Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Đề tài Chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với Châu Phi từ năm 1990 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 115 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

PHẠM THỊ CHUYÊN

chÝnh s¸ch ®èi ngo¹i cña trung quèc
®èi víi ch©u phi tõ n¨m 1990 ®Õn nay

Chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số:

60 22 03 13

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Đỗ Thanh Bình

Hà Nội, 2014

MỞ ĐẦU


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 0
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................ 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ............................................................................ 4
3. Đối tượng, phạm vi và mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu ............................... 9
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu ................................................. 12
5. Đóng góp của luận văn ................................................................................ 13
6. Bố cục của luận văn .................................................................................... 13
NỘI DUNG..................................................................................................... 14


Chƣơng 1: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI CHÍNH SÁCH CỦA
TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI CHÂU PHI TỪ NĂM 1990 ĐẾN NAY ......... 14
1.1. Bối cảnh quốc tế ..................................................................................... 14
1.2. Tình hình Trung Quốc từ năm 1990 đến nay ......................................... 19
1.3. Tình hình châu Phi từ năm 1990 đến nay .............................................. 27
1.4. Vị trí, tầm quan trọng của châu Phi đối với Trung Quốc....................... 28
1.4.1. Vị trí chiến lược, dân số, tài nguyên... ................................................. 28
1.4.2. An ninh – chính trị................................................................................ 29
1.5. Nhân tố lịch sử ....................................................................................... 32
Tiểu kết chương 1........................................................................................... 37
Chƣơng 2: CHÍNH SÁCH CỦA TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI CHÂU PHI
TỪ NĂM 1990 ĐẾN NAY ............................................................................ 38
2.1. Tổng quan về chính sách đối ngoại của Trung Quốc trong thập niên cuối
thế kỉ XX và những năm đầu thế kỉ XXI ........................................................ 38
2.1.1. Chính sách đối ngoại của Trung Quốc từ năm 1990 đến nay ............... 38
2.1.2 Chính sách của Trung Quốc đối với châu Phi từ 1990 đến nay ............ 40
2.2. Chính sách cụ thể của Trung Quốc đối với châu Phi từ 1990 đến nay.......... 44
2.2.1. Trên lĩnh vực kinh tế, năng lượng ........................................................ 45

1


2.2.2. Trên lĩnh vực chính trị........................................................................... 51
2.2.3. Trên lĩnh vực quân sự, an ninh.............................................................. 56
2.2.4. Trên các lĩnh vực khác .......................................................................... 60
Tiểu kết chương 2........................................................................................... 66
Chƣơng 3: NHẬN XÉT VỀ CHÍNH SÁCH CỦA TRUNG QUỐC ĐỐI
VỚI CHÂU PHI ............................................................................................ 67
3.1. Kết quả ..................................................................................................... 67
3.1.1 Các lợi ích mà Trung Quốc đạt được ..................................................... 67

3.1.2 Những khó khăn, thách thức mà Trung Quốc phải đối mặt................... 72
3.2. Tác động đến quan hệ giữa Trung Quốc với một số nước ở Châu Phi ............. 75
3.2.1. Angola ................................................................................................... 76
3.2.2. Nigeria ................................................................................................... 79
3.2.3. Nam Phi ................................................................................................. 82
3.3. Tác động đến quan hệ giữa Trung Quốc với một số cường quốc trên thế
giới................................................................................................................... 86
Tiểu kết chương 3........................................................................................... 98
KẾT LUẬN .................................................................................................... 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 102

2


1. Lí do chọn đề tài
Cuối thế kỉ XIX, sự sụp đổ của trật tự hai cực Ianta, sự tan rã của hệ
thống xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, cùng với sự chấm dứt của
Chiến tranh lạnh đã làm đảo lộn trật tự thế giới. Nước Mỹ với ưu thế về sức
mạnh kinh tế, chính trị, quân sự…, đã ra sức tìm mọi cách thiết lập một trật tự
thế giới mới do Mỹ đứng đầu và chi phối. Tuy nhiên, những tham vọng đó
của Mỹ ngày càng bị thách thức bởi sự trỗi dậy của các nhân tố cạnh tranh
khác như: Nga, EU, Nhật Bản, Ấn Độ…, trong đó đặc biệt là Trung Quốc.
Sau hơn 35 năm tiến hành cải cách và mở cửa (kể từ năm 1978),
Trung Quốc đã và đang phát triển nhanh chóng, toàn diện về mọi mặt: kinh
tế, chính trị, quân sự…, trở thành cường quốc không chỉ trong khu vực mà
cả trên vũ đài quốc tế và là đối thủ chính của Mỹ trong cuộc cạnh tranh
quyền lực, hay thách thức bất cứ lực lượng đối địch nào muốn kiềm chế
sức mạnh của Trung Quốc.
Sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của Trung Quốc không chỉ đòi
hỏi có một nền chính trị, xã hội và an ninh trong nước ổn định mà còn đòi hỏi

một môi trường quốc tế thuận lợi. Bên cạnh đó, cùng với sự vươn lên mạnh
mẽ về kinh tế của Trung Quốc cũng thúc đẩy cường quốc này khẳng định vị
thế và quảng bá hình ảnh của mình một cách mạnh mẽ trên trường quốc tế.
Hơn thế nữa, công cuộc phát triển cũng biến Trung Quốc trở thành “kẻ thèm
khát” nhất là đối với các nguồn tài nguyên, năng lượng của các quốc gia khác
trên thế giới…
Tất cả những nguyên nhân trên khiến Trung Quốc dần điều chỉnh chiến
lược đối ngoại của mình một cách toàn diện kể từ năm 1990, đặc biệt là trong
những năm đầu của thế kỉ XXI để phù hợp với sự thay đổi của tình hình mới,
trong đó đặc biệt là chiến lược đối ngoại với các nước châu Phi.
Châu Phi là một khu vực được Trung Quốc quan tâm đến nhiều và là

3


một phần quan trọng trong chiến lược của Trung Quốc. Sự quan tâm của
Trung Quốc tới khu vực này bởi lẽ đây là khu vực giàu tài nguyên thiên
nhiên, đặc biệt là dầu mỏ. Nó có thể giúp Trung Quốc thực hiện chiến lược an
ninh năng lượng của mình. Mặt khác, với dân số đông và nguồn lao động dồi
dào, châu Phi được Trung Quốc đánh giá là một thị trường đầy tiềm năng,
một trong những thị trường quan trọng nhất trên hành tinh trong thế kỉ XXI.
Song, hiện nay châu Phi cũng đang đứng trước những thách thức rất lớn như
nghèo đói, bệnh tật, mất an ninh trầm trọng.
Chính vì những lí do đó mà tôi đã lựa chọn đề tài “Chính sách của Trung
Quốc đối với châu Phi từ năm 1990 đến nay” để làm luận văn tốt nghiệp của
mình. Nội dung chủ yếu là đi sâu phân tích chính sách đối ngoại của Trung
Quốc đối với châu Phi trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh, năng
lượng…, và thông qua chính sách đó thấy được những toan tính của Trung
Quốc muốn đưa châu Phi vào quỹ đạo của mình để thực hiện mưu đồ bá
chủ. Tuy có những thành công nhưng chiến lược ngoại giao của Trung

Quốc cũng gặp không ít những khó khăn, những mâu thuẫn trong việc triển
khai các kế hoạch và đạt được mục tiêu đề ra. Vì vậy mà luận văn có ý
nghĩa hết sức quan trọng về mặt khoa học, là nguồn tư liệu bổ sung cho các
bài giảng lịch sử thế giới ở các trường. Bên cạnh đó, luận văn còn có ý
nghĩa về mặt thực tiễn khi mà hiện nay châu Phi đang là điểm đến của rất
nhiều nước, cả nước phát triển và các nước đang phát triển, trong đó có
Việt Nam. Mối quan hệ tốt đẹp Việt Nam - châu Phi được xây dựng từ
những năm 60, 70 của thế kỉ XX, khi mà phong trào giải phóng dân tộc
diễn ra hết sức mạnh mẽ. Do đó, việc tìm hiểu châu Phi và chính sách đối
ngoại của Trung Quốc đối với châu Phi là điều hết sức cần thiết.
1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

4


Những năm trước đây, vấn đề Trung Quốc - châu Phi ít được đề cập đến,
những tài liệu viết về vấn đề này không nhiều, hoặc có viết thì chỉ đề cập đến
một số mặt như chính trị hoặc kinh tế, năng lượng. Trong những năm gần đây
do sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế Trung Quốc, sự mở rộng ảnh hưởng
của Trung Quốc ra bên ngoài ngày càng mạnh mẽ và nhận thấy vị trí quan
trọng của châu Phi cả về vị trí chiến lược và tài nguyên thiên nhiên, đồng thời
với những thay đổi về đời sống chính trị, kinh tế thì các nước lớn đã quan tâm
tới khu vực này nhiều hơn và do vậy nó cũng thu hút sự chú ý của các nhà
nghiên cứu nhiều hơn. Ở Việt Nam đã có một số tài liệu nghiên cứu về chính
sách của Trung Quốc đối với châu Phi, đặc biệt là trong một vài năm trở lại
đây nhiều cuộc hội thảo về vấn đề Trung Quốc - châu Phi đã được tổ chức,
một số đề tài được công bố. Tuy nhiên, lại có rất ít người đề cập đến chính
sách của Trung Quốc đối với châu Phi trên tất cả các mặt.
Trần Thị Vinh (1980) trong bài viết “Những biểu hiện của chủ nghĩa
bành chướng Trung Quốc ở châu Phi” đăng trên Tạp chí nghiên cứu lịch sử

số 5, bài viết đã phân tích những chính sách của Trung Quốc đối với châu Phi
trên một số mặt, trong đó đặc biệt nhấn mạnh đến vấn đề kinh tế - thương
mại. Bài viết cho thấy dưới chiêu bài viện trợ, Trung Quốc đã mở rộng ảnh
hưởng của mình ra hầu khắp các nước ở châu Phi và gạt dần ảnh hưởng của
các nước khác ở khu vực này. Nhưng bài viết còn tồn tại hạn chế là trình bày
sơ lược chưa phân tích một cách sâu rộng các chính sách của Trung Quốc đối
với khu vực này.
Gần đây có một cuốn sách về châu Phi mới được xuất bản như cuốn:
“Tình hình chính trị - kinh tế cơ bản của châu Phi” do Đỗ Đức Định chủ
biên, nhà xuất bản KHXH, năm 2006. Sau khi đề cập tới những vấn đề về
chính trị, kinh tế của châu Phi thì sách có nói tới quan hệ kinh tế đối ngoại của
châu Phi, trong đó có chính sách với Trung Quốc, nhưng không đi sâu phân

5


tích cụ thể các chính sách của Trung Quốc trên tất cả các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, an ninh, năng lượng,…Vì vậy, cuốn sách chỉ cho ta cái nhìn khái
quát về chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với khu vực châu Phi mà
thôi chứ không đưa ra được một cách toàn diện.
Năm 2007, một đề tài cấp bộ do tiến sĩ Nguyễn Thanh Hiền làm chủ
nhiệm đã được công bố. Đó là đề tài “Châu Phi trong hợp tác phát triển toàn
cầu hiện nay”. Khi trình bày những tiềm năng và hiện trạng châu Phi tác giả
đã đề cập tới sự giúp đỡ của thế giới đối với châu Phi vì một sự phát triển
toàn cầu, trong đó có sự tham gia của Trung Quốc. Tác giả cũng phân tích
những mục đích khác nhau của từng nước khi thi hành những chính sách
riêng đối với châu Phi. Tuy nhiên tài liệu này chủ yếu viết về châu Phi nên
những chính sách của Trung Quốc được trình bày chưa hệ thống, nhưng nó là
tài liệu rất quý giá bổ sung cho bản luận văn.
Công trình dự thi giải thưởng “sinh viên nghiên cứu khoa học” với bài

viết “Ngoại giao dầu lửa của Trung Quốc từ năm 1993 đến nay” bài viết đã
trình bày mối quan hệ ngoại giao của Trung Quốc đối với các khu vực có
nguồn năng lượng dầu mỏ trong đó có châu Phi, bài viết còn nói khá rõ chính
sách của Trung Quốc đối với một số nước có nguồn dầu mỏ như Algeria,
Angola…Những chính sách này đã đem lại cho Trung Quốc những lợi nhuận
to lớn từ việc buôn bán dầu mỏ. Nhưng bài viết mới chỉ đề cập đến vấn đề
năng lượng nên chúng ta không có cái nhìn tổng quát trên các lĩnh vực khác.
“Quan hệ Trung Quốc-châu Phi” - đăng trên tạp chí Sự kiện và nhân vật
số 4 năm 2011. Bài viết cho thấy mối quan hệ Trung Quốc - châu Phi đã có từ
lâu đời và mối quan hệ đó ngày càng được mở rộng cùng với việc mở rộng
các chính sách của Trung Quốc. Khi các nước phương Tây tẩy chay hay cấm
vận các nước châu Phi thì quốc gia này vẫn nhảy vào làm ăn và có nhiều điều
khoản rất dễ dãi. Chính việc làm này đã khiến Trung Quốc ngày càng mở

6


rộng ảnh hưởng của mình tại đây. Từ những thành công trong kinh doanh
với châu Phi, Trung Quốc đã gặt hái được nhiều thành công về mặt chính
trị và ngoại giao, từ đó giúp Trung Quốc nâng cao vị thế của mình trên
trường quốc tế.
“Sự hiện diện của Trung Quốc ở châu Phi: Thành công hay thất bại” bài
trích của Thông tấn xã Việt Nam, số 97, năm 2010, đưa vào chuyên mục tin
tham khảo đặc biệt. Bài viết trình bày đằng sau những thành công ban đầu,
Trung Quốc đã gặp không ít những thất bại trong việc thực hiện chính sách
châu Phi như đầu tư một cách quá vội vàng và ồ ạt vào một số lĩnh vực mà
không đem lại hiệu quả cao. Mặt khác, bài viết cho thấy Trung Quốc được
nhìn nhận là một kẻ đi cứu giúp và là kẻ bóc lột hay nói chính xác hơn là bộ
mặt của đối tác phát triển và của kẻ thực dân mới. Hình ảnh của Trung Quốc
ngày càng xấu không chỉ trong mắt người dân châu Phi mà ngay cả chính phủ

các nước cũng phải xem xét lại chính sách hào phóng của Trung Quốc, vì
đằng sau sự hào phóng đó luôn có những toan tính.
“Chiến lược đối ngoại của Trung Quốc đầu thế kỉ XXI” - bài trích dịch
của TTXVN tại Hồng Kông (11 – 7 - 2003) từ cuốn “Sự lựa chọn chiến lược
đối ngoại của Trung Quốc trong thời kì đầu của thế kỉ XXI” của nghiên cứu
viên Học viện quan hệ quốc tế Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc (PLA)
Lý Như Bình, đưa vào chuyên mục tài liệu tham khảo đặc biệt của TTXVN
ngày 31 - 7 - 2003. Bài viết cho chúng ta thấy chiến lược đối ngoại của Trung
Quốc trong thế kỉ XXI với mục tiêu “Tạo dựng một môi trường quốc tế hòa
bình, ổn định, tạo điều kiện thuận lợi thực hiện thắng lợi công cuộc bốn hiện
đại hóa, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia, đồng thời từng bước nâng
cao vai trò và ảnh hưởng của Trung Quốc ở khu vực và trên trường quốc tế,
nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược thường xuyên và vươn lên thành một
cường quốc toàn diện trên thế giới”. Chiến lược đối ngoại này được thực hiện

7


trên nguyên tắc “bình đẳng, tôn trọng chủ quyền, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau, hợp tác cùng có lợi và cùng phát triển”. Với đường lối
đối ngoại như vậy Trung Quốc đã triển khai hàng loạt các chính sách trên các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh, năng lượng,..., bài viết giúp luận văn nắm
được đường lối chiến lược ngoại giao cơ bản của Trung Quốc để từ đó có
những phân tích, đánh giá đúng đắn.
GAO-JIN_YAN (dịch Nguyễn Hiếu) (1984) - Viện nghiên cứu Trung
Quốc với bài viết: “Trung Quốc và châu Phi: Sự phát triển của những mối
quan hệ qua nhiều thế kỉ”, đăng trên tạp chí Những vấn đề châu Phi - tạp chí
về xã hội hoàng gia châu Phi số 331, tháng 4 - 1984, đã khái quát mối quan hệ
bang giao của Trung Quốc đối với châu Phi có từ lâu đời. Nó trải qua nhiều
giai đoạn khác nhau, có lúc mờ nhạt nhưng có lúc lại phát triển mạnh mẽ.

Trong mỗi giai đoạn ấy Trung Quốc đều có những chính sách riêng để củng
cố chỗ đứng của mình ở lục địa đen và những chính sách đó đã phần nào đem
lại những kết quả như mong đợi.
Ngoài ra, các tạp chí nghiên cứu chuyên ngành trong nước như:
+ Tạp chí nghiên cứu châu Phi - Trung Đông với bài: Quan hệ Trung
Quốc - châu Phi cuối thế kỉ XX - đầu thế kỉ XXI của tác giả Ngô Chí Nguyện;
Một số vấn đề xung quanh quan hệ giữa Trung Quốc và một số nước châu Phi
về dầu lửa của Phạm Thanh Tú; Tăng cường quan hệ Trung Quốc - châu Phi
trên lĩnh vực chính trị, ngoại giao từ sau Chiến tranh lạnh của Nguyễn Thanh
Hiền và Hà Thị Phượng,…
+ Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc với các bài: Chiến lược đầu tư ra nước
ngoài của Trung Quốc; Quan hệ Trung Quốc - châu Phi-Nhìn từ khía cạnh
kinh tế của Trần Thọ Quang,…
+ Ngoài ra còn có các tạp chí khác: Tạp chí nghiên cứu quốc tế, Tạp chí
nghiên cứu Đông Bắc Á, báo Quân đội Nhân dân, An ninh thế giới...
Những bài viết được đăng trên các tạp chí đã cung cấp cho chúng ta

8


những tư liệu quan trọng để hoàn thành luận văn. Mỗi bài viết chỉ đề cập
đến một khía cạnh nào đó như kinh tế, chính trị, an ninh, năng lượng trong
chính sách của Trung Quốc đối với châu Phi hoặc chỉ đề cập một cách sơ
lược, khái quát nhưng đã có cái nhìn xác thực, nhiều chiều về những chính
sách củaTrung Quốc. Mặc dù các tài liệu còn có một số hạn chế nhưng nó
giúp ta có tư liệu để phân tích, đánh giá những chính sách của Trung Quốc
đối với châu Phi cũng như sách lược ngoại giao mới của Trung Quốc với
các nước lớn.
Nhìn chung có thể nói, sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trong và
ngoài nước về khu vực châu Phi và các chính sách của các nước lớn đối với

châu Phi, đặc biệt là chính sách của Trung Quốc từ năm 1990 đến nay là hết
sức đáng chú ý. Tuy nhiên, tất cả những sự quan tâm đó thường chỉ dừng lại ở
việc xem xét, phân tích các vấn đề góc cạnh, riêng lẻ mà chưa có sự tổng kết
một cách rõ ràng, hoàn chỉnh. Bởi vậy trên cơ sở những công trình, bài viết
cùng nhiều luận văn, khóa luận tốt nghiệp có liên quan..., chúng tôi tập trung
tham khảo để cố gắng hoàn thành tốt luận văn này.
3. Đối tƣợng, phạm vi và mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu chủ yếu của luận văn này là việc Trung Quốc triển
khai chính sách của mình ở châu Phi như thế nào.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Thông qua việc tiếp cận với các nguồn tài liệu trong điều kiện có thể,
chúng tôi xác định phạm vi nghiên cứu của đề tài như sau:
+ Không gian: Ở châu Phi, nhưng tập trung chủ yếu vào chính sách của
Trung Quốc đối với một số nước như Angola, Nigieria, Nam Phi.
+ Thời gian: Thứ nhất, đề tài tập trung nghiên cứu chính sách của Trung

9


Quốc đối với châu Phi từ năm 1990 vì: Tháng 4 - 1989, sự kiện Thiên An
Môn xảy ra, Mỹ và các nước phương Tây thực hiện chính sách phong tỏa, bao
vây, cô lập chính trị và kinh tế đối với Trung Quốc, hoạt động ngoại giao của
Trung Quốc lúc bấy giờ gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, trước bối cảnh
như vậy, với nền tảng quan hệ trong những năm 1950 - 1960, các nước châu
Phi đã giúp đỡ Trung Quốc thoát khỏi giai đoạn khó khăn. Tháng 12 - 1989,
trong khi các nước phương Tây thực hiện chính sách bao vây cô lập Trung
Quốc, Tổng thống Ai Cập đã mời Chủ tịch nước Dương Thượng Côn thăm
chính thức Ai Cập. Đây là chuyến thăm nước ngoài đầu tiên của các nhà lãnh
đạo cấp cao Trung Quốc sau sự kiện Thiên An Môn. Sự kiện này đánh dấu

bước ngoặt quan trọng trong mối quan hệ giữa Trung Quốc - châu Phi. Cho
nên, từ năm 1990 trở đi các nguyên thủ quốc gia, thủ tướng chính phủ và bộ
trưởng ngoại giao Trung Quốc sang thăm châu Phi và ngược lại.
Mặt khác, khi trật tự hai cực Ianta tan rã, CNXH ở Liên Xô và Đông Âu
sụp đổ, Trung Quốc đã chuyển hướng tư duy chiến lược, đó là bỏ qua ý thức hệ,
tăng cường quan hệ giao lưu giữa các chính đảng với nguyên tắc “không lấy ý
thức hệ làm ranh giới, về đối tượng không lấy đảng cầm quyền làm giới hạn, về
nội dung không hạn chế chính trị chính đảng” [113]. Trên cơ sở đó, Trung Quốc
điều chỉnh chính sách với châu Phi “lấy xây dựng kinh tế làm trung tâm”. Năm
1990, Trung Quốc đề ra chính sách “đa nguyên hóa thị trường” nhằm mở rộng
thị trường đầu tư, trong đó chú trọng đến thị trường châu Phi. Năm 1991, Trung
Quốc bắt đầu cải cách và hoàn thiện thể chế ngoại thương, loại bỏ hỗ trợ tài
chính cho xuất khẩu,…nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Trung Quốc
tăng cường buôn bán, trao đổi thương mại với châu Phi. Việc làm này cho thấy
từ năm 1990 chính sách châu Phi của Trung Quốc không những được đẩy mạnh
trên lĩnh vực chính trị mà còn được đẩy mạnh trên lĩnh vực kinh tế.
Mặt khác, từ đầu thập kỉ 90, nhất là từ năm 1992 đến nay châu Phi có

10


nhiều chuyển biến quan trọng về chính trị và kinh tế. Một mặt tình trạng đói
nghèo, xung đột và khủng hoảng xã hội đã phần nào được giải quyết. Mặt
khác, các lãnh tụ châu Phi đã và đang đi đến quan điểm rõ ràng về cải cách
kinh tế và mở rộng cửa với thế giới bên ngoài. Những tiến bộ đó tạo điều kiện
cho Trung Quốc mở rộng ảnh hưởng và tăng cường các chính sách đối với
châu Phi.
Những sự kiện trên cho thấy từ năm 1990 chính sách châu Phi của Trung
Quốc ngày càng được mở rộng trên các mặt, ngoài lĩnh vực chính trị còn có
lĩnh vực kinh tế, an ninh,..

Thứ hai, đề tài chọn mốc đến nay chủ yếu là đến hết nhiệm kì của Chủ
tịch nước Hồ Cẩm Đào (2013) vì dưới thời Chủ tịch Hồ Cẩm Đào, chính sách
châu Phi của Trung Quốc được đẩy mạnh một cách toàn diện và đạt được
nhiều kết quả. Trong nhiệm kì, ông đã tiến hành nhiều chuyến thăm cấp nhà
nước đến nhiều nước châu Phi nhằm thúc đẩy sự hợp tác và tăng cường hơn
nữa chính sách châu Phi (năm 2006 Chủ tịch Hồ Cẩm Đào thăm Maroc,
Kenya, Nigeria; năm 2007 thăm Camarun, Sudan, Mozambique, Namnibia
và Zambia,…). Tháng 1 - 2006 ông cùng với Bộ Ngoại giao Trung Quốc ra
sách trắng về Chính sách châu Phi tháng, châu Phi chính thức trở thành “đối
tác chiến lược kiểu mới” trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc. Sự kiện
này đánh dấu bước tiến mới trong việc hoạch định các chính sách đối với
châu Phi của chính quyền Bắc Kinh và cho thấy tầm quan trọng chiến lược
của lục địa đen với việc thực hiện tham vọng nước lớn của Trung Quốc.
Chính sự tăng cường mạnh mẽ chính sách châu Phi của Trung Quốc và
sự thay đổi sâu sắc của châu Phi từ năm 1990 trở lại đây mà tôi đã chọn giới
hạn của luận là: từ năm 1990 đến nay.
+ Vấn đề nghiên cứu (nội dung): Ngoài chính sách đối ngoại chung, đề

11


tài tập trung vào nghiên cứu những chính sách kinh tế, chính trị - quân sự, an
ninh - năng lượng của Trung Quốc đối với châu Phi.
3.3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
+ Mục đích: Làm rõ chính sách của Trung Quốc đối với châu Phi trên
một số lĩnh vực như kinh tế, an ninh, năng lượng…
+ Nhiệm vụ: Nghiên cứu chính sách của Trung Quốc đối với châu Phi từ
năm 1990 đến nay, chúng tôi tập trung vào nhiệm vụ sau:
- Phân tích những nhân tố bên trong và bên ngoài tác động đến việc hình
thành chính sách của Trung Quốc đối với châu Phi.

- Trình bày những chính sách về kinh tế, chính trị, an ninh - năng
lượng…của Trung Quốc đối với châu Phi từ năm 1990 đến nay.
- Đánh giá kết quả, hạn chế và những tác động của các chính sách này
đối với các nước trong khu vực châu Phi, cũng như các nước lớn trên thế giới,
dự đoán triển vọng chính sách đối ngoại của Trung Quốc đối với khu vực
châu Phi.
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Để hoàn thành luận văn, chúng tôi đưa vào những nguồn tư liệu sau:
- Các chủ trương, chính sách của Trung Quốc đối với châu Phi thông qua
các tuyên bố của các nhà lãnh đạo Trung Quốc, của Bộ ngoại giao Trung
Quốc, thông qua nguồn của TTXVN, một số Websie đáng tin cậy.
- Các bài nghiên cứu, các công trình nghiên cứu đã công bố có liên quan
đến đề tài…
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở những quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về các vấn đề
quốc tế, để hoàn thành luận văn chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên
cứu sau: Phương pháp lịch sử kết hợp với phương pháp lôgic, phương pháp

12


nghiên cứu quốc tế và phương pháp liên ngành để giải quyết những vấn đề đặt
ra. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phương pháp so sánh để hỗ trợ làm rõ
những vấn đề khoa học cần giải quyết.
5. Đóng góp của luận văn
-

Bằng những tư liệu lịch sử, chúng tôi tái hiện lại một cách hệ thống,


khá đầy đủ chính sách về các mặt kinh tế, chính trị, an ninh, năng lượng…của
Trung Quốc đối với châu Phi giai đoạn từ 1990 đến nay.
-

Đưa ra những đánh giá về kết quả, hạn chế, tác động của chính sách

này đối với châu Phi và quan hệ quốc tế.
-

Góp thêm nguồn tư liệu nghiên cứu về Trung Quốc, về quan hệ quốc

tế thời hiện đại,…
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tiểu kết…luận văn được cấu tạo gồm 3
chương:
-

Chương 1: Những nhân tố tác động tới chính sách của Trung Quốc

đối với châu Phi từ năm 1990 đến nay
-

Chương 2: Chính sách của Trung Quốc đối với châu Phi từ năm 1990

đến nay
-

Chương 3: Nhận xét về chính sách của Trung Quốc đối châu Phi từ

1990 đến nay


13


NỘI DUNG
Chƣơng 1: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI CHÍNH SÁCH CỦA
TRUNG QUỐC ĐỐI VỚI CHÂU PHI TỪ NĂM 1990 ĐẾN NAY

1.1. Bối cảnh quốc tế
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới cuối thập niên của thế kỉ XX - một
trong những cuộc khủng hoảng tồi tệ nhất trong hơn 50 năm qua và Chiến
tranh lạnh kết thúc đã làm xáo trộn toàn bộ cục diện quan hệ quốc tế, khiến
hầu hết các quốc gia phải điều chỉnh lại chính sách phát triển để thích ứng với
thời đại mới và Trung Quốc không phải là trường hợp ngoại lệ. Không còn
tình trạng chạy đua vũ trang, tập hợp lực lượng và lôi kéo lực lượng đồng
minh giữa các siêu cường trong quan hệ quốc tế kiểu thời kì Chiến tranh lạnh.
Bức tường Beclin - biểu tượng của sự đối đầu Đông - Tây trong thời kì Chiến
tranh lạnh sụp đổ đã làm đảo lộn cục diện chính trị các nước. Quan hệ giữa
các nước chuyển từ đối đầu sang hòa hoãn, đối thoại, rồi dần dần hợp tác với
nhau cùng phát triển. Bản thân nhiều nước trong đó có Trung Quốc cũng
mong muốn có một môi trường quốc tế ổn định, thuận lợi để phát triển kinh
tế, xã hội.
Bước sang thế kỉ XXI, sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa
học công nghệ lần thứ hai đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Xu thế toàn cầu
hóa, khu vực hóa, tập đoàn hóa, đa cực hóa cùng với sự nổi lên của các mối
đe dọa an ninh “phi truyền thống” và những tác động ngày càng có xu hướng
gia tăng của những thực thể hành vi “phi quốc gia” đã ảnh hưởng rất lớn đến
phát triển các mối quan hệ quốc tế, đặc biệt là quan hệ giữa các nước lớn.
Điều đó thể hiện ở những điểm sau:
Một là, cuộc cách mạng khoa học công nghệ diễn ra và đạt được nhiều

thành tựu to lớn với những phát minh, sáng chế về công nghệ, về máy móc và

14


công nghệ thông tin... đã và đang làm thay đổi bộ mặt thế giới từng ngày. Các
nước đang phát triển bước vào con đường hiện đại hóa, cạnh tranh sức mạnh
tổng hợp quốc gia trở thành nội dung chủ yếu trong đấu tranh và hợp tác giữa
các nước. Song song với đó là xu thế toàn cầu hóa kinh tế đã và đang ngày
một phát triển, mang lại cho các nước đang phát triển cơ hội điều chỉnh kết
cấu ngành nghề. Các yếu tố này đưa đến thách thức lớn cho các nước trong
quan hệ quốc tế như vấn đề chủ quyền quốc gia và lợi ích quốc gia... Đồng
thời tăng tính phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế giữa các nước ngày càng tăng lên
và lợi ích chung, do đó cũng tăng lên. Bên cạnh đó, mâu thuẫn giữa tăng
trưởng kinh tế với việc bảo vệ môi trường sinh thái cũng đang trở thành các
thách thức đối với tất cả các quốc gia. Giữa các nước, trước hết là các nước
lớn xuất hiện mầm mống của khả năng triển khai những cuộc xung đột vũ
trang, thậm chí có thể dẫn đến những cuộc xung đột vì nguồn tài nguyên như
nước ngọt, năng lượng, biển đảo và tài nguyên biển, kể cả tài nguyên vũ trụ.
Hai là, sự kiện 11 – 9 - 2001 diễn ra ở nước Mĩ đã làm rung chuyển thế
giới. Bọn khủng bố tấn công vào siêu cường số 1 thế giới được bảo vệ vô
cùng cẩn mật với hệ thống phòng thủ dày đặc, nhiều tầng, nhiều lớp tới mức
“một con ruồi cũng không thể lọt qua được các trạm ra - đa theo dõi”. Sự
kiện này gây bàng hoàng đối với toàn thế giới.
Sau sự kiện này, Mỹ phát động cuộc chiến chống khủng bố trên toàn thế
giới và nó đã tác động đến nhiều nước. Nếu như trong thời kì “Chiến tranh
lạnh”, thế giới bị phân chia làm hai hệ thống chính trị đối lập về ý thức hệ thì
sau sự kiện 11- 9 - 2001 Mỹ đã tự phân chia thế giới thành 2 phe: phe khủng
bố và phe đi theo Mỹ để chống khủng bố. Như vậy, sự kiện 11- 9 - 2001
không chỉ là thảm họa có một không hai nhằm vào Mỹ mà còn tạo ra cho Mỹ

“cơ hội” để tiến hành “một cuộc thập tự chinh mới” để hiện diện quân sự ở
bất kì khu vực nào trên thế giới. Với danh nghĩa “chống khủng bố” sau sự

15


kiện 11- 9 Mỹ phát động hai cuộc chiến tranh lớn sau “Chiến tranh lạnh” là
chiến tranh Afghanixtan (2001) và chiến tranh Irac (2003). Chính quyền Mỹ
còn tham gia hàng loạt các chiến dịch khác, các cuộc truy lùng các tổ chức
khủng bố ở Pakixtan, Yemen, Soomali, Phillippin, Indonexia...
Với những thay đổi về chiến lược và mục tiêu an ninh chưa từng có, Mỹ
đã thu được những thành công lớn và không để xảy ra một vụ khủng bố lớn
nào trong thời gian về sau và cuộc chiến chống khủng bố do Mỹ phát động đã
phần nào mang lại sự hợp tác quốc tế tối thiểu cần thiết giữa các nước.
Trước những động thái đó của Mỹ, Trung Quốc ngày càng đẩy mạnh
hơn nữa những hoạt động của mình, tăng cường sự hiện diện của mình ở
nhiều khu vực, trong đó có châu Phi. Chính sách châu Phi của Trung Quốc
ngày càng trở lên hoàn thiện hơn, được đẩy mạnh hơn trên các mặt kinh tế,
chính trị, an ninh…
Ba là, khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 bắt đầu từ Mỹ rồi sau
đó khủng hoảng lan dần ra toàn thế giới làm rung chuyển toàn bộ nền kinh tế
thế giới, làm sụp đổ nhiều hệ thống ngân hàng khiến cho mức độ thu hẹp tín
dụng trên toàn cầu gia tăng, ảnh hưởng lớn tới thị trường kinh tế toàn cầu và
nó đặt ra một dấu hỏi lớn cho mô hình kinh tế thị trường tự do của Mỹ. Cuộc
khủng hoảng tài chính kinh tế toàn cầu này đã và đang mở ra kỷ nguyên cạnh
tranh và hợp tác cho các mô hình phát triển trên thế giới. Ngoài ra, cuộc
khủng hoảng này đã tác động đến Trung Quốc, một nền kinh tế đang ngày
càng mở cửa và phát triển, nó đặt ra thách thức và cơ hội lớn đối với Trung
Quốc buộc nước này phải thay đổi những chiến lược phát triển kinh tế và
chính sách đối ngoại của mình để đối phó với tình hình quốc tế mới.

Thứ tư, sự mở rộng không ngừng của NATO sang phía Đông, trái với
tuyên bố của Tổng thống Mỹ G.H. Bush (1989 - 1993) rằng NATO sẽ không
mở rộng thêm sau khi bức tường Beclin sụp đổ. Trong suốt mấy thập niên

16


qua, liên minh quân sự này tiếp tục mở rộng và chưa có dấu hiệu dừng lại trong
thập kỷ tới. Sau “Chiến tranh lạnh” NATO kết nạp thêm 12 thành viên mới và
chủ trương sẽ kết nạp thêm nhiều thành viên khác nữa. Năm 2010, NATO
thông qua “chiến lược mới” nhằm biến tổ chức này thành công cụ an ninh sẵn
sàng sử dụng sức mạnh quân sự bên ngoài phạm vi lãnh thổ quốc gia thành
viên theo quyết định của NATO mà không cần được phép của Hội đồng Bảo an
Liên Hợp Quốc, đe dọa sự ổn định và hòa bình ở châu Âu và trên thế giới.
Hoạt động đó của NATO đã khiến các nước quan tâm hơn nữa đến vấn
đề an ninh và hợp tác với nhau để giải quyết các vấn đề quốc tế. Trước hành
động đó của NATO, Trung Quốc một mặt củng cố tình hình chính trị trong
nước, mặt khác tăng cường hơn nữa các chính sách đối với châu Phi, trong đó
có chính sách về an ninh. Trung Quốc đẩy mạnh hoạt động xây dựng các nhà
máy sản xuất vũ khí, cung cấp thiết bị quân sự cho các nước châu Phi…Việc
làm này không nhằm mục đích gì khác là đảm bảo an ninh cho Trung Quốc,
củng cố vị thế của Trung Quốc ở đây…
Cuối cùng, các vấn đề toàn cầu nảy sinh như: bùng nổ dân số ở các nước
đang phát triển tạo sức ép đối với vấn đề kinh tế, năng lượng, nguyên liệu...
dẫn đến những tham vọng về tài nguyên lãnh thổ của nhiều nước, nhất là
Trung Quốc. Vấn đề nợ công, phân hóa giàu nghèo đang lan tỏa, tài nguyên
ngày càng cạn kiệt, các dịch bệnh, thiên tai liên tục diễn ra trong những năm
cuối thế kỉ XX đầu thế kỷ XXI ở tất cả các châu lục đều có liên quan trực tiếp
tới việc hoạch định chính sách và chiến lược đối ngoại của tất cả các quốc gia
trên thế giới, đặc biệt là các nước lớn trong đó có Trung Quốc.

Trong cuối thế kỷ XX - đầu thế kỷ XXI, Trung Quốc, một nước lớn nhất
thế giới về dân số, trỗi dậy một cách “ngoạn mục” cùng với “giấc mơ Trung
Hoa” đã trở thành đối trọng với giấc mộng bá chủ thế giới của Mỹ. Trung
Quốc đã trải qua giai đoạn “im lặng chờ thời” chuyển sang giai đoạn phát

17


triển mạnh mẽ, cạnh tranh với Mỹ trên phạm vi toàn thế giới. Năm 2010,
Trung Quốc đã là nước có nền kinh tế lớn thứ hai trên thế giới, sau Mỹ. Cũng
trong thời gian qua, Trung Quốc trở thành nước thứ ba trên thế giới thành
công phóng tàu vũ trụ có người lái, đưa ngành công nghiệp vũ trụ Trung Quốc
vượt qua Nhật Bản và Ấn Độ.
Ngoài ra, trước xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa thì các nước như Nga,
Nhật Bản, Ấn Độ và EU đều có những thay đổi trong chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội và thay đổi chính sách đối ngoại để mở rộng ảnh hưởng của
mình ra nhiều khu vực khác nhau trên thế giới và đều gặt hái được nhiều
thành công trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của mình. Nhật Bản đã
thoát khỏi cái “ô an ninh” của Mỹ và tích cực xây dựng một hình ảnh nước
lớn về chính trị để có thể “đứng ngay, ngồi thẳng với Mỹ”, hay Ấn Độ trong
thế kỷ vừa qua nước này được mệnh danh là “quốc gia có thị trường bán lẻ
lớn nhất hành tinh”, “cái nôi của cuộc cách mạng xanh”, “siêu cường quốc
phần mềm” của thế giới. Trong 10 năm đầu thế kỷ XXI, GDP của Ấn Độ
liên tục tăng trưởng 6% trên năm. Với nhịp độ tăng trưởng như vậy thì đến
năm 2025, Ấn Độ sẽ trở thành nền kinh tế đứng thứ ba thế giới sau Trung
Quốc và Mỹ.
Trước sự lớn mạnh của Nhật Bản, Ấn Độ và sự cạnh tranh khốc liệt của
Mỹ, Trung Quốc lo sợ sẽ mất vị thế của mình ở châu Phi và phải chia sẻ khu
vực giàu tài nguyên này cho các nước khác. Nên Trung Quốc tăng cường mở
rộng các hoạt động ngoại giao, trao đổi buôn bán, đầu tư,...và củng cố hơn

nữa vị thế, hình ảnh của mình ở khu vực này.
Như vậy, dưới tác động của các sự kiện lớn làm rung chuyển thế giới
trong thời gian qua, nhân loại đang chuẩn bị bước sang thời kỳ đón nhận
những thay đổi lớn nhằm hướng tới một thế giới hòa bình, ổn định hơn, ít
chiến tranh xung đột hơn nhưng vẫn tiềm ẩn những yếu tố bất ổn định khó

18


lường [31]. Những sự kiện đó đã tác động đến Trung Quốc, khiến nước này
một mặt củng cố tình hình chính trị trong nước, mặt khác đẩy mạnh các hoạt
động ngoại giao với các nước trong khu vực và trên thế giới nhằm củng cố
hơn nữa vị thế của mình. Từ đó, chính sách với châu Phi ngày càng được đẩy
mạnh toàn diện và triệt để hơn.
1.2. Tình hình Trung Quốc từ năm 1990 đến nay
Trung Quốc nằm ở Đông và Bắc bán cầu, phía Đông châu Á, bờ Tây
Thái Bình Dương, cách xích đạo 2000km và cách Bắc cực gần 4000km, có
đường biên giới chung với Kyrgyzxtan, Tajikixtan, Afghanixtan, Pakixtan,
Ấn Độ, Nêpan, Butan, Myanma, Lào, Việt Nam.
Trung Quốc có diện tích 9.571.300 km2; lớn thứ ba thế giới sau Nga và
Canada, chiếm 6,5% diện tích thế giới và dân số hơn 1,3 tỷ người (2005)
đông dân nhất thế giới, chiếm 21% tổng dân số toàn cầu. Trung Quốc có
nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng chưa được khai thác hiệu quả.
Trữ lượng dầu mỏ của Trung Quốc khoảng 2,4 tỷ thùng; ngoài ra còn có khí
đốt, quặng sắt, boxit... Bước sang cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI, trải qua
hai, ba thập kỷ cải cách và mở cửa, tập trung xây dựng và phát triển đất nước,
Trung Quốc đã có những bước chuyển biến mạnh mẽ và đang dần vươn lên
trở thành siêu cường lớn mạnh trên thế giới.
 Về chính trị
Trong số các nước XHCN như Cuba, Lào, Việt Nam...thì Trung Quốc là

nước đầu tiên tiến hành cải cách mở cửa đất nước (1978) nhằm ổn định tình
hình kinh tế, chính trị - xã hội và cố gắng đưa Trung Quốc tiếp tục phát triển
theo con đường xây dựng XHCN. Công cuộc tiến hành cải cách mở cửa được
chính thức bắt đầu vào cuối năm 1978 do Đặng Tiểu Bình khởi xướng. Cuộc
cải cách không chỉ chú trọng tập trung mở cửa phát triển kinh tế mà còn nhằm
tạo thêm sức mạnh cho đất nước phát triển một cách toàn diện trên cơ sở một

19


nền kinh tế phát triển, chính trị - xã hội ổn định. Trong toàn bộ quá trình cải
cách thì giai đoạn cải cách lần thứ ba (1993 - 1996) và lần thứ tư (1998 2000) được coi là những cải cách toàn diện và có quy mô lớn nhất. Với việc
cải cách và hoàn thiện bộ máy của Đảng cộng sản Trung Quốc, với việc tách
Đảng ra khỏi chính quyền, cải cách bộ máy hành chính nhà nước từ tinh giản
cơ cấu đến chuyển biến chức năng hành chính là những nội dung chủ yếu mà
Trung Quốc thực hiện trong suốt quá trình cải cách bộ máy chính quyền trong
hơn ba thế kỷ qua. Tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm trung bình đạt trên
9% trong suốt quá trình cải cách và mở cửa là minh chứng thành công rõ ràng
nhất của Trung Quốc mà cả thế giới phải công nhận.
Mặc dù đạt được nhiều thành tựu nổi bật như vậy nhưng đó mới chỉ là
bước đầu của Trung Quốc, công cuộc cải cách hành chính, kinh tế vẫn được
tiếp tục tiến hành. Nhưng trong quá trình tiến hành cải cách mở cửa, cải cách
hành chính thì Trung Quốc gặp không ít khó khăn như: do đất nước rộng, dân
số đông, đa dân tộc, những tác động của tư tưởng tự do tư sản, sức ép từ các
nước phương Tây muốn tư bản hóa Trung Quốc, luôn muốn can thiệp vào
công việc nội bộ của Trung Quốc thông qua những chiêu bài dân chủ, nhân
quyền...Đó là những trở ngại không nhỏ trong quá trình hoàn thiện thể chế
chính trị XHCN hiện nay ở Trung Quốc.
Song song, với đó là vấn đề Đài Loan, gần đây nhất là vấn đề Tây Tạng,
Tân Cương cũng là nguyên nhân quan trọng làm cho tình hình chính trị - xã

hội Trung Quốc thiếu đi sự ổn định. “Vụ nổi loạn ở Lhasa ngày 14 – 3 - 2008
đã tác động nghiêm trọng đến tình hình trật tự ở Tây Tạng và sau đó lan sang
các khu vực có người Tạng sinh sống ở các tỉnh khác. Trong khi đó các thế
lực ly khai ở Tân Cương (của tổ chức “Phong trào Hồi giáo Đông
Turkestan”) cũng tiến hành các hoạt động chống phá bằng bạo lực. Nghiêm
trọng nhất là vụ tấn công đồn cảnh sát ở Kasi (Tân Cương) tháng 4 -2008)

20


làm 16 lính biên phòng bị thiệt mạng và 16 người khác bị thương. Những hoạt
động chống phá trong nước cùng những thế lực thù địch nước ngoài muốn
làm xấu tình hình Trung Quốc trước ngày tổ chức Olympic Bắc Kinh. Chính
phủ Trung Quốc đã áp dụng những biện pháp vừa kiên quyết vừa linh hoạt để
ổn định tình hình” [39].
Gần đây, vấn đề tranh chấp trên biển Đông đang trở thành điểm nóng
trong các hội nghị khu vực và trên thế giới. Trước sức mạnh kinh tế, Trung
Quốc đang từng bước thực hiện “giấc mơ Trung Hoa” và tham vọng bá
quyền của mình, nhưng để thực hiện được vấn đề đó hay không còn phải mất
nhiều thời gian. Các cuộc tranh chấp chủ quyền trên biển Đông giữa Trung
Quốc với Việt Nam, Philippin…ngày càng trở nên gay gắt. Tháng 5 - 2014,
Trung Quốc đưa dàn khoan Hải dương 981 ra vùng đặc quyền của Việt Nam
khiến dư luận thế giới và chính phủ các nước lên án, khiến cho các nước trên
thế giới nói chung và châu Phi nói riêng có thái độ hoài nghi với những điều
mà Trung Quốc đưa ra “hợp tác cùng phát triển”, “thế giới hòa bình”…
Ngày 14 – 3 - 2005, tại kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa X, Đảng cộng sản
Trung Quốc đã khẳng định về mặt pháp lý lập trường pháp lý của nhà nước
Trung Quốc trong việc giải quyết quan hệ giữa hai bờ eo biển Đài Loan nhằm
thống nhất đất nước. Sau sự kiện 11 – 9 – 2001, mối quan hệ Trung - Mỹ dịu
xuống có tác động không nhỏ làm dịu đi những căng thẳng trong quan hệ giữa

Trung Quốc và Đài Loan. Hơn nữa, từ năm 2008 Mã Anh Cửu một người
trong Quốc Dân Đảng lên nắm quyền ở Đài Loan đã nỗ lực ngăn chặn thế lực
“Đài Loan độc lập”, mở ra những triển vọng mới cải thiện “quan hệ hai bờ”.
Đài Loan và Đại lục đã trực tiếp mở các đường bay trực tiếp, tổ chức du
lịch...Tuy nhiên, việc ký kết hiệp định hợp tác khai thác kinh tế toàn diện giữa
hai nền kinh tế vẫn còn gặp nhiều trở ngại.

21


Tình hình chính trị ngày càng ổn định, mối quan hệ giữa Đài Loan và
Đại lục ngày càng hòa dịu…, khiến Trung Quốc tập trung mọi mặt cho phát
triển kinh tế, mở rộng ảnh hưởng ra bên ngoài. Vấn đề cạnh tranh, giành giật
sự ủng hộ, hợp tác của các nước châu Phi với Trung Quốc và Đài Loan cũng
đỡ căng thẳng hơn. Điều đó, đã giúp Trung Quốc tăng cường chính sách với
các nước châu Phi trên mọi lĩnh vực và quảng bá hơn nữa hình ảnh của mình.
 Về kinh tế
Chiến tranh lạnh kết thúc cũng là thời điểm mà Trung Quốc đang đẩy
mạnh công cuộc cải cách và mở cửa nền kinh tế. Đại hội Đảng cộng sản
Trung Quốc (1982) đã chủ trương chuyển từ “kinh tế phục vụ ngoại giao”
sang “ngoại giao phục vụ kinh tế”. Đảng chủ trương chuyển đổi nền kinh tế
tập trung bao cấp sang nền kinh tế thị trường, mở cửa cho các doanh nghiệp
nước ngoài vào thị trường trong nước làm ăn.
Trải qua hơn 35 năm tiến hành cải cách và mở cửa nền kinh tế, Trung
Quốc đã phát triển với tốc độ nhanh chóng và toàn diện có thể nói là thần tốc,
quy mô của nền kinh tế lớn hơn gấp chục lần so với trước cải cách, thu nhập
bình quân đầu người cũng tăng lên gấp 10 lần so với trước cải cách.
Theo số liệu thống kê của Ngân hàng thế giới (WB) thu nhập bình quân
đầu người của Trung Quốc năm 1985 là 293 USD thì sau 20 năm (2005) đã
tăng lên 2025 USD, tức là tăng lên gấp gần 10 lần. Tốc độ tăng trưởng kinh

tế đáng kinh ngạc, năm 1978 tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung
Quốc ở mức 365,5 tỷ nhân dân tệ (khoảng 52 tỷ USD), đến năm 2007 tăng
lên 25100 tỷ nhân dân tệ ( khoảng 3540 tỷ USD), gấp 68 lần. Trung Quốc
gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) vào năm 2001 đã từng bước
mở cửa thị trường tài chính của mình và hoàn thiện các văn bản pháp lý có
liên quan. Giờ đây Trung Quốc đang tiến vào giai đoạn quốc tế hóa thị
trường tài chính của mình.

22


Trong 10 năm đầu thế kỷ XXI, thông qua hai kế hoạch 5 năm lần thứ 10
(2001 - 2005), lần thứ 11 (2006 - 2010) nền kinh tế Trung Quốc đạt tốc độ
phát triển nhanh chóng với tỷ lệ tăng GDP bình quân hằng năm là 8,8% cao
hơn kế hoạch đề ra là 7% và cao hơn kế hoạch 5 năm lần thứ 9. Riêng 2005,
tăng trưởng GDP của Trung Quốc đạt 9,4%.
Nền kinh tế không những tăng với tốc độ cao và ổn định mà các chỉ số
phát triển xã hội cũng có nhiều thay đổi. Đời sống của nhân dân nâng cao rõ
rệt, xây dựng cơ sở hạ tầng, giáo dục, khoa học - công nghệ phát triển nhanh
chóng. Với dân số 1,3 tỷ người (đứng thứ nhất thế giới) đất nước Trung Quốc
đang ở trong giai đoạn công nghiệp hóa, đô thị hóa phát triển nhanh, tiềm lực
thị trường lớn. Năm 2004 mức tiêu thụ tư liệu sản xuất và hàng tiêu dùng xã
hội Trung Quốc là gần 2.000 tỷ USD. Năm 2005, tỷ lệ tăng trưởng tiêu dùng
trong nước là 13% thu nhập bình quân đầu người tăng cao. Quy mô thị
trường Trung Quốc cũng rất lớn vì thế việc sử dụng các biện pháp kích cầu
trong nước để thúc đẩy kinh tế trong nước tăng trưởng là phương châm chiến
lược lâu dài của Trung Quốc.
Theo “Báo cáo công tác của chính phủ” do Thủ tướng Ôn Gia Bảo trình
bày tại kỳ họp thứ 5 Quốc hội khóa X đã khái quát tình hình kinh tế xã hội
Trung Quốc năm 2006: GDP Trung Quốc đạt 2.0940 tỷ nhân dân tệ, tăng

10,7% so với năm 2005; tiếp tục đà tăng trưởng cao 2 con số trong 4 năm liền
(năm 2003 tăng 10%; năm 2004 tăng 10,1%; năm 2005 tăng 10,4%; năm
2006 tăng 10,7%) chỉ số giá tiêu dùng tăng 1,5% tổng kim ngạch ngoại
thương đạt 1.760 tỷ USD tăng 23,8%; đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp
hải ngoại ( nước ngoài, Hồng Kông, Ma Cao, Đài Loan...) với số vốn sử dụng
trên thực tế 69,5 tỷ USD. Sự phát triển y tế, giáo dục, văn hóa - thể dục thể
thao cũng đạt được nhiều thành tựu to lớn, đời sống nhân dân được cải thiện
đáng kể. Ở thành thị 11,84 triệu người có việc làm mới, thu nhập bình quân

23


đầu người của cư dân thành thị đạt 11,759 nhân dân tệ, cư dân nông thôn đạt
3,587 nhân dân tệ. Theo con số của Cục thống kê nhà nước Trung Quốc công
bố (25 – 1 - 2007) thì ngoại thương năm 2006 Trung Quốc xuất siêu 177,3 tỷ
USD. Dự trữ ngoại tệ tính đến cuối tháng 12 - 2006 đạt 1066,3 tỷ USD ( 2 2006 đã vượt Nhật Bản vươn lên dẫn đầu thế giới) [20].
Trước sự khủng hoảng nặng nề của nền kinh tế thế giới, nhưng nền kinh
tế Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng trưởng cao. Theo thống kê của Trung Quốc
GDP, quý 4 - 2009 của Trung Quốc tăng cao nhất kể từ năm 2007 với tốc độ
tăng 10,7% và cả năm 2009 là 8,7% đạt 33.555 tỷ nhân dân tệ (4.900 tỷ USD)
và vượt Đức trở thành nước xuất khẩu lớn nhất thế giới.
Kể từ khi công cuộc cải cách được thực hiện từ năm 1978, đặc biệt là
thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, thế giới đang chứng kiến sự trỗi dậy vượt bậc và
thần kỳ về mọi mặt của Trung Quốc, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là nổi
bật nhất. Trung Quốc đã và đang tiến hành hiện đại hóa và phát triển đất nước
lâu dài qua nhiều thập niên nhằm vươn lên trở thành một đất nước thịnh
vượng, hùng mạnh có đủ điều kiện ngăn chặn những nguy cơ từ bên ngoài đe
dọa Trung Quốc.
Tuy nhiên, với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh chóng như vậy,
Trung Quốc đang phải đối mặt với những khó khăn về nguyên nhiên liệu

phục vụ cho sản xuất. Trung Quốc mới chỉ tự túc được đến năm 1993. Còn tới
năm 2010 Trung Quốc nhập khẩu tới khoảng 300 triệu tấn dầu (60% nhu cầu
năng lượng). Bên cạnh đó, nền kinh tế của Trung Quốc cũng cần tìm kiếm thị
trường cho sản phẩm của mình cũng như xuất khẩu nguồn lao động dư thừa
trong nước ra bên ngoài. Như vậy, nền kinh tế đang đi vào giai đoạn công
nghiệp hóa và phát triển tới chóng mặt của Trung Quốc sẽ rất cần nguyên liệu
và thị trường nên quốc gia này sớm hay muộn cũng phải đối mặt với vấn đề
an ninh năng lượng.

24


×