhiên, ở Mỹ đã có nhiều công trình khảo sát cho thấy
kiểm toán tồn tại độc lập và có trước các quy định pháp lý yêu cầu các BCTC
của doanh nghiệp phải được kiểm toán xác nhận. Năm 1899 ở Mỹ có 183 Kế
toán viên công chứng ở thành phố New York và 71 kế toán viên công chứng ở
thành phố Chicago hành nghề và chủ yếu là hoạt động kiểm toán; năm 1926
có tới 82% các doanh nghiệp tham gia thị trường chứng khoán New York có

BCTC được kiểm toán và tỷ lệ này tăng lên 94% trước khi Luật chứng khoán
của Mỹ quy định việc lập và có xác nhận của kiểm toán vào BCTC vào năm
1934. Hoặc những năm 80 của thế kỷ XX, có tới 80% khách hàng của Công
ty Price Waterhouse (1 trong 8 công ty hàng đầu thế giới khi đó) là các
khách hàng không đăng ký trên thị trường chứng khoán (Nguồn: Aditing –
Wanda A. Wallce, Tiến sĩ, Kế toán viên công chứng (CPA) CMA, CIA giáo
sư trường đại học Texas A&M). Không chỉ ở Mỹ mà ở các nước kinh tế thị
trường phát triển khác, quan điểm cho rằng sự tồn tại của kiểm toán là độc
lập với các quy định pháp lý và nhu cầu về kiểm toán xuất phát từ yêu cầu
của nền kinh tế cũng chiếm ưu thế. Các ý kiến của các nhà kinh tế đều
thống nhất rằng nhu cầu kiểm toán xuất hiện từ khi có sự phân tách giữa
quyền sở hữu và quyền quản lý, khai thác kinh doanh các tài sản, tiền vốn.
Từ những hình thức đơn giản khi các thương nhân giao các tài sản của
mình cho người khác quản kinh doanh đến các hình thức phức tạp, hoàn
thiện hơn, đó là hình thái các công ty cổ phần trong đó, các cổ đông không
trực tiếp quản lý điều hành hoạt động công ty mà do một nhóm các nhà

13


quản lý đại diện thực hiện chức năng quản lý kinh doanh có trả thù lao. Dù
dưới hình thức nào thì có rất nhiều lý do dẫn đến khả năng BCTC do những
người này lập nên và đệ trình lên chủ sở hữu có thể sẽ không phản ánh
trung thực về tình hình tài và kết quả kinh doanh hoặc ít nhất là thiếu khách
quan. Mặt khác, thực tế hầu như và không thể mọi chủ sở hữu đều có điều
kiện và khả năng để soát xét các sổ sách kế toán và BCTC của công ty.
Điều này tạo ra nhu cầu cần có các KTV kiểm tra và báo cáo lại một cách
độc lập khách quan về tình hình tài chính của họ, đồng thời các chủ sở hữu
tin tưởng rằng với kiểm toán các hành vi gian lận hoặc thiếu trung thực của
các nhà quản lý sẽ không có cơ hội thực hiện, do đó kiểm toán là cần thiết

và được xem như là một sự bảo đảm. Đây chính là lý do cho sự ra đời và
phát triển của kiểm toán. Như vậy, về mặt lịch sử thì hoạt động kiểm toán
tồn tại, có trước các quy định pháp lý về kiểm toán.
Ở Việt Nam, trước năm 1975 đã có văn phòng hoạt động độc lập với
các kế toán viên công chứng hoặc các giám định viên kế toán và cả văn
phòng kiểm soát quốc tế như SGV, Arthur Andersen kiểm toán của các
công ty kiểm toán quốc tế hoạt động ở Sài Gòn. Sau khi đất nước thống
nhất, hoạt động kiểm toán của các văn phòng này không còn thích hợp với
nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung lúc bấy giờ. Trong nền kinh tế kế hoạch
hóa tập trung bao cấp, các hoạt động kinh tế được chỉ đạo thống nhất, định
sẵn. Cùng với chế độ sở hữu tập thể đã dẫn tới vệc xác định quyền lợi,
trách nhiệm, quyền hạn của các nhà lãnh đạo doanh nghiệp cùng các cấp
lãnh đạo khác không rõ ràng. Việc kiểm tra các thông tin kinh tế ở thời kỳ
này mang tính tuân thủ là chủ yếu và việc kiểm tra được thực hiện bởi các
cơ quan chức năng (thuế, tài chính, cơ quan chủ quản…). Các thông tin này
là cơ sở để đánh giá mức độ hoàn thành kế hoạch và xây dựng kế hoạch

14


cho giai đoạn tiếp theo. Mặt khác với cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa
tập trung thì không thể tồn tại một doanh nghiệp hoặc tổ chức kinh tế nào
được xem là độc lập để thực hiện đầy đủ chức năng kiểm toán. Do vậy vào
thời kì này không xuất hiện nhu cầu về kiểm toán. Chuyển đổi sang nền
kinh tế thị trường, các loại hình doanh nghiệp theo các hình thức sở hữu
khác nhau được thành lập và phát triển mạnh đóng vai trò và có ý nghĩa
quan trọng trong sự phát triển nền kinh tế, đồng thời các doanh nghiệp nhà
nước chuyển sang cơ chế hạch toán kinh doanh độc lập. Vì vậy kiểm toán
độc lập mới được hình thành từ sau khi chuyển đổi cơ chế kinh tế Với chủ
chương đa dạng hoá các loại hình sở hữu đa phương hoá các loại hình đầu

tư đã đặt ra những đòi hỏi của kiểm toán độc lập. Ngày 13/5/1991 theo giấy
phép số 957/PPLT của Thủ tướng Chính phủ, Bộ tài chính đã ký quyết định
thành lập hai công ty: Công ty kiểm toán Việt Nam với tên giao dịch là
VACO (QĐ 165-TC/QĐ/TCCB) và công ty dịch vụ kế toán Việt Nam với
tên giao dịch là ASC (QĐ164-TC/QĐ/TCCB) sau này đổi tên thành Công
ty dịch vụ tư vấn tài chính, kế toán, kiểm toán-AASC (quyết định 639TC/QĐ/TCCB ngày 14/9/1993).Với cương vị là công ty đầu ngành, VACO
và AASC đã có nhiều đóng góp không chỉ trong việc phát triển công ty, mở
rộng đại bàn kiểm toán mà cả trong việc cộng tác với công ty và tổ chức
nước ngài để phát triển sự nghiệp kiểm toán Việt Nam. Cũng trong năm
1991, còn có công ty Ernst and Young là công ty kiểm toán nước ngoài đầu
tiên được Nhà nước Việt Nam cho chấp nhận lập văn phòng hoạt động tại
Việt Nam
Tóm lại, sự xuất hiện kiểm toán ở Việt Nam là tất yếu khách quan, hoạt
động kiểm toán độc lập thực sự cần thiết trong nền kinh tế thị trường và là nhu
cầu của nền kinh tế.

15


1.1.5. Vai trò của dịch vụ kiểm toán đối với việc hình thành thị trường
dịch vụ thương mại ở Việt Nam
Từ khi chuyển đổi cơ chế kinh tế, thực hiện chủ trương đa phương hoá
các hình thức đầu tư, đa dạng hoá các thành phần kinh tế, Nhà nước không
còn là chủ sở hữu duy nhất. Từ đó, sự can thiệp trực tiếp của Nhà nước bằng
kế hoạch, bằng kiểm tra trực tiếp… không thể thực hiện với các thành phần
kinh tế ngoài quốc doanh, kể cả với nhà đầu tư nước ngoài, thậm chí với các
doanh nghiệp nhà nước. Cách thức can thiệp của Nhà nước cũng không thể
như cũ được nữa. Mặt khác, các nhà đầu tư, khách hàng, người lao động…
cũng cần có niềm tin vào tài liệu kế toán trong khi họ không có đủ đội ngũ
chuyên gia về kế toán, kiểm toán đông đảo như Nhà nước. Đồng thời, những

nhà kinh doanh trong cơ chế thị trường cũng cần thông tin và để tránh rủi ro
thường có. Như vậy, người quan tâm đến thông tin kế toán không chỉ có Nhà
nước mà còn tất cả các nhà đầu tư, những nhà quản lý, những khách hàng và
người lao động...; đặc biệt là các thông tin tài chính của doanh nghiệp không
chỉ dùng để báo cáo cho các cơ quan quản lý nhà nước để kiểm tra và xét
duyệt mà nay các thông tin này được nhiều đối tượng khác quan tâm, khai
thác sử dụng cho các quyết định kinh tế. Vì vậy, công tác kiểm tra cũng cần
được thực hiện rộng rãi, đa dạng song thật khoa học, khách quan, trung thực,
đủ sức thuyết phục và có giá trị pháp lý để tạo niềm tin cho người quan tâm.
Kiểm toán làm tăng mức độ tin cậy đối với các thông tin tài chính, góp phần làm
lành mạnh hóa các quan hệ kinh tế. Trong điều kiện đó, kiểm toán độc lập đã phát
huy vai trò của nó và một thị trường cung cấp các loại hình dịch vụ kiểm toán hình
thành phát triển là một bộ phận tất yếu của nền kinh tế thị trường hiện đại.
Trong cơ chế kinh tế thị trường mở cửa và hội nhập, ngoài vai trò là
công cụ quản lý kinh tế - tài chính và cung cấp thông tin tin cậy, hữu ích phục

16


vụ cho các quyết định quản lý và kinh doanh, kiểm toán độc lập đã và đang
được thừa nhận là một dịch vụ không thể thiếu của một nền kinh tế mở. Dịch
vụ kiểm toán đã trở thành một dịch vụ - dịch vụ hỗ trợ quản lý kinh doanh quan trọng trong từng phạm vi quốc gia, trong khu vực và thế giới, là một bộ
phận cần thiết và quan trọng không thể thiếu trong đời sống các hoạt động
kinh tế. Luật pháp của Việt Nam và của nhiều nước đã thừa nhận và có những quy
định mang tính pháp lý về hành nghề kiểm toán và cung cấp dịch vụ kiểm toán.
Thị trường dịch vụ kiểm toán Việt Nam hình thành sau khi Chính phủ
ban hành Nghị định 07/1994/NĐ-CP về Quy chế kiểm toán độc lập trong nền
kinh tế quốc dân với sự góp mặt của 6 doanh nghiệp KTNN (trong đó có 5
doanh nghiệp trực thuộc Bộ tài chính và 1 doanh nghiệp trực thuộc UBND
thành phố Hồ Chí Minh) và những DNKT hàng đầu thế giới như KPMG,

Price Waterhouse Cooper… Giai đoạn sau này, thị trường cung cấp dịch vụ
kiểm toán độc lập của Việt Nam đã tăng đáng kể số lượng DNKT hoạt động
dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, và doanh
nghiệp tư nhân. Nhưng khi nền kinh tế Việt Nam mở cửa mạnh mẽ, nhiều tổ
chức tài chính nước ngoài, đặc biệt là Ngân hàng Thế giới (WB) và Ngân
hàng Phát triển Châu Á (ADB) cho rằng, Việt Nam không nên để tồn tại mô
hình doanh nghiệp KTNN vì sẽ làm giảm ý nghĩa độc lập trong kiểm toán.
Chính vì vậy, hiện nay tại Việt Nam Luật Kiểm toán độc lập quy định chỉ có 4
loại hình doanh nghiệp cung cấp dịch vụ kiểm toán độc lập là công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân
và doanh nghiệp hoạt động theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Một
vấn đề khác liên quan đến sự hình thành và phát triển thị trường dịch vụ kiểm
toán là việc Việt Nam phải thực hiện các cam kết quốc tế về mở cửa thị
trường dịch vụ nói chung và thị trường dịch vụ kiểm toán nói riêng. Như vậy,

17


sẽ có các công ty dịch vụ kiểm toán của nước ngoài được phép thành lập và
hoạt động ở Việt Nam. Đi kèm với đó, các DNKT Việt Nam sẽ được phép
hoạt động ở nước ngoài với tư cách là nhà đầu tư Việt Nam đầu tư ra nước
ngoài. Các KTV có chứng chỉ hành nghề, đủ điều kiện hành nghề sẽ được phép
hành nghề và cung cấp dịch vụ không chỉ trong nước mà cả ở nước ngoài.
Như vậy, một thị trường dịch vụ kiểm toán thống nhất đã và đang hình
thành trong khu vực và trên thế giới. Đó là một thực tế, một yêu cầu mới, một
cơ hội mới cho sự phát triển và nhất thể hoá nghề kiểm toán trong phạm vi
nhiều quốc gia khác nhau. Thị trường dịch vụ kiểm toán thống nhất đòi hỏi
phải có sự chuẩn bị ở tất cả các nước thành viên về khung khổ pháp lý, về
sự hài hoà các chuẩn mực kiểm toán (CMKT), thu hẹp khoảng cách của sự
khác biệt, sự phối hợp và thống nhất của chương trình, nội dung đào tạo,

huấn luyện; thi cử và đánh giá chất lượng kiểm toán viên, chất lượng dịch
vụ; về sự thừa nhận lẫn nhau các chứng chỉ hành nghề quốc gia… Điều đó
cần đến những động thái nhất định từ bản thân các tổ chức, cá nhân hành
nghề, từ phía các tổ chức nghề nghiệp nhưng càng cần có nhiều việc phải
làm hơn từ phía các cơ quan nhà nước thực hiện ở tầm quốc gia. Hội nhập
kinh tế quốc tế mang lại nhiều lợi ích dài hạn, nhưng cũng đặt ra không ít
thách thức đối với ngành thương mại dịch vụ kiểm toán Việt Nam. Việt
Nam cần có những bước đi thích hợp, chuẩn bị đón đầu và theo kịp những cơ
hội và thách thức này.
1.2. Khái quát pháp luật về dịch vụ kiểm toán ở Việt Nam
1.2.1. Khái niệm và vai trò của pháp luật về dịch vụ kiểm toán
Cũng như các hoạt động dịch vụ khác, hoạt động cung cấp dịch vụ kiểm toán
chỉ có thể phát triển và đạt chất lượng cao trong khuôn khổ pháp lý đầy đủ, đồng
bộ. Khuôn khổ pháp lý của hoạt động cung cấp dịch vụ kiểm toán bao gồm:

18


×