Tải bản đầy đủ (.docx) (62 trang)

Vai trò của phụ nữ mường ở quý hòa, lạc sơn, hòa bình với việc sản xuất và sử dụng y phục truyền thống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 62 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HOÁ HÀ NỘI KHOA
VĂN HOÁ DÂN TỘC THIỂU SỐ

KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN VĂN HOÁ
CHUYÊN NGÀNH VĂN HOÁ DÂN TỘC THIỂU

VAI TRÒ CỦA PHỤ NỮ MƯỜNG Ở QUÝ HÒA, LẠC SƠN, HÒA
BÌNH VỚI NGHỀ LÀM Y PHỤC
TRUYỀN THỐNG

Giảng viên hướng dẫn

PGS.TS TRẦN BÌNH BÙI

Sinh viên thực hiện Lớp

THỊ
VHDT

HÀ NỘI -

THANH

THỦY


LỜI CẢM ƠN
Đề tài “Vai trồ của phụ nữ Mường ở Quý Hòa, Lạc Sơn, Hòa Bình với việc xản xuất và sử dụng y phục truyền thống”
được hoàn thành với sự giúp đỡ tận tình, của PGS.Ts Trần Bình, chính quyền xã Quý Hòa, chú Bùi Văn Dát - Chủ tịch UBND
xã Quý Hòa; Bác Bùi Văn Chiến - Phó chủ tịch UBND xã Quý Hòa; Cô Bùi Thị Bư - Chủ tịch hội phụ nữ xã Quý Hòa; Chị
Bùi Thị Nhương - Phó chủ tịch hội phụ nữ xã Qúy Hòa; chị Bùi Thị Diễm - Chi hội trưởng chi hội phụ nữ xóm Cáo, xã Qúy


Hòa cùng toàn thể các Phòng, Ban thuộc UBND xã Qúy Hòa, gia đình chú Bùi Văn Thương xóm Khả 1, các cán bộ Thư viện
Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam, cô Bùi Thị Thủy - Phó phòng Văn hóa Huyện Lạc Sơn( Hòa Bình), nhân dân xã Quý Hòa
(Lạc sơn, Hòa Bình),... Nhân đây em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến tất cả!
Do khả năng có hạn, chăc chắn khóa luận sẽ không thể tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, em mong nhận được
những ý kiến đóng góp quý báu từ Thầy cô và những người quan tâm tới Khóa luận.
Em xin trân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 5 năm 2015.
Bùi Thị Thanh Thủy


1.1.


1.2.

Vai trò của phụ nữ Mường trong trang trí y phục

1.2.1.............................................................................................................

4

1.2.2...................................................................................................................


1.2.3.............................................................................................................. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
.................................................................................................................................68
1.2.4.............................................................................................................. PHỤ LỤC ẢNH

70



1.2.5. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.2.6. Sự biến đoi văn hóa luôn là vấn đề nóng và được nhiều nhà nghiên cứu
cũng như giới truyền thông quan tâm sâu sắc bởi biến đổi văn hóa không chỉ ảnh
hưởng đến cả một nền văn hóa đất nước mà còn tác động tới cả một nền kinh tế hiện
đại, đặc biệt là kinh tế du lịch. Quan trọng hơn, nó còn có một sự ảnh hưởng không
nhỏ tới cả một hệ thống con người về mặt nhân cách, ứng xử...

1.2.7. Trong đó, y phục dân tộc Mường là một thành tố văn hóa vật thể quan
trọng nhất. Không chỉ có chức năng bảo vệ, che đậy cơ thể con người về thể chất mà
y phục còn phản ánh một nền văn hóa, nếp sống tộc người, quan điểm thẩm mĩ của
tộc người và trình độ phát triển thủ công nghiệp của tộc người đó. Thông qua y phục
chúng ta còn có thể đoán biết được môi trường sinh sống của họ ở đồng bằng hay
miền núi, thậm chí có thể đoán biết được họ sinh sống xen kẽ với những tộc người
nào rồi nhận diện được tộc người này với tộc người khác. Chính vì vậy, y phục hay
trang phục là một trong những đối tượng nghiên cứu phổ biến của nhân học văn hóa.

1.2.8.

Bên cạnh đó, y phục Mường hiện nay ở xã Quý Hòa mặc dù vẫn còn

khá phổ biến nhưng đã thay đổi nhiều về hình thức, cách thức sử dụng và tác động lớn
nhất đến sự thay đổi này là sự biến đổi về vai trò

của phụ nữ

1.2.9. Mường đối với việc làm và sử dụng y phục.
1.2.10.


Chính vì những lí do trên chúng tôi lựa chọn: Vai trò của phụ

nữ Mường ở Quý Hòa, Lạc Sơn, Hòa Bình với nghề làm y phục truyền thống làm đề
tài Khóa luận Tốt nghiệp cử nhân ngành Văn hóa Dân tộc Thiểu số.

2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
1.2.11.Mục đích: Khẳng định vai trò của phụ nữ Mường ở Quý Hòa đối với
bải tồn văn hóa Mường truyền thống

1.2.12.

Nhiệm vụ:

1.2.13.Khái quát về người Mường ở Quý Hòa, văn hóa Mường ở Quý Hòa.
1.2.14.Tìm hiếu các đặc điếm y phục Mường truyền thống, và thay đoi của nó


hiện nay.

1.2.15.Tìm hiếu vai trò của phụ nữ Mường ở Quý Hòa đối với việc sáng tạo
và sử dụng y phục truyền thồng.

1.2.16.Tìm kiếm một số giải pháp bước đầu, với mong muốn góp phần bảo
tồn y phục truyền thống Mường ở xã Quý Hòa.

3. Lịch sử nghiên cứu
1.2.17.Trang phục của người Mường đã được rất nhiều nhà nghiên cứu nổi
tiếng đề cập đến trong các công trình của mình như Người Mường - Địa lí nhân văn
và xã hội của Jean Cusinier (1996), Góp phần nghiên cứu văn hóa tộc người của
Nguyễn Từ Chi (1995), Người Mường ở Hòa Bình của Trần Từ (1996), Người

Mường ở Việt Nam của Vũ Tuyết Mai và Bùi Đức Tân (1999), Tang lễ của người
Mường ở Hòa Bình của Nguyễn Thị Song Hà (2009)...Tuy nhiên những tác phẩm này
mới chỉ đề cập đến các khía cạnh khác nhau của trang phục Mường mà chưa nêu được
rõ nhất vai trò của phụ nữ trong làm trang phục cũng như sử dụng và bảo tồn trang
phục truyền thống của dân tộc.

1.2.18.

Bên cạnh đó, tôi còn muốn thế hiên rõ hơn sự biến đổi vai trò của

phụ nữ làm ảnh hưởng đến việc bảo tồn trang phục dân tộc như thế nào đế từ đó có
phương

pháp giải quyết hoặc hạn chế sự mai một văn hóa trang phục

1.2.19.Mường ở xã Quý Hòa.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
1.2.20.Đối tượng nghiên cứu : Vai trò của phụ nữ Mường trong việc làm y
phục truyền thống. Trong đó, trọng tâm nghiên cứu là y phục phụ nữ.

1.2.21.Phạm vi thời gian: Truyền thống từ năm 1990 trở về trước và hiện tại
là đầu năm 2015.

1.2.22.Phạm vi không gian : Xã Quý Hòa, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình.
Trong đó tập chung nghiên cứu chủ yếu ở Xóm Khả 1, Xóm Cốc, Xóm Cáo và xóm
Thung 1, Thung 2 là những thôn điển hình về dệt tho cẩm và có nhiều nghệ nhân giỏi


dệt may trang phục truyền thống.


5. Phương pháp nghiên cứu
1.2.23.Trong quá trình hoàn thành khóa luận, phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, sẽ được tuyệt đối tuân thủ. Đó là sự
nhìn nhận y phục Mường ở Quý Hào và vai trò của phụ nữ Mường ở đây đối với việc
sản xuất và sử dụng y phục truyền thống, trong sự tương tác tất yếu của của các yếu
tố: tộc người (phong tục tập quán); đặc điếm môi trường cư trú, giao tiếp văn hóa;...
cũng như các chương trình kinh tế - xã hội khác, muốn bảo tồn y phục truyền thống
Mường ở Quý Hòa buộc phải thỏa mãn các mối quan hệ trên.

-

Nghiên cứu thực địa là phương pháp tiếp cận chủ đạo của bài khóa luận này. Các kỹ
thuật chủ yếu bao gồm: Tham dự, quan sát, phỏng vấn, hỏi chuyện, ghi chép,... được
sử dụng trong quá trình điều tra, nghiên cứu thu thập tư liệu ở các xóm Mường Quý
Hòa. Đế thu thập tư liệu, tác giả đã nghiên cứu thực địa ở Quý Hòa nhiều đợt. Trong
thời gian trên, tôi gặp gỡ các vị lãnh đạo, cán bộ các ban ngành, các cụ bà người cao
tuoi, các cán bộ chi hội phụ nữ, các thợ dệt may giỏi và phụ nữ ở Quý Hòa, cũng như
huyện Lạc Sơn,. Kết quả thu được từ các đợt nghiên cứu thực địa là nguồn tư liệu
chính, đế xem xét nghiên cứu, thực hiện khóa luận này.

-

Đế bổ sung tư liệu, nghiên cứu tài liệu thứ cấp, trong các tài liệu đã công bố, cũng
được chú trọng thực hiện. Đó là những công trình nghiên cứu về trang phục, y phục,
tổ chức xã hội, ma chay, cưới xin, tín ngưỡng, thờ cúng, cách thức tổ chức sản xuất, tổ
chức cộng đồng,... của người Mường và Quý Hòa nói riêng và ở Lạc Sơn nói chung;
Những tài liệu liên quan đến tình hình phát triển kinh tế - xã hội, hoạt động của các
chi hội phụ nữ ở địa phương;...

1.2.24.


- Đe xử lý, phân tích các dữ liệu, phương pháp thống kê, so

sánh,... đã được sử dụng trong quá trình thực hiện trong báo cáo này.

6. Đóng góp của Khóa luận
1.2.25.

Khóa luận sẽ góp phần bo sung tài liệu về trang phục Mường


truyền thống, và vai trò của phụ nữ Mường trong dệt may trang phục truyền thống, ở
Quý Hòa nói riêng và cuả người Mường ở Hòa Bình nói chung.

1.2.26.

Kết quả nghiên cứu sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích đối với các

cơ quan, cá nhân đang thực hiện công tác bảo tồn trang phục, văn hóa truyền thống
Mường ở Quý Hóa, Lạc Sơn và ở Hòa Bình.

7. Nội dung và bố cục của Khóa luận
1.2.27.

Ngoài phần Mở Đầu, Kết Luận và Phụ lục ảnh. Khóa luận

được trình bày trong 3 chương chính:

1.2.28.


Chương 1: Khái quát về người Mường ở Quý Hòa.

1.2.29.

Chương 2: Phụ nữ Mường ở Quý Hòa với việc sản xuất và sử

dụng y phục trong xã hội truyền thống.

1.2.30.

Chương 3: Phụ nữ Mường ở Quý Hòa với sản xuất và sử dụng

y phục dân tộc hiện nay ở Quý Hòa


1.2.31.
1.2.32.
1.2.33.
1.2.34.CHƯƠNG 1.
1.2.35. KHÁI QUÁT VỀ NGƯỜI MƯỜNG Ở QUÝ HÒA, LẠC SƠN, HÒA
BÌNH

.

Đặc điểm địa bàn cư trú.

1.2.36.Xã Quý Hòa được thành lập vào năm 1956, là xã đặc biệt khó khăn (xã 135 giai đoạn II theo Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ). Xã Quý Hòa nằm ở phía Bắc của huyện Lạc Sơn, là xã vùng cao của Huyện, cách trung tâm huyện 20
km.
về vị trí địa lý


1.2.37.Phía Đông của xã tiếp giáp với xã Cuối Hạ của huyện Kim Bôi, xã Mỹ Thành, xã Văn Nghĩa của huyện Lạc
Sơn;

1.2.38.Phía Tây tiếp giáp xã Thượng Tiến của huyện Kim Bôi, và xã Miền Đồi của huyện Lạc Sơn;
1.2.39.Phía Bắc giáp xã Kim Tiến của huyện Kim Bôi;
1.2.40.Phía Nam giáp xã Tuân Đạo huyện Lạc Sơn.
Khí hậu

1.2.41.Xã Quý Hòa cũng như các xã khác trong toàn huyện nằm ở đới khí hậu nhiệt đới gió mùa, chính vì vậy có phân
thành mùa mưa và mùa khô rõ rệt. Mùa mưa lượng mưa trung bình hàng năm là 1.900 mm, nhiệt độ bình quân tháng từ 23 250c, ngày nóng lên đến 36-400c, mùa đông ngày rét xuống đến dưới 100c. Độ ẩm không khí trung bình 84%, cao nhất 100%,
thấp nhất 24%. Chế độ gió, hướng gió thịnh hành theo hai hướng Đông Nam và Đông Bắc. Số giờ nắng trung bình mùa hè 67giờ/ngày, mùa đông 3- 4giờ/ngày.
về thổ nhưỡng

1.2.42.

Quý Hòa có nhiều loại đất, phù hợp với nhiều loại cây trồng, trong đó chủ yếu là đất đỏ vàng phát trien trên

đá phiến thạch sét, loại đất này phân bố chủ yếu ở vùng
trồng

rừng

đồi,

phù hợp với

và đất

1.2.43.trồng lúa, bao gồm đất đồng ruộng, đất ven suối, đất thung lũng, đất đồi núi.

Tài nguyên nước

cây

ăn quả, cây

công

nghiệp,


1.2.44.

Xã Quý Hòa hiện nay sử dụng nguồn nước chính từ hồ trữ nước ( Hồ Khả ) thuộc địa phận của xã,

hồ trữ nước này có diện tích rất lớn khoảng 30 nghìn mét vuông, điểm

sâu nhất

tới

gần

20m. Nguồn

nước

này chịu trách

1.2.45.nhiệm cho toàn bộ dân số trong khu vực xã sinh hoạt và sử dụng làm nguồn tới tiêu cho các loại cây lương thực, hoa

màu hay chăn nuôi.

1.2.46.Ngoài ra do địa hình chia cắt, gồ ghề nên xã Quý Hoà còn có hệ thống suối nhỏ cũng góp phần vào nguồn cung
cấp nước sinh hoạt, nước tưới cho phát triển nông nghiệp.
Hạ tầng giao thông

1.2.47.Nhìn chung giao thông trên địa bàn xã Quý Hòa đã được quy hoạch cụ thể và thuận tiện, đã có đường đo bê
tông từ trung tâm xã đến các thôn, làng. Tuy nhiên, còn rất nhiều các con đường liên thôn hoặc đường nằm trên các thôn vùng
cao hơn gần như còn rất khó khăn, nhiều đá mấp mô lởm chởm, đường lại dốc và trơn trượt vào ngày mưa nên gây nhiều nguy
hiểm cho người qua lại, cũng gây khó khăn trong việc giao lưu, trao đổi buôn bán.

1.2.48.
Thêu là

Đặc biệt đoạn đường dẫn lên thôn Thung 1 và Thung 2 dài 8km, hay thôn Rọi 1,

đoạn đường

có độ

dốc

lớn, nhiều

Rọi

2




Xóm

đá, vô

1.2.49.cùng khó khăn khi di chuyển. Có lẽ cũng vì sự khó khăn về mặt giao thông mà văn hóa Mường ở các thôn Thung 1 và
Thung 2 còn rất đậm nét, nơi đây giống như một thế giới Mường cổ xưa độc lập vậy.

.

Nguồn gốc, tên gọi tộc người

1.2.50.

Tài liệu

về

ngôn ngữ

học, nhân chủng

học, dân

tộc

học,

khảo

cổ


1.2.51.học... chứng minh rằng người Mường ở Việt Nam có nguồn gốc là người
1.2.52.Việt cố, hay nói cách khác người Mường và người Việt hiện nay có cùng nguồn gốc.
1.2.53. Các nhà ngôn ngữ học xếp người Mường vào nhóm các dân tộc có tiếng nói thuộc ngôn ngữ Việt - Mường
(Việt, Mường, Thố và Chứt). Tộc danh Mường
vậy,

một

nay đã

được sử

dụng phố

biến vàrộng

rãi.

Tuy

số

1.2.54.nhóm địa phương còn có tên tự gọi là: Mon, Moi và Ao Tá. Cùng với người Việt (Kinh), cộng đồng người Mường thuộc
khối cư dân Lạc - Việt cố, có mặt sớm nhất ở Việt Nam. Trong quá trình phát triển, do những điều kiện lịch sử nhất định, vào
khoảng thế kỷ IX- X, cộng đồng Việt - Mường cố đã tách ra thành hai tộc người riêng biệt như ngày nay. Trong khi tộc người
Việt cư trú tập trung ở đồng bằng châu thố và vùng duyên hải ven biển, thì cộng đồng người Mường cư trú tập trung ở vùng
núi Hòa Bình, Thanh Hóa, Phú Thọ và một số khu vực miền núi, trung du khác.



1.2.55.Người Mường tự nhận là Mol, Mual, Mon, Muan, Mó...có nghĩa là “người”. Ngày nay, Mường là tên gọi chính
thức được Nhà nước công nhận, và sử dụng trong các văn bản hành chính. Hiện nay, Hòa Bình với bốn mường cố: Bi, Vang,
Thành, Động,... vẫn được coi là cái nôi gìn giữ văn hóa truyền thống của dân tộc Mường.

.

Đặc điểm mưu sinh, xã hội truyền thống

1.2.56.Xã Quý Hoà có 1.300 hộ với 6.015 nhân khẩu. Trong đó, người Mường chiếm 99,8%. Toàn xã có 17 xóm, được
phân chia thành hai vùng khác nhau, có 8 xóm ở vùng cao và 9 xóm ở vùng thấp hơn. Cao nhất là hai xóm Đồi Thung 1 và Đồi
Thung 2, có độ cao 1.070m so với mực nước biển, cách trung tâm xã 9km về phía Bắc.

1.2.57.•

Đặc điểm mưu sinh

1.2.58.Trong hoạt động kinh tế, từ bao đời nay người Mường sống dựa chủ yếu vào sản xuất nông nghiệp, khai thác
ruộng nương để trồng trọt và chăn nuôi. Sống ở khu vực miền núi, họ đã biết khai thác tự nhiên để có đất canh

1.2.59.

tác, tận

dụng

những

khu đất




bề mặt tương

đối

bằng

phang trong thung

1.2.60.lũng và ở khắp mọi nơi để làm ruộng. Với kinh nghiệm làm thủy lợi được tích lũy từ thế hệ này sang thế hệ khác, dựa
vào những nguồn nước ven sông và suối, họ đã thiết lập hệ thống mương, phai, xe nước, ống dẫn nước tự tạo chạy ngang dọc
trên các cánh đồng, nhằm đưa nước đến các chân ruộng cao, phục vụ cho việc trồng lúa nước.

1.2.61.Hiện nay người Mường ở Quý Hòa trồng lúa là loại cây nông nghiệp chính, bên cạnh đó thì ngô và sắn là hai
loại cây trồng chiếm vị trí thứ hai trong đời sống kinh tế người Mường. Ngoài ra thì còn có các loại cây trồng như Vừng, lạc,
đậu, dưa chuột và các loại cây rau ăn thường ngày...Có hai loại cây ăn quả rất phố biến trong mỗi gia đình người Mường đó là
Cau và Bưởi, có thể có thêm Na, Mít. nhưng số lượng ít, chỉ nhằm phục vụ nhu cầu của gia đình. Ở một số khu vực như thôn
Thung một, Thung hai ... các hộ dân còn trồng và buôn bán măng đắng, măng bương - loại hình kinh tế này dần dần trở thành
nguồn thu nhập lớn nhất trong các nghề của họ.

1.2.62.Bên cạnh trồng trọt, chăn nuôi cũng là một nguồn thu nhập đáng kể. Ngoài các con vật nuôi truyền thống như
trâu, bò, gà, lợn thì ngày nay nhiều hộ gia đình người Mường đã nuôi dê, bò lai, bò sữa, ong. Họ biết tận dụng cây cỏ tự nhiên
để kết hợp cả hình thức nuôi thả rông lẫn nuôi nhốt trong chuồng trại.

1.2.63.Ngoài sản xuất nông nghiệp, người Mường hiện nay còn có hàng loạt các nghề khác cũng chiếm một vị trí kinh
tế nhất định trong mỗi gia đình. Đó là các nghề thủ công như dệt thố cam, đan lát, bốc thuốc Nam, hay buôn bán các loại hàng
hóa như bánh kẹo, các đồ dùng sinh hoạt.

1.2.64.•


Đặc điểm xã hội

1.2.65. Người Mường từ xưa sinh sống trong một lãnh địa riêng, ranh giới mang tính ước lệ được đánh dấu bằng các


gốc cây, tảng đá, con sông, con suối. ranh

giới ấy

không

chỉ

để phân chia

giữa

khu

vực

sinh

sốngcủa người Mường với các dân tộc khác mà còn phân chia giữa các Bản Mường với nhau.

1.2.66.về to chức xã hội người Mường truyền thống ở Quý Hòa nói riêng, cũng như nhiều nơi ở Hòa Bình nói chung,
thiết chế xã hội tự quản, có nguồn gốc sinh sống từ lâu đời theo chế độ Hương quản, tương đương với chức vụ trưởng thôn như
trong làng, bản bây giờ, thực hiện việc quán xuyến, quản lý mọi việc trong thôn về kinh tế, trật tự xã hội, văn hóa... chính chế
độ Hương quản ấy là “chất keo dính” ràng buộc tất cả các gia đình, các cá nhân từng người có những mối quan hệ nhất định
với nhau, tạo nên sự cố kết cộng đồng vô cùng chặt chẽ nếu không muốn nói rằng đôi khi trở nên bảo thủ.


1.2.67.Nhân tố để tạo nên “chất keo dính” cộng đồng ấy không chỉ có chế độ Hương quản là được, bởi còn một yếu tố
quan trọng không kém là mối quan hệ huyết thống gia đình, dòng họ. Người Mường theo chế độ phụ hệ, mỗi gia đình, dòng họ
đều có một người đàn ông lớn tuoi, có vai vế nhất đứng đầu và quyết định mọi vấn đề quan trọng của gia tộc. Mỗi gia tộc cũng
đều có những gia quy riêng mà mọi thành viên đều phải tuân thủ nghiêm ngặt. Chính vì thế, trong các làng bản, các thôn xóm
của người Mường luôn luôn có sự kết nối vô cùng chặt chẽ giữa lớp này chồng lên lớp khác, tỉ lệ cơ bản cho sự kết nối chung
này vào khoảng 3 trong 1. Sự kết nối thứ ba ở đây là dựa trên quan hệ hợp tác trong các to chức hoạt động về phát triển kinh tế,
xóa đói giảm nghèo, các Chi hội phụ nữ trong các thôn, Hội phụ nữ Xã Quý Hòa.hiện nay.

1.2.68.Hiện nay ranh giới, địa phận các thôn, làng, xã đều được phân chia theo địa giới hành chính, lấy số lượng dân số
và diện tích đất đai làm căn cứ phân chia.

.

Đặc điểm văn hóa

.1.

Văn hóa vật chất

1.2.69.• Nhà ở
1.2.70.

Cách nay nhiều năm về trước, người Mường ở Quý Hòa đều ở nhà sàn. Nhà của họ đều được làm bằng gỗ,

tre, nứa, lợp bằng cỏ tranh hay lá cọ. Ngôi nhà co xưa thường chôn cột xuống đất, nay chân cột đều kê tảng. Thiết kế theo kiểu
vì kèo, liên kết chủ yếu là buộc, gá hoặc dùng ngoẵm; có một hoặc ba gian chính, hai chái, hai mái chính hình thang cân và
phang, hai mái đầu hồi nhỏ và thấp. Những ngôi nhà cổ của họ thường nhỏ và thấp, vách làm bằng
chảy xuốnggần hết cửa


so.

Cửa

phên

nứa,

mái

so thường được

1.2.71.thiết kế ở đầu hồi và vách phía sau. Đối với người Mường ở Quý Hòa, cửa sổ ở gian thờ tổ tiên (voóng tông) rất linh
thiêng, thường ngày họ kiêng đưa đồ vật và ngồi dựa vào cửa sổ này. Tại hai đầu hồi người ta đặt hai cầu thang lên, xuống, có
số bậc lẻ, bằng gỗ hoặc tre. Cầu thang phía gian ngoài (voóng tôông) dành cho nam giới, cầu thang phía gian trong (voóng

khựa) dành cho nữ giới. Cách bố trí nơi ăn ở trong nhà của họ tương đối thống nhất. Nửa sàn phía trên (giáp voóng tôông)


thường dùng để làm nơi ngủ, nghỉ, nửa phía dưới đặt bếp, là nơi sinh hoạt của gia đình. Nếu tính theo chiều ngang sàn nhà,
phần bên ngoài (voóng tôông) dành cho nam giới, phần bên trong (voóng khựa) là khu vực của phụ nữ. Bên ngoài, liền với
phần dành cho phụ nữ là sàn phơi và để nước ăn.

1.2.72.Xưa kia gầm sàn nhà người Mường ở Quý Hòa thường được dàng phần lớn làm nơi nhốt trâu, bò, lợn và các
loại gia cầm khác. Phần còn lại là nơi đặt các loại cối giã, để nông cụ, và các đồ dùng khác. Xung quanh khuôn viên cư trú của
họ thường bao bọc bằng hàng rào tre, nứa hoặc các loại cây gai (dứa, xương rồng, găng,... ), có cổng ra vào. Trong khuôn viên
cư trú của người Mường ở Quý Hòa, ngoài nhà ở thường là vườn trồng các loại cây ăn quả lưu niên, chè, mía, và các loại rau,
đậu khác.

1.2.73. Ngày nay, làng xóm và nhà ở của người Mường ở Quý Hòa đã thay đổi rất nhiều.

đình

người

Mường

ở Quý Hòa ở

Đa

số

các gia

gần đường giao thông chính, các thị trấn, thị xã, đều

đã ở trong các ngôi nhà xây lợp ngói, hoặc mái bê tông. To hợp kiến trúc nhà ở của họ có nhiều thay đoi. Nhà ở, nhà bếp và
chuồng trại gia súc dược thiết kế, xây dựng thành khu riêng biệt. Khuôn viên cư trú đều được thu hẹp lại, đa số được xây hàng
rào bao quanh. Cổng ra vào được xây dựng chắc chắn, có cánh để khóa. Làng xóm của họ cũng được bố trí, quy hoạch lại theo
kiểu nông thôn mới, đường đi trong làng, xóm phần lớn đã dược làm bằng bê tông, lát đá hoặc gạch.

1.2.74.Tôi cảm thấy vui mừng khi nhìn thấy có tới hơn 70% số ngôi nhà ở xã mang tổng thể vẫn là dạng nhà sàn
truyền thống. Trong đó một số chi tiết có thay đoi theo chiều hướng tích cực hơn để thích nghi với sự biến đoi của môi trường
tự nhiên cũng như môi trường xã hội như dùng sơn để làm đẹp hơn cho ngôi nhà; nhiều gia đình thường tận dụng luôn không
gian gầm sàn để dựng thêm phòng bếp, phòng ngủ; hay một số gia đình đã chuyển đổi từ dạng thức nhà sàn gỗ sang nhà sàn bê
tông cốt thép bởi phải phụ thuộc vào điều kiện kinh tế và các chính sách hạn chế khai thác rừng hiện nay.

1.2.75.•

Y phục, trang sức


1.2.76.

Y phục và trang sức của người Mường ở Quý Hòa cũng có nhiều nét độc đáo. Nữ phục

thường bảo lưu được nhiều nét truyền thống của dân tộc hơn y phục nam giới. Một bộ y phục cổ truyền của phụ nữ Mường
thường bao gồm: khăn đội đầu (mu), áo cánh (ạo pắn), áo dài (ạo chụng), khăn thắt áo (đẹt
váy (kloốc),

thắt lưng

(tênh).

Vào

ạo),

yếm (yệm/áo báng),

những

1.2.77.ngày hội, ngày lễ, ngày tết phụ nữ Mường mặc áo chùng (ạo chụng). Ngày cưới cô dâu Mường thường mặc áo chùng
màu xanh, phù dâu mặc áo dài màu trắng. Tất cả đều đội khăn trắng, đeo xà tích, vòng và nhẫn bằng bạc.

1.2.78.

Bộ tang phục (đo tem) của phụ nữ Mường bao gồm: mũ mấn (như chiếc phễu úp), áo cánh ngắn (ạo pắn)

màu trắng, váy không cạp, thắt lưng trắng bằng vải


mộc.

Tất cả

đều

may theo

kiểu

lộn

trái,

sổ gấu.


Tang phục

1.2.79.của các nàng dâu trong đám tang bố mẹ chồng thường là váy đen mới, bên trong là áo pắn, áo báng, ngoài vận thêm áo
gấm màu đỏ, có đính nhiều hạt cườm (tem quạt ma), cài khuy nách phải. Người Mường ở Quý Hòa có câu ví: Diện như nàng
dâu đi quạt (quạt ma là nghi thức trong tám tang do các nàng dâu thực hiện). Bố mẹ đẻ còn sống, nàng dâu mang tang phục
như trên, trừ áo pắn màu trắng; nếu bố mẹ đẻ đã qua đời thì mặc đồ tem như bình thường.

1.2.80.Xét về nhiều mặt, cũng như đánh giá của nhiều nhà nghiên cứu văn hóa thì chiếc váy của phụ nữ Mường thực
sự đóng vai trò trung tâm của hệ thống trang phục dân tộc. Nó phủ không chỉ từ thắt lung trở xuống mà còn che cả phần ngực.
Hơn thế nữa trên phần cạp váy che ngực là nơi duy nhất phụ nữ Mường dụng công trang trí, là một mảng quan trọng còn lại
của nghệ thuật tạo hình co truyền dân tộc.

1.2.81.Y phục truyền thống của nam giới người Mường ở Quý Hòa chủ yếu gồm áo cánh và quần, gần giống y phục

truyền thống của nam giới người Việt. Áo cánh nam giới Mường may bằng vải mộc trắng, theo kiểu áo bà ba, bốn thân, hai
thân sau ghép lại với nhau thành sống ở giữa lưng, co đứng tròn cao khoảng 1,5cm, thân dài trùm mông, hai vai có miếng vải
đệm hình bán nguyệt (lá môn). Phía dưới hai thân trước có túi, ở ngực phía thân trái may một túi, tay áo dài. Quần truyền
thống của nam giới Mường may bằng vải mộc trắng, hoặc nhuộm nâu, chàm. Đũng và ống quần rộng, không may cạp, khi mặc
người ta thắt dây lưng (tênh) bên ngoài. Gần đây, loại quần này được may cạp to và luồn dây rút để thắt cho chặt khi vận. Cổ
xưa, nam giới người Mường ở Quý Hòa thường để tóc dài, búi tó và quấn khăn ba trồng trên đầu. Cũng có người quấn khăn
kiểu búi tó củ hành (đầu rìu) như người Việt xưa kia. Tang phục của nam giới Mường gồm quần, áo chùng, khăn vải mộc
trắng, lộn sống và sổ gấu. Con trai cả của người quá cố khi chịu tang bố mẹ phải đeo thêm một con dao.

1.2.82.

Trong truyềnthống,

phụ nữ cũng như

đàn

ông

Mườngở Quý Hòa

1.2.83.không đi giầy, dép mà đi chân đất. Bởi vốn họ cũng không thể tự tạo ra được giày dép cho mình, vậy nên họ luôn có
nước ở trên sân sàn sau nhà để làm sạch chân trước khi bước vào không gian trong nhà.

1.2.84.

Đối với trẻ em, người Mường cho rằng trẻ sơ sinh sẽ ốm đau nếu như chúng được mặc quần áo, vì

vậy người ta sẽ không mặc quần áo cho nó cho tới sáu, bảy tuổi. Quátuổi đó,
ta


và cho tới

lúc

lớn

lên,

người

mặc cho trẻ

1.2.85.con là gái một chiếc váy theo tầm vóc của nó, giống hệt chiếc váy của những người đàn bà và một chiếc áo ngắn cho
trẻ con trai.

1.2.86.Trong các gia đình giàu có, người ta bắt đầu cho trẻ sơ sinh ăn mặc chút ít, và người ta mua cho nó đồ tã lót,
không bao giờ tìm chọn những thứ che phần dưới thân thể đứa bé.


1.2.87.Ở nhà nghèo hơn, người ta không nghĩ đến việc sẽ bỏ tiền ra may quần áo cho đứa trẻ mà sẽ dùng tiền đó để
mua cho nó một cái vòng bạc hoặc vòng đồng.

1.2.88.Đối với trẻ con là nam, khi chúng mặc chiếc quần đầu tiên, thông thường có nghĩa là từ bỏ không đeo vòng cổ
nữa.

1.2.89.•

Trang phục ngày cưới


1.2.90.Trang phục trong ngày cưới của cô dâu là một bộ trang phục mới và đẹp nhất, do chính tay cô dâu làm ra. Trên
đầu cô dâu chùm một chiếc khăn vuông trắng khổ 30 x 30 cm, được buộc thắt nút sau gáy. Váy mặc dài chấm mắt cá chân, thắt
lưng lụa màu xanh lá cây. Cạp váy ( tlôốk wặl; Cại wặl ) được dệt công phu hình rồng, hoa sen, nổi bật những màu sắc tươi
sáng.

1.2.91.
Cả

1.2.92.

còn gọi

Trang phục của chú rể Mường thường là áo chùng trắng mặc trong, áo chùng đen
hai áo
là đóng đôi.

đều dài quá đầu
Các phù

mặc

ngoài,

gối - kiểu “mớ hai” hay

rể mặc quầnlụa



tằm,


đầu

đội nón lá

dứa,

1.2.93.chân đi giầy Gia Định.
1.2.94.Ngày nay hầu như không còn kiểu trang phục này, chàng rể và các chàng trai Mường đều mặc quần âu, áo trắng
và áo com lê giống như người Kinh.

1.2.95.•

Trang phục trong đám tang ( đám Hiếu)

1.2.96.Tang phục của người Mường gọi chung là đồ tem. Toàn bộ thân nhân của người quá cố đều phải mặc đồ tang.
1.2.97.Với phụ nữ: váy không có cạp hoa, áo cánh, áo chùng, khăn, thắt lưng, tất cả những thứ đó đều bằng vải bông tự
dệt, màu trắng, may kiểu lộn trái ra ngoài. Việc mặc đồ tang của người Mường còn tùy thuộc vào hoàn cảnh từng gia đình,
từng gia tộc. Nếu con dâu mà bố mẹ đẻ của mình còn sống thì chỉ mặc váy, tênh và khăn trắng để tang bố mẹ chồng. Nếu một
trong hai bố mẹ đẻ đã mất thì mặc thêm áo cánh trắng, còn đã mất cả thì mặc đủ tang phục như đã nêu trên.

1.2.98.Trong tang lễ Mường có người phải đóng vai trò quạt ma, những người này có trang phục riêng trong khi thầy
mo làm lễ mời mời cơm, mời bánh cho hồn người quá cố. Người được chọn mặc đồ tang quạt ma thường là em dâu, con dâu,
cháu dâu thuộc bên nội hay bên ngoại. Bộ tang phục này thường rất đẹp, lộng lẫy. Váy đen có cạp hoa đẹp, yếm đỏ, áo cánh
mới, áo chùng trắng bên ngoài, khoác thêm áo thụng may bằng vải màu đỏ, cài kuy cúc ở bên trái. Trên tay đeo nhiều vòng,
nhẫn đẹp, tay phải cầm quạt múa, tay trái cầm một cành cây vót tròn, trên treo chiếc kéo và mảnh lá hình bàn tay gọi là “bàn
tay ma”.

1.2.99.


Người quạt ma đội khăn bên trong và mũ ở bên ngoài, các góc mũ có treo những dây tua rủ

thấp,


trên

1.2.100. cườm... bộ
1.2.101.

đó

treo

những mảnh vải nhiều màu, hạt

tang phụcnày đẹp tới mức



phương ngôn Mườngcó câu

“Diện như nàng dâu đi quạt”. Đây cũng là hình ảnh tương phản với bộ tang phục bình thường toàn màu trắng,

không trang trí và lộn trái ra ngoài.

1.2.102.

Tang phục của nam giới, Gồm: Quần, áo cánh ngắn, áo chùng, khăn bịt đầu, được làm bằng vải bông màu


trắng, may kiểu lộn trái ra ngoài để mặc. Các con ttrai của người quá cố phải mặc đầy đủ bộ tang phục, riêng con trai cả thì
phải đeo thêm vỏ dao. Những người khác chỉ phải mặc một vài bộ
trai

chỉ

phận

như

em trai, con

rể,

cháu

phải mặc quần và chit khăn tang. Những người họ hàng thân thích tới dự cũng được phát khăn tang để đội.

1.2.103.

Sau đám tang, thường thì người Mường sẽ không giữ lại bộ tang phục để dự các đám tang sau này, mà

thay vào đó họ đợi sau một trăm ngày rồi đem quần áo trắng đi nhuộm đen để có thể sử dụng làm trang phục khác, trừ có cái
Yếm của phụ nữ. Tuy nhiên ở Quý Hòa cũng có nhiều trường hợp phụ nữ sau khi dự tang lễ vẫn giữ lại váy tang để dùng cho
các lần sau để tiết kiệm vải và tiện sử dụng.

1.2.104.

Ngoài số vải làm đồ tang, còn dùng khâm liệm cho người chết. Người Mường có tục quấn rất nhiều lớp


vải cho người chết. Khi bố mẹ qua đời, mỗi người con phải có 6 mét vải để bọc ngoài quan tài, lượt vải ngoài cùng là của
người con út, dùng vải bọc như vậy còn gọi là áo quan tài (áo tròn). Tất cả số vải được dùng làm áo quan tài đó hầu hết đều là
của các con gái, con dâu tự dệt. Số vải này gần như đã được họ chuẩn bị từ trước để dành cho bất những trường hợp tang ma
có thể xảy ra.

1.2.105.

Trong đám tang, thầy mo giữ vai trò rất quan trọng và có trang phục riêng. Thầy mo mặc áo chùng xanh,

may kiểu cài cúc bên nách phải, gấu áo phủ gót, gấu đáp thêm vải đỏ phía trong, tay rộng, áo may rộng, không xẻ tà, đội mũ
xanh hình chóp. Còn có loại mũ khung cứng, phía trước và sau trang trí hình hai nửa vòng tròn khép lại. Tay trái cầm quạt lông
hay quạt giấy vẽ hình rồng, tay phải cầm chuông nhỏ, lắc điểm nhịp cho bài mo đưa hồn. Khi đưa ma, thầy mo đi trước tay
cầm kiếm, dẫn hồn người quá cố đi tới huyệt, chỉ cho hồn ở đó, rồi cởi tang phục, quay về bản theo con đường khác.

1.2.106.



1.2.107.

Người Mường ở Quý Hòa xưa, nay vẫn tự hào về am thực của họ. Các loại đồ ăn truyền thống chế biến

Ẩm thực

từ lương thực của họ gồm: cơm nếp (cơm đếp/ cơm rếp) đồ chín bằng chõ (hông); cơm tẻ (cơm tưởi) xưa kia cũng được đồ
bằng hông, nay họ dùng xoong để nấu; củ mài (cú đếp/cú dãng) đồ. Ngoài làm cơm họ còn dùng các loại lương thực chế biến
các loại bánh. Đáng chú ý nhất là bánh chưng (pẻng chưng), loại bánh to dùng để cúng tổ tiên, các loại thần linh, vua mỡi, vua
bếp vào dịp tết, loại nhỏ (bánh bò, bánh trâu) dùng để cúng vía trâu, vía các loại nông cụ; bánh uôi dùng trong các tang lễ;



bánh bắng dùng trong cưới xin; bánh chì (gần giống bánh dày của người Việt); bánh chay dùng trong lễ cầu mát hàng năm
trong các gia đình, lễ cúng vía cho người ốm; bánh ống (pẻng tồng khiu) có hình dáng tương tự chiếc bánh tày, bánh tét (hình
trụ), dùng trong lễ ăn hỏi (ti nòm), hoặc làm quà khi đi thăm thân.

1.2.108.

Đồ ăn chế biến từ các loại thịt của người Mường ở Quý Hòa khá phong phú. Chế từ thịt lợn có: giò lụa

(gio lua) làm bằng thịt nạc, giò đầu (gio trlốc) làm bằng thịt thủ, giò chân (gio bỏi) làm bằng thịt nạc ở chân lợn, chả thịt nạc
(chá nạc), chả lá bưởi, chả sườn (chá khành),

1.2.109.

chả rang (chá

rang), mọc luộc (rác moọc), mọc đồ (moọc tồ),... Chế từ thịt gà có: gà luộc, gà nấu gừng, gà nấu măng

chua, gà gói lá chuối nướng,... Chế từ thịt trâu có: trâu xào tiêu rừng, thịt và da chân trâu hầm lá lồm (lá chua)/món ăn nổi tiếng
ở vùng Mường. Chế từ các loại thủy sản có: cua xiên que nướng (cua náng) chấm với muối xả, ớt;
luốc),

1.2.110.

ăn

cùng khế

cua

luộc


(cua

chua, rau thơm,

vừng; cua rán (cua rản); cá rán; cá nướng (cá náng); cá đồ (cá ốch) ăn trong dịp tết, hoặc biếu bố vợ; ruột cá

nấu rau đắng; ếch rán, nấu măng chua, băm viên gói lá lốt và rán, ướp gia vị gói lá nướng qua rồi mang đồ; nòng nọc đồ lẫn
với nõn khoai môn; ốc vặn chặt đuôi, để cả vỏ nấu với lá lốt (chố hoi nổ tắc lốt); ốc nấu với lá môn rừng, măng chua.

1.2.111.

Đồ ăn chế biến từ các loại rau, măng của họ cũng không kém phong phú về chủng loại. Trước tiên

phải kể tới món măng vầu hoặc măng bương luộc; sau đó là các món
lènh enh,

1.2.112.

măng

đắng

đồ

(măng mu,

măng

măng

chảu), hỗn hợp các loại rau pheo, móng nai, tai rề, khìu, bò, dốm, chuối, bẹ, téng tẻ, tèng gai, lá mít non, lá sung

non, lá ắn, lá đu đủ non, quả cà gai, lá sắn non,... đồ chín bằng chõ (tắc đồ); rau éo (rau ấp bợ) luộc với măng vầu; rau sắng
nấu canh,...

1.2.113.
1.2.114.
1.2.115.

Để cất trữ

thực phẩm,

(khổ khưa) các

theo

tập quán

loại thịt bò, thịt trâu,

cổ

truyền họ

thịt lợn,thịt

thường phơi

chuột và các loại


khô
măng,

mộc nhĩ, nấm. Phương pháp cất trữ khá nổi tiếng của họ là muối chua các loại thịt, cá, tiết trâu, tiết bò, măng,

rau cải (muối dưa), làm mắm tôm tép.

1.2.116.
1.2.117.

Đồ uống nổi tiếng

họ



rượu trắng

(rảo

chai) và rượu

khỏe). Các loại rượu này họ thường dùng vào các dịp lễ tết, cưới xin, ma chay hoặc thết
ngày, theo

1.2.118.

của


tập

quán

người

cần (rảo

khách. Thường

Mường ở Quý

Hòa uống nước nấu bằng lá hoặc rễ pạng. Hiện nay hàng ngày họ cũng uống nước chè tươi, chè khô, và các loại

nước giải khát có ga khác.


1.2.119.

Cổ truyền người Mường ở Quý Hòa đã có tập quán hút thuốc lào. Không chỉ nam giới mà phụ nữ người

Mường ở Quý Hòa cũng nghiện thuốc lào. Điếu cày hút thuốc lào của họ làm bằng ống bương, ống nứa dài tới 60-70 cm, lõ
dài tới 15- 20 cm. Loại điếu này to, dài nên khi hút phải kéo vài hơi mới được. Phụ nữ Mường thường hút thuốc lào ở cạnh bếp
và dùng loại điếu to (tiểu khuổng). Họ hay hút theo kiểu chuyền tay nhau, dùng than hồng hoặc củi cháy dở để châm thuốc.

1.2.120.

Cung cách ứng xử trong ăn, uống và hút của họ cũng có nhiều nét đặc biệt. Nấu nướng và lo bữa ăn hàng

ngày trong các gia đình do phụ nữ đảm trách. Chế


biến và chuẩn

bị

cỗ

bàn trong các đám

lớn

do nam

giới đảm

1.2.121.

nhiệm. Hàng ngày họ thường ăn ba bữa, bữa phụ (cơm ngày) ăn vào buổi sáng sớm, bữa chính thứ nhất ăn vào buổi

trưa (cơm trưa), bữa chính thứ hai ăn vào buổi tối (cơm hôm). Bình thường họ ăn cơm tại gian giữa nhà, khi ăn họ dùng tay
nắm cơm đồ, theo thói quen họ thường rửa tay trước khi ăn. Khi thết khách, cỗ thường đặt ở vóng tông, người cao niên nhất
trong nhà và khách sẽ ngồi

1.2.122.

gần

cửa voóng, sau đó

là người


ít

tuổi

hơn.

Theo phong tục

Mường, khi mổ gà, phao câu nhất thiết phải dành cho cụ già, đùi (tỏi) dành cho trẻ nhỏ. Khi ăn cỗ đám cưới,

đám ma, theo tập quán Mường, đàn ông và đàn bà không ngồi ăn chung mâm với nhau, mà ngồi thành mâm riêng. Cỗ đám
cưới bao giờ cũng có mâm riêng dành tiếp thông gia (tiếp khỏa). Họ có tập quán uống rượu cần (rảo khòe) sau khi ăn cỗ họ
hoặc uống rượu trắng.

1.2.123. Đối với người Mường ở Quý Hòa, ăn uống cũng có một số kiêng kỵ nhất định. Ví
con

phụ nữ

1.2.124.

không

ăn các loại

dụ,

sau khi sinh


cá, ếch, nhái,

thịt vịt, thịt trâu, trứng gà,...vì sợ bị hậu sản; nhà đang còn gạo thì kiêng ăn củ mài, vì sợ vía lúa tự ái bỏ đi; trẻ

con không ăn mề, phao câu gà vịt (côi ca, côi wít), sợ ăn sẽ tối dạ và mồ côi cha mẹ;...

.2.

Văn hóa tinh thần

1.2.125.



1.2.126.

- Sinh đẻ, nuôi con

1.2.127.

Theo tập quán của người Mường ở Quý Hòa, con gái đã có chồng nghiêm cấm sinh nở ở nhà bố mẹ đẻ.

Phong tục, tập quán

Trường hợp bất khả kháng họ chỉ được phép sinh con ở gầm sàn nhà bố mẹ đẻ. Trong thời gian mang thai phụ nữ Mường tuyệt
đối không được tham gia vào các nghi lễ mang tính tôn giáo, đặc biệt là các lễ hội của làng xóm; kiêng không tham gia và
chứng kiến những sự việc không hay như đánh cãi nhau, tai nạn, cháy nhà; Đối với họ, thai phụ kiêng đánh rắn, sợ sau này lúc
nào con họ cũng thè lưỡi dài như rắn; kiêng dẫm chân lên vỏ cây làm quan tài, sợ sẩy thai; không bước qua thừng buộc trâu, ...
Về ăn uống, thời gian mang thai họ kiêng ăn các loại quả sinh đôi,sợ đẻ sinh


đôi;

kiêng ăn ốc, kiêng ăn

các


con vật

bị

1.2.128.

chết, kiêng ăn
cá nướng, cá nấu canh, kiêng uống nước đựng trong ống bương,... Cũng trong thời gian vợ mang thai, các ông

chồng kiêng khiêng quan tài trong các đám ma, kiêng lợp phần nóc nhà,...

1.2.129.

Theo tập quán, thai phụ Mường Quý Hòa đẻ cạnh bếp lửa, ở tư thế ngồi, hai tay đu bám vào dây thừng

buộc từ xà nhà thõng xuống. Mẹ chồng sẽ là người đỡ đẻ cho con dâu, nếu đẻ khó họ mời bà đỡ vườn đến giúp thai

1.2.130. phụ vượt cạn. Xưa kia, người ta dùng dao làm bằng cật nứa lấy trên mái nhà để cắt rốn cho hài nhi. Con trai thì lấy
nứa ở mái phía trước nhà, con gái lấy nứa ở mái phía sau. Sau khi cắt rốn cho trẻ, họ giắt dao cật nứa lên mái nhà. Sau khi cắt
rốn, hài nhi được tắm rửa, đặt tong chiếc nia lót lá chuối tươi đã hơ lửa
họ

1.2.131.


cầm chài

đánh cá

(rùng cúm). Tiếp

theo,

nếu



con

trai

dập nhẹ

xuống sàn nhà và gọi vài lần: con trai yêu quý ơi, hãy mau dậy mà đi đánh chài kiếm cá,...; nếu là con gái lấy

chiếc hông đồ xôi dập xuống sàn nhà và gọi: con gái quý ơi, hãy mau lớn mà đi chăn tằm, kéo tơ, dệt lụa,... Sau đó họ quấn tã,
mặc áo cho hài nhi và trao đứa trẻ cho mẹ nó. Nhau thai, cho vào ống bương, hoặc chiếc giỏ (ớp) nút kín, mang treo lên cây
trong rừng hoặc ven suối. Khi treo tuyệt đối không được để cho người khác nhìn thấy. Khi cuống rốn đứa trẻ rụng, cho vào ống
nứa đựng cuống rốn của anh chị của nó, giắt trên mái gianh, phía trên cầu thang lên sàn.

1.2.132.

Sau khi sinh nở, sản phụ Mường được nằm cạnh bếp lửa vài ba chục ngày liền. Sản phụ được uống nước


nấu với lá trầm, lá thánh mẫu, rễ khúc khắc, củ lù lù, củ lục chạc. Một vài nơi, khi nhà có người sinh nở, người Mường ở Quý
Hòa thường rào cầu thang chính bằng phên nứa, chỉ để một lối nhỏ lên sàn; các cửa voóng đều đóng kín. Thời gian cữ của sản
phụ là bảy hoặc chín ngày, tùy theo sinh con trai hay gái. Hết cữ, họ làm lễ thả ổ tạ ơn vua bếp và bà mụ. Trẻ được một tháng,
họ làm lễ mừng xóm (mừng quêỉ). Đối với người Mường ở Quý Hòa, đây là một trong những nghi lễ được to chức khá khá
thịnh soạn để thết xóm. Tất cả những người tới mừng quêl đều cầu chúc cho đứa trẻ thốt như cách, mách như đác (tốt như cát,
mắt như nước) và không quên mang theo gà, vải làm quà tặng cho đứa trẻ. Sau khi làm lễ mừng quêl họ chọn tên không trùng
với tên ông bà, tổ tiên nội ngoại, đặt cho đứa trẻ.

1.2.133.

Việc nuôi con của người Mường ở Quý Hòa cũng có nhiều tập quán lý thú. Khi trẻ còn nhỏ các bà mẹ

Mường đều lấy sợi hoặc sợi vải ở váy của mình buộc vào cố tay của con, để ngăn ma tà. Khi có việc phải đưa con ra khỏi nhà,
họ lấy nhọ nồi bôi lên trán đứa trẻ để đánh dấu (tanh dâu). Nếu trẻ quấy, khóc, không chịu ăn, họ mang cơm nếp, trứng gà
luộc, vợt xúc cá ra ngã ba đường làm lễ gọi vía (hóc wía). Trẻ hay khóc đêm, họ lấy áo của nó chùm lên hông đồ cơm, mang
đặt ở gian trong (voóng khựa), dùng trứng gà, cơm, đũa, bát nước, trầu cau,... làm lễ cầu vía. Các cặp vợ chồng muộn con
thường lập bàn thờ bà mụ (trúc đài) ở vườn. Khi con được đủ một giáp (12 tuối), họ làm lễ trả ơn mụ và hạ trúc đài.


1.2.134.

-

1.2.135.

Cưới xin của người Mường ở Quý Hòa phải thực hiện đầy đủ các nghi thức theo trình tự: chọn mối

Cưới xin

(chọn mờ), ướm hỏi (kháo tiếng), dạm ngõ (mờ miệng), ăn hỏi (ti nòm / ti nòm bánh), nhận rể, đón dâu (ti cháu / ti du), lại mặt

(ti môộng).

1.2.136. Người làm mối (mờ) đứng ra giao dịch với nhà gái, lo liệu xắp xếp việc tiến
nghi

thức cưới

1.2.137.
lang

xin cho

trẻ.

Mối

tới

tố

chức

các

thường là

người nhiều phúc đức, con cháu đông đúc, thạo đường ăn nói, giao tiếp. Xưa kia ở

sẽ gọi mối


1.2.138.

đôi

hành

để trách

MườngVang,

quan

cứ, nếu các cặp vợ

chồng họ làm mối ăn ở không hòa thuận.

1.2.139.

Ướm hỏi (kháo tiếng): ngày cây trong (theo lịch Mường, ngày cây là những ngày tốt), vào buối tối, mối

thay mặt nhà trai sang thưa chuyện, đánh tiếng ướm hỏi với nhà gái. Thông thường, ngày kháo tiếng nhà gái không trả lời
ngay, mà xin nhà trai đợi vài hôm. Ước chừng vài hôm sau đó, nhà trai nhờ mối sang thụ nhận hối ý của nhà gái.

1.2.140.

Dạm ngõ (mờ miệng): Mối thay mặt nhà trai mang trầu cau, chè, rượu, bánh,...sang nhà gái chính thức

ngỏ lời với nhà gái. Nhà gái đồng thuận, hai bên cùng nhau trọn giờ, ngày chính thức làm lễ ăn hỏi (ti nòm bánh) cho đôi con
trẻ.


1.2.141. Ăn hỏi

(ti nòm bánh): Theo

tụclệ

Mường,

trước khi

ăn

hỏi,

họ

còn

1.2.142.

thực hiện nghi thức chọn giờ, chọn ngày. Lễ vật cho nghi thức này là một con cá cắt làm 4 khúc gói trong lá

dong, 4 bánh chưng không có nhân, 5 quả cau và 10 lá trầu không.

1.2.143.

Ti nòm của người Mường ở Quý Hòa gồm hai bước. Lần đầu gọi là nòm gà, lần cuối gọi là nòm cả. Lần

đầu, mối cùng hai thanh niên và cô em gái chú rể tương lai, thay mặt nhà trai mang sang nhà gái đôi gà, hai gói cá, một vài
chục chiếc bánh bẹng, vài gói cơm nếp,... làm cỗ dang cúng to tiên nhà cô gái. Sau đó là việc ăn mừng và bán tính ngày giờ

thực hiện nòm cả.

1.2.144.

Lễ cưới lần thứ nhất (còn gọi là nòm cả hoặc ti cháu): Xưa kia, sau 3 năm khi nào nhà trai chuẩn bị đầy

đủ, bà con nội ngoại đồng ý, lễ cưới sẽ được tiến hành. Lễ vật nhà trai phải mang sang nhà gái gồm: gạo (120 đấu/100 kg), lợn
vào trồ 1 con (20-25kg), thịt lợn (40-50 kg), rượu (20 chai), cơm nếp đồ (3 chón) một buồng cau, trầu không (100 lá), 2-4 cây
mía,... Chàng rể trang phục đẹp, thắt khăn trắng, gùi một chón cơm nếp bên trên đặt hai con gà sống thiến đã luộc chín. Hai
phù rể (ti piềng) mỗi người giù một chón cơm nếp đồ.


1.2.145.

Theo lệ Mường, nhà trai chỉ được vào nhà gái khi trời đã tối. Mối thay mặt nhà trai trao đồ

thách

cưới, khấn rượu. Sau đó nhà gái mời thi uống

1.2.146.

rượu cần (rảo cậy). Cuộc thi rượu kết thúc, hai họ cùng nhau ăn bữa cơm mừng, mối được nhà gái thết một mân

riêng. Trước khi các thành viên nhà trai ra về, nhà gài mời họ uống rượu chao mang. Khi nhà trai xuống thang, các cô gái dùng
bã rượu cần ném vào họ cho có nhiều phúc. Chàng rể và hai phù rể ở lại nhà gái để tiếp khách. Sang tối thứ ba, nhà gái làm cỗ
tiếp rể (chụ cháu). Sáng sớm ngày thứ tư, rể và phù rể quay trở về nhà trai. Từ đây cho đến hết thời hạn 3 năm, chàng rể tương
lai phải phục dịch ăn côông con (ăn công nuôi con), đối với gia đình nhà vợ. Tất cả các lễ tết hàng năm chàng rể phải mang lễ
đến biếu bố mẹ vợ (ti cơm non). Tết Nguyên đán rể phải biếu bố vợ con lợn, thúng xôi, vài chục bánh mật, vài chai rượu, trầu
cau. Tết Đoan ngọ và Rằm tháng Bảy, chàng rể phải biếu bố mẹ vợ đôi gà, vài gói cá, vài chai rượu. Thành ngữ Mường nói

rằng: Tháng Mười không đi mất chồng, tháng sáu không đi mất vợ.

1.2.147. Lễ cưới chính thức (lễ đón dâu / ti du): Sau 3 năm thử thách, tìm hiếu, nếu mọi chuyện tốt đẹp, nhà trai cử
ông mối mang gà, cá, rượu, trầu cau sang nhà gái xin làm lễ cưới đế đón dâu (ti du). Cùng đi với mối có các anh chị em của

chú rế. Xưa kia, nhà gái thường thách cưới: một con trâu dực đã biết cày bừa (hoặc một co bò), dăm thúng gạo, 2 con lợn
(30kg/con), 5-6 thúng xôi, một

1.2.148.

buồngcau, trên trăm



trầu

không, 20 ống

rượu

trắng

(khoảng 3-5 lít/ống). Khoảng hai, ba ngày trước khi đón dâu, họ hàng nhà trai tập trung chuẩn bị rất nhộn nhịp.

Trai gái nội ngoại tập trung làm gạo, lấy củi, lấy nước; các cụ ông chỉ đạo việc chọn trâu, chọn lợn, nấu rượu; các cụ bà chuẩn
bị trầu cau. Người đi đón dâu mang trang phục truyền thống, mới và đẹp. Chú rế và hai phù rế (piềng cháu) mang trang phục
giống nhau, bên trong mặc áo trắng, ngoài khoác áo dài thâm (mặc kiếu đóng đôi), quần lụa hoặc nhiễu, đầu đội nón lá dứa.
Nay trang phục dự cưới của người Mường ở Quý Hòa cũng gần tương tự như người Việt, họ mặc âu phục cả.

1.2.149.


Đến giờ đi dón dâu, sau một hồi cồng chiêng gióng lên, đi đầu là mối, tiếp đó là các cụ, cồng chiêng, sau

cùng là bạn bè và anh em chú rế. Theo phong tục của họ, đón và đưa dâu phải đi theo đường chính, qua ngã ba ngã tư phải đặt
trầu, cau; những người tham gia phải đi đến nơi, về đến chốn, không tự ý bỏ dở, hoặc rẽ ngang. Tiếng cồng theo đoàn đón dâu
vang trên đường, báo việc hỷ với xóm xa xóm gần, họ hàng bên cô dâu nghe âm cồng đế tề tựu, thịnh soạn đón họ hàng nhà
trai.

1.2.150.

Tới nhà gái, họ cử người nhận đồ dẫn cưới. Sau nghi thức giao nhận đồ dẫn cưới là cuộc hát đối đáp mở

lối và tung bã rượu đế cầu phúc cho mọi người. Khi họ nhà trai lên sàn, hai họ chứng kiến nghi thức lễ to tiên và vái

1.2.151. sống các bậc ông bà, cha chú bên vợ của chú rể. Sau khi hai họ ăn cỗ, thi uống rượu cần, mừng dâu rể, đến giờ tốt đã
chọn, mối thay mặt nhà trai xin đón dâu. Theo tục lệ, dâu và phù dâu (piềng du) mang trang phục truyền thống. Cô dâu khấn to


tiên trên ban thờ rồi vái sống ông bà, cha mẹ trước khi về nhà chồng. Theo tục lệ, cô dâu đội nón, tay cầm theo một con dao
nhỏ để giữ vía, không được quay mặt nhìn lại phía sau. Của hồi môn gồm chăn, gối, màn, vải,... được họ hàng nhà gái cử
người mang theo. Trên đường đón dâu về
chăng

1.2.152.

mối là người

lo

liệu


mọi

chuyện,

nhất

là khi bị

dây, ngăn

đường.

1.2.153.

Về tới chân cầu thang nhà chồng, dâu được cô em chồng giúp rửa chân, trước khi bước qua bó củi để lên

cầu thang. Vào nhà, dâu đến lạy vua bếp, sau đó lễ to tiên và các bậc cha chú của chồng. Tại gian giữa sàn, đôi vợ chồng trẻ
được mối làm lễ tơ hồng (cơm quel). Sau tiệc cưới, những người đưa dâu thường ra về ngay, nếu ở xa họ phải ngủ lại qua đêm.
Phù dâu (piềng du) thường ngủ bạn với cô dâu khoảng ba đêm sau ngày cưới. Sau đó dâu, rể và phù dâu quay về nhà gái làm lễ
lại mặt (ti môộng). Xưa kia, sau lễ lại mặt, đôi vợ chồng trẻ phải trải qua thời kỳ thử thách (bù ma ruộng) mới được chung
chăn gối.

1.2.154.
1.2.155.

-

Tang ma (đám hiếu)


Khi có người lâm chung, họ gióng chiêng chỏm báo hiệu cho anh em, bà con gần xa. Người chết được dặt

ở gian giữa, sau khi thực hiện nghi thức chia vải vóc, người ta dựng cọc, mắc màn, lấy vải trắng quây xung quanh, lấy mặt
chăn (phà) che phía trên. Người quá cố được khâm liện, mặc quần áo mới,
nhập quan

1.2.156.

quấn

vải

trắng, trước khi

làm

lễ

(pao khăng / ke). Bên

ngoài quan tài người ta quấn vải trắng áo quan (ạo tròn), trong cùng là vải của con út, ngoài cùng là vải của con

trưởng. Trên áo quan, họ phủ vải trắng và gọi đó là áo tội (ạo đội). Khi quàn linh cữu trong nhà, phía trên quan tài là cây sào
vắt quần áo của con cái. Bên ngoài sàn, ở chỗ cửa voóng tôông, người quá cố có bao nhiêu con trai thì họ treo bấy nhiêu mảnh
vải trắng. Sau lễ nhập quan, các nàng dâu làm lễ quạt ma.

1.2.157. Nghi thức quan trọng hàng đầu trong các đám tang người Mường ở Quý Hòa xưa kia là mo tang. Thông
thường mo tang phải kéo dài hàng tuần. Đêm thứ nhất, mo dẫn hồn lên gặp Chạo Hẹ để xin hầu kiện. Đêm thứ hai, mo dần hồn
tới nhà ông nội (tá keo heng) để mượn tiền, đến nhà thiêng mư mượn quần áo. Đêm thứ ba, mo dẫn hồn hầu kiện. Đêm thứ tư,
mo dẫn hồn đi bán bông trả nợ, chuộc khổ, xin nhập sổ ma và xin cấp phương tiện đi lại. Đêm thứ

xuống

1.2.158.

sông Tỵ,

ra thác Bờ,

năm,

mo dẫnhồn

xuống Bôi, sắm đồ

dạc về ở thế giới ma (tôống). Đêm thứ sáu, sau khi đã làm nhà táng (nhà xe) và tế rước nhà xe, tế quạt ma ở

ngoài đồng, đêm đến mo tế Hằng Nga kể về quá trình tìm nhà xe và chuyện Vườn Hoa núi Cối (đang wần wa). Trước khi mo
đêm thứ bảy, vào buổi sáng sớm mo dẫn hồn về thăm lại nhà (nhìn lược nhà), mời hồn ăn bánh (nhiêngpánh), buổi chiều mo


mời hồn ăn bữa cơm cuối cùng ở nhà (cơm đi / nược ti) trước khi đưa ma đi mai táng. Ban đêm mo hướng dẫn hồn dọn đồ đạc

con cháu chia cho về mộ địa (ton đồ wềl tôống). Ba ngày sau khi mai táng, con cháu ra mộ làm lễ mời hồn về (lại wải wềl) để
thờ cúng ở nhà.

1.2.159.



1.2.160.


Tuy chỉ thông qua truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác, nhưng người Mường Quý Hòa có kho

Văn nghệ dân gian

tàng văn học, nghệ thuật dân gian đồ sộ và phong phú. Đáng chú ý nhất phải kể tới các truyền thuyết về Ải Lậc Cậc, Ông
Tùng,...; Sự tích chimpángpángpỏipỏi, Sự tích ve sầu, Con côi,... Các thầy mo là những nghệ nhân dân gian hát mo tuyệt vời
nhất của cộng đồng. Sách Đoi được làm bằng 12 mảnh tre, trên đó khắc vạch, đánh dấu tiết thời, hoặc những hiện tượng thời
tiết đặc biệt.

1.2.161.

Trong kho tàng văn nghệ dân gian của người Mường ở Quý Hòa, chú ý nhất là vốn tục ngữ, ca dao quí

giá. Đó là kinh nghiệm về: đoán định thời tiết, khí hậu, cung cách trồng trọt, chăn nuôi, kiếm sống, đối nhân sử thế, ca ngợi
cuộc sống, ca ngợi quê hương, hoặc về cung cách ăn uống. Thường dang, Bộ mẹng, đồng dao và hát đúm,...là các loại hình ca
hát dân gian nổi tiếng. Đạp hoa, hát ru, đồng dao cũng là các hình thức ca hát được dân gian Mường ưa thích, còn lưu truyền
tận ngày nay. Ở Quý Hòa cổ xưa có múa cờ, múa quạt ma, múa dâng lễ vật, múa mặt lạ (trong các đám tang). Biểu diễn cồng
chiêng là hoạt động biểu diễn dân gian đặc biệt trong các đám rước (đón dâu, rước cơm mới, rước thần nước,...), tế lễ, hội hè,
hội sắc bùa, đám cưới, đi săn. Trò chơi dân gian của họ khá nhiều, đặc biệt là: đánh cẳl (đánh gậy), cò le (đuổi nhau), đánh
chó (đẩy bưởi vào lỗ), đánh mảng (chơi nhảy cò), chám chi, chám chán (ú tim), đánh đu, bắn nỏ, ném còn vào đầu xuân,...

1.2.162.

- Tín ngưỡng, lễ hội

1.2.163.

Người Mường ở Quý Hòa cầu cúng tất cả các loại thần thánh, ma quỷ, một khi


thiết. Thờ cúng tổ

1.2.164.

tiên (thờ

hùy, chiềng thờ,

cảm

thấy

cần

thổm

thắm,..) có tầm quan trọng số một trong đời sống tâm linh của người họ. Họ thờ cúng cả tổ tiên bên vợ (pố

mộng, mộng hạm,...). Việc thờ cúng tổ tiên được thực hiện ngay tại bàn thờ đặt ở voóng tôông trong nhà. Việc cúng bái tổ tiên
của họ chỉ diễn ra vào các ngày tết cổ truyền, các dịp gia đình tiến hành các nghi lễ thuộc chu kỳ vòng đời cho các thành viên,
hoặc khi dựng nhà mới. Ngoài việc thờ cúng tổ tiên, họ còn thờ đá, cúng bí đỏ (lễ lên nhà mới), thờ cây si (chu dồng), thờ mỏ
mước, thờ vật tổ dòng họ (tô tem), thờ thổ công, thờ các nhân vật huyền thoại, người anh hùng (Thánh Tản Viên, ông Tùng,
ông Keo Heng, ải Lý, ải Lo, ông Chàng Vàng, ...).

1.2.165.

Người Mường ở Quý Hòa có các lễ hội nông nghiệp: lễ hội xuống đồng (khuống mùa), từ mồng Bảy đến

mồng Mười tháng Giêng hàng năm, mà có người còn gọi là lễ Khai Hạ; Lễ hội cầu mưa, đánh thức ma khú dậy để làm mưa,



lấy nước cho dân làm ruộng, vào đầu tháng Tư hàng năm; Lễ hội rửa lá lúa, vào lúc lúa mùa chuẩn bị làm đòng (tháng Bảy
hoặc tháng

1.2.166.

Tám), đan sọt tre, cắm lông gà vào rồi mang đặt quanh ruộng, buộc lông gà vào đầu cọc mang cắm vào ruộng,...

cầu khấn cho lúa tro đòng nhanh, không bị sâu bệnh; Hội sắc bùa (séc bùa), gióng chiêng, đánh cồng chúc phúc cho các gia
đình vào dịp đầu xuân mới; Lễ hội cơm mới, cúng tổ tiên vào tháng Mười, sau khi thu hoạch mùa.

1.2.167.

Ngoài ra, hiện nay người Mường ở một số các thôn vùng thấp ở Quý Hòa cũng như ở nhiều nơi khác

đang có chiều hướng tham gia nhiều hơn vào các tôn giáo lớn đặc biệt là Phật giáo và Thiên chúa giáo. Điều này làm thay đổi
nhiều những quy chuẩn văn hóa trong truyền thống, đặc biệt về tín ngưỡng, tang ma, cưới xin.

1.2.168.

Ví dụ : những gia đình theo Thiên chúa giáo thì gần như không thờ Thổ địa nữa, phần đa vẫn thờ tổ tiên

nhưng không sâu đậm như trước, họ tổ chức hôn lễ tại thánh đường và lễ tang theo kiểu của phương Tây - những người theo
Thiên chúa.

1.2.169.

Tiểu kết chương 1

1.2.170.


Quý Hòa là địa điểm có các điều kiện tự nhiên: có nhiều rừng núi bao bọc, đường xá di chuyển khó

khăn. Bên cạnh đó, xã còn bị chia cắt nhỏ lẻ, các thôn xóm ở cách xa nhau và nằm rải rác trên các núi cao, các thung lũng.
Điều này mặc dù làm hạn chế sự phát triển kinh tế và giao lưu văn hóa với các khu vực khác nhưng bù lại, nó lại tạo ra một
màng bảo vệ cho hệ thống văn hóa truyền thống tộc người. Bởi thế, văn hóa Mường nơi đây vẫn bảo tồn được khá nhiều yếu tố
truyền thống. Trong đó có y phục Mường.

1.2.171.

Ngày nay, Quý Hòa đang từng bước một được đay mạnh phát triển về kinh tế, bảo lưu về văn hóa tộc

người bởi các chính sách văn hóa của chính quyền địa phương.
về

1.2.172.

Điều này tạo

nên ở quý hòa những thách thức

bảo

tồn/thích ứng văn hóa đáng lưu ý. Giải quyết thách thức này chính là tạo điều kiện phát triển văn hóa mà vẫn

bảo tồn được truyền thống tộc người. nói cách khác, đó chính là sự lựa chọn thích hợp nhất trong bối cảnh hiện nay ở Quý
Hòa.



×