Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Một số ý kiến hoàn thiện pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (84.45 KB, 8 trang )

Một số ý kiến hoàn thiện pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại Nhượng quyền thương mại là một hình thức kinh doanh phổ biến trên thế giới. Tại
Việt Nam, hình thức này ngày càng phát triển, với hơn 75 mạng lưới nhượng quyền
và hơn 120 doanh nghiệp hoạt động. Với tầm ảnh hưởng đó, pháp luật Việt Nam
hiện nay đã có nhiều văn bản quy định về nhượng quyền thương mại, tuy nhiên,
những văn bản đó đã phù hợp với đòi hỏi của thực tiễn hay chưa vẫn còn cần được
thảo luận. Đặc biệt, hợp đồng nhượng quyền thương mại vẫn còn là một vấn đề
pháp lí cần nghiên cứu kĩ. Vì vậy, trong bài tập lớn học kì, em đã chọn đề tài số 06
“Một số ý kiến hoàn thiện pháp luật về hợp đồng nhượng quyền thương mại”.
II. NỘI DUNG
1. Khái quát chung về hợp đồng nhượng quyền thương mại
1.1. Khái niệm hợp đồng nhượng quyền thương mại
Khái niệm nhượng quyền thương mại hay Franchise về bản chất là một phương
thức kinh doanh trong đó có thỏa thuận của hai bên (Bên nhượng quyền – Bên nhận
quyền) chuyển giao mô hình kinh doanh gắn liền với các đối tượng sở hữu trí tuệ
trên cơ sở hợp đồng nhượng quyền thương mại.
“Hợp đồng nhượng quyền thương mại là sự thỏa thuận của các bên trong quan hệ
nhượng quyền thương mại làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quyền và nghĩa vụ
của các bên trong hoạt động nhượng quyền, bao gồm nhưng không giới hạn các
thỏa thuận về sự chuyển giao các yếu tố của quyền sở hữu công nghiệp, sở hữu trí
tuệ từ bên nhượng quyền sang bên nhận quyền nhằm khai thác thu lợi nhuận; sự hỗ
trợ của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền trong suốt quá trình thực hiện
hợp đồng; nghĩa vụ tài chính cũng như các nghĩa vụ đối ứng khác của bên nhận
quyền đối với bên nhượng quyền”


1.2. Đặc điểm hợp đồng nhượng quyền thương mại
a. Chủ thể của hợp đồng nhượng quyền thương mại phải là thương nhân.
Trong quan hệ nhượng quyền thương mại tồn tại hai chủ thể, đó là bên nhượng
quyền và bên nhận quyền. Do nhượng quyền thương mại là hoạt động thương mại
đặc thù nên hầu hết các nước đều quy định chủ thể của quan hệ nhượng quyền phải
là thương nhân. Theo pháp luật Việt Nam, cụ thể trong Luật thương mại 2005 từ


Điều 286 đến Điều 289 quy định về quyền và nghĩa vụ, nhấn mạnh cụm từ “thương
nhân nhượng quyền” và “thương nhân nhận quyền”. Như vậy, dưới góc độ pháp
luật, bên nhượng quyền trong hợp đồng nhượng quyền thương mại là thương nhân
cấp quyền thương mại, bao gồm cả bên nhượng quyền thứ nhất và bên nhượng lại
quyền. Bên nhận quyền là thương nhân nhận quyền thương mại để khai thác, kinh
doanh, bao gồm cả bên nhận quyền thứ nhất (bên nhận quyền sơ cấp) và bên nhận
quyền thứ hai (bên nhận quyền thứ cấp).
Bên nhượng quyền là bên đã xây dựng được một thương hiệu mạnh, đã được kiểm
nghiệm trên thị trường. Ở Việt Nam, theo quy định của Luật thương mại 2005, bên
nhượng quyền chỉ được phép cấp quyền thương mại khai đáp ứng các điều kiện: hệ
thống kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền đã hoạt động ít nhất được 01 năm.
Nếu thương nhân Việt Nam là bên nhận quyền sơ cấp từ bên nhượng quyền nước
ngoài, thương nhân Việt Nam đó phải kinh doanh theo phương thức nhượng quyền
thương mại ít nhất 01 năm ở Việt Nam trước khi tiến hành cấp lại quyền thương
mại. Bên cạnh đó, thương nhân phải đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại
với cơ quan có thẩm quyền; đồng thời hàng hóa, dịch vụ kinh doanh phải thuộc đối
tượng được phép kinh doanh nhượng quyền thương mại.
Bên nhận quyền là bên sử dụng nhượng quyền thương mại của bên nhượng quyền
để kinh doanh và phải trả một khoản phí nhất định cho việc sử dụng quyền thương
mại này. Điều 6 Nghị định 35/2006/NĐ-CP quy định bên nhận quyền phải là thương


nhân và có đăng ký kinh doanh phù hợp với đối tượng của quyền thương mại được
chuyển nhượng theo hợp đồng nhượng quyền thương mại.
b. Đối tượng của hợp đồng nhượng quyền thương mại là “quyền thương mại”
“Quyền thương mại” được quy định theo hình thức liệt kê trong khoản 6 Điều 3
Nghị định số 35/2006/NĐ-CP. Với bản chất là việc chuyển giao cách thức tổ chức
kinh doanh do bên nhượng quyền quy định gắn với các yếu tố nhận biết thương
nhân cho bên nhận quyền, quyền thuwong mại trong hợp đồng nhượng quyền phải
được hiểu là một “gói quyền”, bao gồm các quyền đối với nhãn hiệu hàng hóa, tên

thương mại, bí quyết kinh doanh, logo và các đối tượng thuộc quyền sở hữu trí tuệ
khác.
c. Nội dung của hợp đồng nhượng quyền thương mại gắn với việc chuyển giao, khai
thác, sử dụng và bảo hộ quyền thương mại.
Pháp luật hiện hành đưa ra khung cơ bản về nội dung của hợp đồng, theo đó hợp
đồng nhượng quyền thương mại phải đáp ứng những nội dung cơ bản sau: nội dung
quyền thương mại; quyền và nghĩa vụ của bên nhượng quyền; quyền và nghĩa vụ
của bên nhận quyền; giá cả, phí nhượng quyền định kì và phương thức thanh toán;
thời hạn hiệu lực của hợp đồng; gia hạn, chấm dứt hợp đồng và giải quyết tranh
chấp .
Tuy nhiên, đặc trưng cơ bản trong nội dung của hợp đồng nhượng quyền thương
mại là các điều khoản trong hợp đồng đều gắn với việc chuyển giao, khai thác, sử
dụng và bảo hộ quyền thương mại, bao gồm:
- Sự chuyển giao quyền khai thác quyền thương mại từ bên nhượng quyền cho bên
nhận quyền


- Bên nhận quyền có quyền khai thác quyền thương mại để tiến hành cung ứng hàng
hóa, dịch vụ với điều kiện luôn bảo đảm tính đồng bộ của toàn bộ hệ thống nhượng
quyền
- Bên nhượng quyền có nghĩa vụ chuyển giao bí quyền kĩ thuật và trợ giúp kỹ thuật
cho bên nhận quyền trong suốt quá trình có hiệu lực của hợp đồng.
- Bên nhượng quyền có quyền kiểm soát việc kinh doanh của bên nhận quyền và có
nghĩa vụ trợ giúp kỹ thuật đối với bên nhận quyền trong suốt quá trình có hiệu lực
của hợp đồng
- Bên nhận quyền phải có nghĩa vụ tài chính đối với bên nhượng quyền.
d. Hợp đồng nhượng quyền thương mại phải được thể hiện dưới hình thức bảo đảm
rõ ràng nhất (hình thức văn bản)
Với tính chất phức tạp của hoạt động nhượng quyền thương mại, khả năng phát sinh
tranh chấp trong quá trình thực hiện hợp đồng rất lớn, vì vậy, những thỏa thuạn hợp

đồng nhượng quyền giữa các bên thể hiện bằng hợp đồng chính là căn cứ rõ ràng
nhất để việc thực hiện hợp đồng và giải quyết tranh chấp trở nên thuận lợi hơn. Luật
thương mại 2005 Quy định “Hợp đồng nhượng quyền thương mại phải được lập
thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lí tương đương”. Trong đó,
hình thức có giá trị pháp lí tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax,
thông điệp dự liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật.
2. Những hạn chế và đề xuất hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nhượng quyền
thương mại
Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật quy định về nhượng quyền thương mại đã
được ban hành, góp phần hoàn thiện cơ sở pháp luật điều chỉnh hoạt động này; đem
lại một hành lang pháp lí rõ ràng trong kinh doanh, đồng thời hạn chế rủi ro cho các


nhà đầu tư, đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế. Có thể kể đến những văn
bản pháp luật như: Luật thương mại 2005; Nghị định 35/2006/NĐ-CP hướng dẫn
Luật thương mại về hoạt động nhượng quyền thương mại; Nghị định 120/2011/NĐCP sửa đổi thủ tục hành chính tại Nghị định hướng dẫn Luật thương mạ; Thông tư
09/2006/TT-BTM hướng dẫn đăng ký hoạt động nhượng quyền thương mại; Quyết
định 106/2008/QĐ-BTC về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng lệ phí
đăng kí hoạt động nhượng quyền thương mại.
2.1. Cần nêu ra một khái niệm hoàn chỉnh về nhượng quyền thương mại
Hiện nay, khái niệm về nhượng quyền thương mại vẫn chưa được thống nhất, vì
vậy, chúng ta nên có một khái niệm hoàn chỉnh hơn về nhượng quyền thương mại,
thể hiện được bản chất của hoạt động thương mại này, trong đó: các bên trong quan
hệ độc lập với nhau về măt pháp lý, tài chính và kinh doanh; đối tượng của nhượng
quyền thương mại là một tập hợp tài sản thương mại vô hình thuộc quyền sở hữu
của bên nhượng quyền, được gọi là nhượng quyền thương mại và có sự đồng bộ,
thống nhất về mặt hình thức biểu hiện đối với cách thức tiến hành hoạt động thương
mại của hệ thống nhượng quyền thương mại.
Cần sửa khái niệm “quyền thương mại” theo hướng quan niệm đây là quyền tiến
hành kinh doanh trên cơ sở khai thác thương mại các đối tượng của quyền sở hữu

công nghiệp được bên nhượng quyền chuyển nhượng cho bên nhận quyền thay vì
cho rằng “quyền thương mại” là quyền kinh doanh tổng thể các đối tượng của
quyền sở hữu công nghiệp. Quy định như vậy sẽ phù hợp với bản chất của quyền sở
hữu trí tuệ, cụ thể là quyền sở hữu công nghiệp trong hoạt động nhượng quyền, bao
gồm nhãn hiệu hàng hóa, tên thương mại, kiểu dáng công nghiệp, bí quyết kinh
doanh…
2.2. Sửa đổi quy định về điều kiện trở thành chủ thể nhượng quyền thương mại theo
hướng đơn giản hơn


Theo quy định của pháp luật hiện hành thì một trong những điều kiện để trở thành
chủ thể nhượng quyền thương mại là bên nhượng quyền phải có thời gian hoạt động
là 01 năm. Tuy nhiên, thực tế quan hệ nhượng quyền thương mại cho thấy thời gian
hoạt động không đóng vai trò quan trọng trong việc quyết định sự thành bại của cơ
sở nhận quyền và hệ thống nhận quyền mà nó chỉ có tác dụng củng cố niềm tin và
sự an tâm cho bên dự kiến nhận quyền. Vì vậy, từ thực tiễn hiện nay cho thấy, quy
định này đang làm giảm khả năng mở rộng thị trường nhượng quyền thương mại tại
Việt Nam. Vì vậy, quy định về điều kiện trở thành chủ thể nhượng quyền thương
mại quy định tại Điều 5 Nghị định 35/2006/QĐ-CP không nên giới hạn thời gian
hoạt động của bên nhượng quyền mà cần sửa đổi theo hướng chỉ quy định các điều
kiện kinh tế, kĩ thuật, khả năng tài chính, số cơ sở nhượng quyê,f khả năng quản lí.
2.3. Hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp
đồng nhượng quyền thương mại
Cần quy định rõ về phạm vi, giới hạn thực hiện nghĩa vụ trợ giúp kĩ thuật của bên
nhượng quyền. Hiện nay, quy định tại khoản 3 Điều 286 Luật thương mại 2005
chưa nêu rõ phạm vi, giới hạn thực hiện nghĩa vụ trợ giúp kĩ thuật của bên nhượng
quyền. Trong khi đó, việc không quy định rõ giới hạn của quyền kiểm soát có thể
dẫn đến tình trạng bên nhượng quyền lợi dụng quyền này để kiểm tra, giám sát quá
mức, khiến bên nhận quyền bị hạn chế quyền tự do kinh doanh, bị phụ thuộc vào
bên nhượng quyền. Ngoài ra, bên hận quyền cũng có thể lợi dụng sự thiếu cụ thể

này để tránh khỏi sự kiểm soát của bên nhượng quyền. Mặt khác, quy định không rõ
ràng này còn khiến các bên khó khăn trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của họ
có vi phạm hay không và mức độ vi phạm như thế nào, khi muốn sử dụng căn cứ
này làm cơ sở đưa ra quyết định đơn phương chấm dứt hợp đồng. Do đó, pháp luật
cần quy định rõ loại trợ giúp kĩ thuật mà bên nhượng quyền phải hỗ trợ cho bên
nhận quyền và bổ sung quy định cấm lợi dụng hỗ trợ kĩ thuật để can thiệp quá mức
hoạt động kinh doanh.


Bên cạnh đó, cần chỉ rõ các lĩnh vực bên nhượng quyền được kiểm soát. Khoản 3
Điều 286 Luật thương mại 2006 quy định về quyền kiểm tra, giám sát của bên
nhượng quyền đối với bên nhận quyền. Tuy nhiên, điều luật chưa làm rõ về giới
hạn, phạm vi, cách thức thực hiện quyền kiểm tra, giám sát này của bên nhượng
quyền đối với bên nhận quyền. Do đó, pháp luật cần chỉ rõ các lĩnh vực bên nhượng
quyền được kiểm soát như với những hoạt động có ảnh hưởng trực tiếp tới tính
đồng bộ của hệ thống nhượng quyền hoặc các thỏa thuận mà 2 bên đã thống nhất
trong hợp đồng.
Ngoài ra, cần vạch rõ giới hạn cụ thể của việc thực hiện quyền của bân nhận quyền.
Điều 288 Luật thương mại 2005 mới chỉ dừng lại ở những quy định mang tính chất
định hướng về quyền của bên nhận quyền, không có những quy định cụ thể về giới
hạn hay cách thức thực hiện dẫn đến những khó khăn cho bên nhận quyền khi thực
hiện các quyền của mình trên thực tế.
2.4. Sửa đổi quy định về thủ tục đăng ký với cơ quan có thẩm quyền trước khi kí kết
hợp đồng nhượng quyền.
Thủ tục đăng ký đối với cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi kí kết hợp đồng
nhượng quyền đã được quy định tại Điều 291 Luật thương mại 2005 và mục 3 NĐ
35/2006/NĐ-CP để góp phần đảm bảo khả năng kiểm soát thị trường. Tuy nhiên,
thủ tục này làm cho hợp đồng nhượng quyền thương mại còn phải đi qua thêm 1
bước xét duyệt. Bên cạnh đó, quy định về thủ tục đăng kí này còn chưa hợp lí và
thống nhất dẫn đến sự thiếu minh bạch của pháp luật. Ngoài ra, quy định về thẩm

quyền đăng kí hoạt động nhượng quyền thương mại từ nước ngoài vào các khu chế
xuất, khu phi thuế quan, các khu hải quan riêng và ngược lại còn thiếu. Do vậy cần
có sự thống nhất giữa chủ thể có trách nhiệm đăng kí hoạt động nhượng quyền
thương mại và bổ sung… đồng thời đơn giản hơn thủ tục đăng kí này.
2.5. Hoàn thiện quy định về bản giới thiệu nhượng quyền thương mại


Hiện nay bản giới thiệu nhượng quyền thương mại đã phù hợp với pháp luật phần
lớn các nước, đăc biệt là tiếp thu tinh thuần luật mẫu về bản giới thiệu nhượng
quyền của Luật mẫu về thông tin nhượng quyền thương mại do Việc quốc tế thống
nhất luật tư ban hành Unidroit. Tuy nhiên để cơ chế sử dụng bản giới thiệu nhượng
quyền thương mại như một công cụ hiệu quả trong điều chỉnh hoạt động thương
mại, cần có sự thống nhất quy định về nghĩa vụ cung cấp bản giới thiệu nhượng
quyền trong các văn bản pháp luật và đây là nghĩa vụ bắt buộc của bên nhượng
quyền đồng thời nới rộng thời hạn cung cấp bản giới thiệu nhượng quyền để sự
chuẩn bị của bên nhượng quyền được kĩ lưỡng hơn.
III. KẾT LUẬN
Từ những phân tích trên đây, có thể thấy, hợp đồng nhượng quyền thương mại đã
được pháp luật Việt Nam quy định khá cụ thể và chi tiết; thể hiện sự quan tâm của
nhà nước đối với hình thức kinh doanh phổ biến này. Tuy nhiên, vẫn còn một số
những hạn chế cần sửa đổi để hình thức này phù hợp hơn với thực tiễn và phát triển
ngang tầm với pháp luật thế giới ./.




×