Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Phân tích ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu nội dung quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.23 KB, 9 trang )

TIỂU LUẬN
Chủ đề: Phân tích ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ việc nghiên cứu nội dung
quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập? ( Gọi tắt là quy luật mâu
thuẫn), từ đó vận dụng vào xem xét giải quyết vấn đề chủ quyền quốc gia của Việt
Nam trong giai đoạn hiện nay.
Bài làm:
Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là “hạt nhân” của
phép biện chứng. Theo V.I.Leenin, “Có thể định nghĩa vắn tắt phép biện chứng là
học thuyết về sự thống nhất của các mặt đối lập. Như thế là nắm được hạt nhân của
phép biện chứng, nhưng điều đó đòi hỏi phải có những sự giải thích và một sự phát
triển thêm.” Quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập là quy luật về
nguồn gốc, động lực cơ bản, phổ biến của mọi quá trình vận động, phát triển. Theo
quy luật này, nguồn gốc, động lực cơ bản và phổ biến của mọi quá trình vận động
phát triển chính là mâu thuẫn khách quan, vốn có của sự vật.Việc nắm rõ ý nghĩa
phương pháp luật rút ra từ việc nghiên cứu nội dung quy luật thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập là vô cùng quan trọng và cần thiết. Từ đó có thể vận
dụng vào xem xét giải quyết vấn đề chủ quyền quốc gia của Việt Nam trong giai
đoạn hiện nay để đưa ra những phương pháp giải quyết đúng đắn nhất.
Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập như thế nào,chúng ta cùng nhau nghiên cứu.
Trước hết cần nắm rõ khái niệm mâu thuẫn và các tính chất của mâu thuẫn,
quá trình vận động của mâu thuẫn và ý nghĩa phương pháp luận. Trong phép biện
chứng, khái niệm mâu thuẫn dùng để chỉ mối liên hệ thống nhất, đấu tranh và
chuyển hóa giữa các mặt đối lập của mỗi sự vật, hiện tượng hoặc giữa các sự vật,
hiện tượng với nhau. Đây là quan niệm biện chứng về mâu thuẫn, khác căn bản với
quan niệm siêu hình về mâu thuẫn. Theo quan niệm siêu hình, mâu thuẫn là cái đối
lập phản logic, không có sự thống nhất , không có sự chuyển hóa biện chứng giữa
các mặt đối lập. Nhân tố tạo thành mâu thuẫn là các mặt đối lập. Khái niệm mặt
dối lập dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính, những khuynh hướng vận động
trái ngược nhau nhưng dồng thời lại là điều kiện, tiền đề tồn tại của nhau.



Một vài ví dụ cơ bản về mâu thuẫn giữa các mặt đối lập. Trong tự nhiên, khi
coi con người là 1 sự vật, thì giữa đồng hóa và dị hóa, giữa biến dị và di truyền,
hấp thụ và bài tiết là các mặt đối lập. Khi coi một xã hội Tư bản là một sự vật, mâu
thuẫn giữa Vô sản và Tư sản, mâu thuẫn giữa Giai cấp bóc lột và bị bóc lột, Giai
cấp thống trị và giai cấp bị trị, sản xuất và tiêu dùng, là hai mặt đối lập.Trong tư
duy: biết và chưa biết, chân lý và sai lầm, biết sâu sắc và biết nông cạn, là các mặt
đối lập. Hai sự vật đối lập: Ngành công nghiệp và nông nghiệp: đòi hỏi giữa nhu
cầu công nghiệp phải đáp ứng về máy móc và nông nghiệp mâu thuẫn về khả năng
đáp ứng. Kinh tế và quốc phòng: Kinh tế đáp ứng nhu cầu quốc phòng.
Mâu thuẫn có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa dạng, phong phú.
Theo Ph.Ăngghen : “ nếu bản thân sự di động một các máy móc đơn giản đã chứa
đựng mâu thuẫn, thì tất nhiên những hình thức vận động cao hơn của vật chất và
đặc biệt là sự sống hữu cơ và sự phát triển của sự sống hữu cơ đó lại càng phải
chứa đựng mâu thuãn… sự sống trước hết là ở chỗ một sinh vật trong mỗi lúc vừa
là nó nhưng lại là vừa một cái khác. Như vậy, sự sống củng là một mâu thuẫn tồn
tại trong bản thân các sự vật và các quá trình , một mâu thuẫn thường xuyên nảy
sinh và tự giải quyết, và khi mâu thuẫn chấm dứt thì sự sống củng không còn nữa
và cái chết xảy đến. Cũng như chúng ta đã thấy rằng trong lĩnh vực tư duy, chúng
ta không thể thoát khỏi mâu thuẫn; chẳng hạn như mâu thuẫn giữa năng lực nhận
thức vô tận ở bên trong của con người với sự tòn tại thực tế của năng lực ấy trong
những con người bị hạn chế bởi hoàn cảnh ben ngoài, và bị hạn chế, trong những
năng lực nhận thức, - mâu thuẫn này được giải quyết trong sự nối tiếp của các thế
hệ, sự nối tiếp đó ít ra đối với chung ta trên thực tiễn, cũng là vô tận, - và được giải
quyết trong sự vận động đi lên vô tận”.
Mâu thuẫn không những có tính khách quan, tính phổ biến mà còn có tính
đa dạng , phong phú. Tính đa dạng của mâu thuẫn được biểu hiện đa dạng ở chỗ :
mỗi sự vật, hiện tượng, quá trình đều có thể bao hàm nhiều loại mâu thuẫn khác
nhau, biểu hiện khác nhau trong những điều kiện lịch sử, cụ thể khác nhan; chúng
giữu vị trí, vai trò khác nhau đối với sự tồn tại, vận động, và phát triển của sự vật.

Đó là: mâu thuẫn bên trong và bên ngoài, cơ bản và không cơ bản, chủ yếu và thứ
yếu… trong các lĩnh vực khác nhau cũng tồn tại những mâu thuẫn với những tính
chất khác nhau tạo nên tính phong phú trong sự biểu hiện của mâu thuẫn.


Trong mỗi mâu thuẫn, các mặt đối lập vừa thống nhất với nhau, vừa đấu
tranh với nhau. Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập dùng để chỉ sự liên hệ,
rang buộc, không tách rời nhau, quy định lẫn nhau của các mặt đối lập, mặt này lấy
mặt kia làm tiền đề tồn tại. Sự thống nhất của các mặt đối lập cũng bao hàm sự
đồng nhất của nó. V.I.Leenin viết: “ sự đồng nhất của các mặt đối lập (“ sự thống
nhất” của chúng, nói như vậy có lẽ đúng hơn? Tuy ở đây sự phân biệt giữa các từ
đồng nhất và thống nhất không quan trọng lắm. Theo một nghĩa nào đó, cả hai đều
đúng”. Khái niệm đấu tranh giữa các mặt đối lập dùng để chỉ khuynh hướng tác
động qua lại, bài trừ, phủ định nhau của các mặt đối lập. Hình thức đấu tranh của
các mặt đối lập rất phong phú, đa dạng, tùy thuộc vào tính chất, mối quan hệ và
điều kiện cụ thể của sự vật, hiện tượng. Quá trình thống nhất và đấu tranh các mặt
đối lập tất yếu dẫn đến sự chuyển hóa giữa chúng. Sự chuyển hóa giữa các mặt
diễn ra hết sức phong phú, đa dạng tùy thuộc vào tính chất của các mặt đối lập
cũng như tùy thuộc vào những điều kiện, lịch sử cụ thể.
Trong sự thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập, sự đấu tranh giữa
chúng là tuyệt đối, còn sự thống nhất giữa chúng là tương đối, có điều kiện, tạm
thời; trong sự thống nhất đã có sự đấu tranh, đấu tranh trong tính thống nhất của
chúng. Theo V.I.Lênin: “ Sự thống nhất( phù hợp, đồng nhất, tác dụng ngang nhau)
của các mặt đối lập là có điều kiện, tạm thời, thoáng qua, tương đối. Sự đấu tranh
của các mặt đối lập bài trừ lẫn nhau là tuyệt đối, cũng như sự phát triển, vận động
là tuyệt đối.”
Sự tác động qua lại dẫn đến chuyển hóa giữa các mặt đối lập là một quá
trình. Lúc mới xuất hiện, mâu thuẫn thể hiện ở sự khác biệt và phát triển thành hai
mặt đối lập. Khi hai mặt đối lập của mâu thuẫn xung đột với nhau gay gắt và khi
điều kiện đã chin muồi thì chúng sẽ chuyển hóa lẫn nhau, mâu thuẫn mới được giải

quyết. Mâu thuẫn cũ mất đi, mâu thuẫn mới được hình thành và quá trình tác động,
chuyển hóa giữa hai mặt đối lập lại tiếp diễn, làm cho sự vật, hiện tượng luôn luôn
vận động và phát triển. Bởi vậy, sự liên hệ, tác động và chuyển hóa giữa các mặt
đối lập là nguồn gốc, động lực của sự vận động và phát triển trong thế giới.
V.I.Lênin khẳng định : “Sự phát triển là một cuộc “đấu tranh” giữa các mặt đối
lập.”


Trong quá trình nhận thức của chúng ta luôn xuất hiện những mâu thuẫn
như: mâu thuẫn giữa những điều đã biết rất hạn hẹp với những điều chưa biết vốn
rộng lớn, mâu thuẫn giữa ý muốn và khả năng... Để nhận thức, tư duy, khả năng có
thể phát triển, chúng ta không thể không giải quyết mâu thuẫn đó bằng cách tự trau
dồi kiến thức cho mình, có như vậy chúng ta mới có thể đứng vững, tự tin trong
thời đại khoa học công nghệ phát triển như hiện nay.
Để có thể vận dụng quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập
một cách hiệu quả trong thực tế, chúng ta cần phải nắm rõ ý nghĩa phương pháp
luận của quy luật này.
Vì mâu thuẫn có tính tuyệt đối, khách quan, phổ biến, là nguồn gốc, động
lực của sự vận động, phát triển, do vậy, trong nhận thức và thực tiễn cần phải tôn
trọng mâu thuẫn, phát hiện mâu thuẫn, phân tích đầy đủ các mặt đối lập, nắm được
bản chất, nguồn gốc, khuynh hướng của sự vận động và phát triển. V.I.Lênin đã
cho rằng: “ Sự phân đôi của cái thống nhất và sự nhận thức các bộ phận mâu thuẫn
của nó… đó là thực chất.. của phép biện chứng”.Muốn phát hiện mâu thuẫn, phải
tìm ra trong thể thống nhất (sự vật, hiện tượng, quá trình được xác định trong thời
gian, không gian cụ thể) những mặt, những khuynh hướng trái ngược nhau, tức tìm
ra những mặt đối lập và tìm ra những mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau giữa
các mặt đối lập để nắm được bản chất, nguồn gốc, khuynh hướng của sự vận động,
phát triển.
Vì mâu thuẫn có tính đa dạng, phong phú do vậy trong nhận thức và giải
quyết mâu thuẫn cần phải có quan điểm lịch sử - cụ thể, tức là biết phân tích cụ thể

từng loại mâu thuẫn và có phương pháp giải quyết phù hợp. Trong quá trình hoạt
động nhận thức và thực tiễn, cần phân biệt đúng vị trí, vai trò của các loại mâu
thuẫn trong từng hoàn cảnh, điều kiện nhất định; những đặc điểm của mâu thuẫn
đó để tìm ra phương pháp giải quyết từng mâu thuẫn một cách đúng đắn nhất.
Mỗi sự vật, hiện tượng là một hệ thống, ứng với nó là hệ thống mâu thuẫn
tạo nên một chỉnh thể, khi tác động vào một mâu thuẫn có thể dẫn tới thay đổi toàn
bộ hệ thống hoặc thay đổi một số yếu tố của hệ thống. Mỗi mâu thuẫn lại có những
cách giải quyết khác nhau. Phải tìm ra mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn chủ yếu và
tác động vào đó để đem lại hiệu quả cao. Khi giải quyết mâu thuẫn phải đặt nó
trong mối tương quan với các mâu thuẫn khác trong hệ thống, không cô lập tách
rời nhau. Đồng thời, cần phân biệt đúng vai trò, vị trí của các loại mâu thuẫn trong
từng hoàn cảnh, điều kiện nhất định để tìm ra phương pháp tối ưu nhất. Nếu không
nhận thức đúng đắn và tìm cách giải quyết phù hợp sẽ làm cho mâu thuẫn càng trở
nên phức tạp và khó giải quyết hơn.


Trong thời kỳ thực dân Pháp xâm lược nước ta, mâu thuẫn giữa dân tộc Việt
Nam và thực dân Pháp là mâu thuẫn cơ bản nhất. Để giải quyết mâu thuẫn này, các
sĩ phu yêu nước, những nhà cách mạng đã lựa chọn cách cách thức giải phóng dân
tộc khác nhau. Có người, có phong trào lựa chọn theo khuynh hướng phong kiến,
có người lại chọn theo khuynh hướng tư sản. Tuy nhiên, lúc này hệ tư tưởng phong
kiến đã trở nên bất lực trong việc giải quyết nhiệm vụ giành độc lập dân tộc, giai
cấp tư sản Việt Nam rất nhỏ yếu cả về kinh tế lẫn chính trị, nên không đủ sức
giương cao ngọn cờ lãnh đạo sự nghiệp giải phóng dân tộc theo khuynh hướng dân
chủ tư sản. Nhận thức rõ những hạn chế của các phong trào giải phóng dân tộc
trước đó, cùng với những yêu cầu của thực tiễn, Hồ Chí Minh đã nhận thức đúng
đắn vấn đề dân tộc và nắm bắt được xu thế thời đại, Người đã chọn con đường
cách mạng vô sản bởi “ Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường
nào khác con đường cách mạng vô sản”. Đó là con đường tiến bộ, phù hợp với xu
thế chung của thời đại.

Để thúc đẩy sự vật phát triển, phải tìm mọi cách để giải quyết mâu thuẫn,
không được điều hòa mâu thuẫn. Tuy nhiên, mâu thuẫn chỉ được giải quyết khi
điều kiện đã chín muồi. Vì thế, không được chủ quan nóng vội mà phải tích cực
thúc đẩy các điều kiện khách quan và chủ quan để làm cho các điều kiện giải quyết
mâu thuẫn đi đến chín muồi. Khi giải quyết mâu thuẫn, cần tránh 2 khuynh hướng:
hoặc tuyệt đối hóa thống nhất, sẽ dẫn đến điều hòa mâu thuẫn, phá bỏ mâu thuẫn,
tuyên bố không có mâu thuẫn làm mâu thuẫn chậm được giải quyết; hoặc tuyệt đối
hóa đấu tranh, dẫn đến cực đoan, thái quá, làm sự phát triển của sự vật, hiện tượng
đi chệch hướng.
Đối với mỗi chúng ta, trong quá trình học tập và công tác của bản thân cần
phải biết phân tích những mâu thuẫn trong nhận thức, trong rèn luyện phẩm chất
đạo đức. Phải phân biệt đâu là đúng, là sai, là tiến bộ, khoa học hay lạc hậu để
nâng cao nhận thức, phát triển nhân cách. Cần biết đấu tranh phê bình và tự phê
bình, tránh thái độ xuê xoa, “dĩ hòa vi quý”, không dám đấu tranh chống lại cái lạc
hậu, cái bảo thủ.
Chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ là vấn đề thiêng liêng đối với mỗi đân tộc. Trong
đó lãnh thổ và biên giới quốc gia lại là hai yếu tố gắn bó với nhau như hình với
bóng do đó pháp luật quốc tế hiện đại và tập quán quốc tế đều thừa nhận tính bất
khả xâm phạm của lãnh thổ quốc gia và biên giới quốc gia. Chủ quyền quốc gia là
đặc trưng chính trị và pháp lý thiết yếu của một quốc gia độc lập, được thể hiện
trong hoạt động của các cơ quan Nhà nước và trong hệ thống pháp luật quốc gia.
Tôn trọng chủ quyền quốc gia là một nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Một
trong những nguyên tắc cơ bản nhất được Hiến chương Liên hiệp quốc khẳng định
là tôn trọng và bảo đảm sự bình đẳng về chủ quyền quốc gia, không một quốc gia


nào được can thiệp hoặc khống chế, xâm phạm chủ quyền của một quốc gia độc
lập khác.
Việc bảo đảm chủ quyền của mỗi quốc gia phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố
khách quan và chủ quan, chịu sự tác động của các nhân tố kinh tế, chính trị, quân

sự… Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ xin được nêu lên một vài suy nghĩ
về chủ quyền quốc gia Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế hiện nay.
Toàn cầu hoá kinh tế hiện nay có tính hai mặt vừa là kết quả tất yếu và là
yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất của xã hội loài người, vừa
là sản phẩm của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Với tư cách là lực lượng sản
xuất của xã hội loài người phát triển đến giai đoạn hiện nay, nó có tính tiến bộ lịch
sứ và thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, làm cho lực lượng sản xuất tiếp tục phát
triển. Với tư cách là quan hệ sán xuất chiếm vị trí chủ đạo trên thế giới hiện nay
(quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa đang mở rộng trên toàn cầu), nó tất yếu có lợi
cho quyền lực kinh tế, chính trị của các nước phát triển phương Tây. Như vậy, toàn
cầu hoá kinh tế hiện nay không chỉ là vấn đề kinh tế thuần tuý. Nó tạo ra những cơ
hội cho sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế nước ta, cho phép chúng ta tiếp
cận với nền văn minh công nghiệp của thế giới, đồng thời cũng đặt ra rất nhiều
thách thức đối với chúng ta về chính trị, văn hoá, quốc phòng, an ninh…
Xem xét từ góc độ chủ quyền quốc gia, toàn cầu hoá kinh tế hiện nay vừa có
nhưng tác động thuận lợi, vừa đặt ra những thách thức nhất định. Trên một ý nghĩa
nào đó, toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, là một cơ hội để chúng ta phát triển lực
lượng sản xuất, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo ra cơ sở vật
chất cho CHXH và do đó mà có điều kiện và khả năng thực tế để bảo đảm vững
chắc chủ quyền quốc gia. Trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế hiện nay, chúng ta
có nhiều cơ hội để tiếp cận nền khoa học và công nghệ tiên tiến, hiện đại của thế
giới, học hỏi những kinh nghiệm quản lý xã hội, tiếp thu nhưng tinh hoa của nền
văn minh công nghiệp và sử dụng tất cả những cái đó đề tăng cường khả năng bảo
vệ chủ quyền quốc gia của mình.
Tuy nhiên, điều đáng quan tâm hơn là, trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế
hiện nay, chủ quyền quốc gia đang phải đối đầu với nhiều thách thức. Những thách
thức đó khó nhận biết hơn, mang sắc thái mới hơn trước đây (trong điều kiện có
chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc). Đó là những thách thức được che
dấu dưới những chiếc áo khoác nhiều màu sắc hấp dẫn của lợi ích kinh tế, của sự
cám dỗ về vật chất, được nhìn nhận qua những lăng kính ảo của tham vọng cá

nhân, của những chuẩn mực giá trị đạo đức, lối sống sai lệch.
Báo chí phương Tây ra sức tuyên truyền rằng, trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế,
chủ quyền dần dần mất đi, khái niệm chủ quyền đã lỗi thời… Sự thật hoàn toàn
không phải như vậy! Đó chỉ là những luận điệu mở đường cho việc tiến hành xâm
phạm chủ quyền, can thiệp chủ quyền đối với các nước đang phát triển. Cần thấy


rằng, toàn cầu hoá kinh tế hiện nay là một xu thế phát triển trong điều kiện thế giới
vẫn ở vào thời đại quốc gia dân tộc, quan niệm “chủ quyền quốc gia” vẫn là chuẩn
tắc hành động cao nhất của các bên tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế.
Nước ta tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế là một tất yêu khách
quan, nhưng trong điều kiện bất lợi là nền kinh tế của chúng ta còn kém phát triển.
Trong điều kiện đó, việc đảm bảo xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ gặp rất
nhiều khó khăn, chủ quyền về kinh tế luôn bị đe dọa bởi hàng trăm, hàng ngàn
mánh khoé mưu mô hết sức tinh vi và xảo quyệt của các đối tác bên ngoài. Nghị
quyết Đại hội IX của Đảng ta một lần nữa khẳng định chủ trương “Đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ đồng thời tăng
cường chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền
vững. Đó là chủ trương hoàn toàn đúng đắn, là một quyết sách chiến lược, phản
ánh ý chí và lợi ích của nhân dân ta, dân tộc ta trong bảo đảm chủ quyền quốc gia
về kinh tế. Để biến ý chí đó thành hiện thực, chúng ta phải luôn cảnh giác và phải
có những biện pháp hữu hiệu, phải vượt qua nhiều thách thức, nhiều cạm bẫy
không dễ nhận thấy.
Tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế, chúng ta tất yếu phải hội nhập
với các thông lệ quốc tế, nhưng điều đó không có nghĩa là từ bỏ chủ quyền quốc
gia để tuân theo chúng một cách vô điều kiện và bằng mọi giá. Các thông lệ, quy
tắc và định chế quốc tế phổ biến hiện nay đều do các nước tư bản phát triển chi
phối và áp đặt, đều xuất phát từ việc bảo vệ lợi ích của họ, có mặt bất công bằng,
bất hợp lý. Tuy thế, hiện nay các nước đang phát triển đang tiến hành cuộc đấu
tranh kiên trì quyết liệt có hiệu quả để ngăn cản việc ban hành những quy tắc, định

chế quốc tế bất bình đẳng, bất lợi. Vì vậy, chủ động tham gia vào quá trình toàn
cầu hoá kinh tế là nguyên tắc không chỉ có ý nghĩa kinh tế mà cao hơn, lớn hơn là
ý nghĩa bảo vệ chủ quyền quốc gia.
Để bảo vệ chủ quyền quốc gia trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế, chúng ta
cần quán triệt và thực hiện tốt một số vấn đề cơ bản sau đây:
Một là, cần có chiến lược tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế một
cách chủ động tích cực với một “lộ trình ” phù hợp. Không nên cho rằng vì toàn
cầu hoá kinh tế mang dấu ấn “tư bản chủ nghĩa”, có ảnh hưởng xấu nên không đám
hoặc không tự nguyện tham gia. Để không bỏ lỡ các cơ hội phát triển mà toàn cầu
hoá kinh tế đưa lại, chúng ta cần có thái độ tích cực, chủ động. Hiện nay, đối mặt
với những vấn đề những ảnh hưởng xấu của toàn cầu hoá kinh tế đưa lại, chúng ta
cần nghiên cứu hết sức nghiêm túc, hết sức cẩn thận và có đối sách hữu hiệu tương
ứng. Nhưng đối với xu thế phát triển mang ý nghĩa tiến bộ, về tống thể, chúng ta
phải có thái độ khẳng định và tích cực, đồng thời phải lợi dụng triệt để nhưng cơ
hội do nó đem lại để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, tạo ra nền tảng vững chắc cho việc bảo vệ chủ quyền quốc gia.


Hai là, cần thực hiện tốt phương châm tranh chủ và lơi dụng mặt tích cực,
hạn chế mặt tiêu cực, trong quá trình tham gia toàn cầu hoá kinh tế. Toàn cầu hoá
kinh tế là “con dao hai lưới”, mặt tích cực và tiêu cực mà nó mang lại cho từng
quốc gia sẽ không giống nhau. Do vậy, bước đi của chúng ta tham gia vào quá trình
toàn cầu hoá kinh tế cần phải hết sức thận trọng để có thể tranh thủ và lợi đụng triệt
để mặt tích cực trên cơ sở phát huy thế mạnh của chính mình, đồng thời hạn chế
đến mức thấp nhất những mặt tiêu cực do nó đem lại. Đó cũng chính là phương
thức để chúng ta từng bước khẳng định chủ quyền quốc gia thực sự của mình,
không để các nước khác chèn ép và áp đặt quan hệ sản xuất và quan hệ xã hội của
họ đối với chúng ta. Trên thực tế, những bất công, bất bình đẳng vẫn bị che đậy
dưới những hình thức “công bằng” bên ngoài. Báo chí phương Tây thường hay rêu
rao rằng, trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế “trong tôi có bạn, trong bạn có tôi”,

mức độ phụ thuộc giữa các quốc gia ngày càng tăng lên, các nước cùng ở trên một
con thuyền, “vinh cùng vinh, nhục cùng nhục”… Điều đó hoàn toàn trái ngược với
thực tế. Bởi vì, khỉ một số nền kinh tế nào đó gặp khó khăn (nhất là đối với những
nước như nước ta thường rất dễ bị tổn thương) thì một nền kinh tế khác (thường là
tư bản phương Tây) được hưởng lợi. Sự rủi ro của một hoặc một số quốc gia có thể
thúc đẩy sự thành công của một quốc gia khác. Do vậy, trong tiến trình tham gia
vào toàn cầu hoá kinh tế, không thể coi nhẹ nhưng bất bình đẳng, không công bằng
trên thực tế mà nguyên tắc tự do, bình đẳng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa đang
che đậy, không thể chỉ có hô hào “hội nhập” mà không tính đến chủ quyền quốc
gia. Vấn đề có tính nguyên tắc và đặt lên hàng đầu mà chúng ta phải luôn luôn
quán triệt và thực toàn nhất quán khi tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế là
phát triển lực lượng sản xuất theo định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng một nền
kinh tế độc lập, tự chủ, vì độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Ba là, cần phát huy và nghiên cứu năng lực nội sính, khả năng cạnh tranh và
khả năng “tự miễn dịch ” trước các tác động tiêu cực của toàn cầu hoá kinh tế.
Toàn cầu hoá kinh tế là một xu thế phát triển khách quan mà các nước tham gia
phải tuân thủ các quy tắc, chuẩn mực, thông lệ quốc tế nhất định. Nếu chúng ta
không tự “lớn lên”, không tự “trưởng thành” thì sớm muộn cũng bị mất chủ quyền
quốc gia một cách rất “êm dịu”. Mặt khác, toàn cầu hoá kinh tế hiện nay còn là ý
muốn chủ quan của thế giới phương Tây, của chủ nghĩa tư bản độc quyền, là một
“cuộc chiến” không cân sức đối với những nước có nền kinh tế kém phát triển như
nước ta. Do đó, nếu chúng ta không tự tìm ra và phát huy mạnh mẽ năng lực nội
sinh, không tìm ra được những phương thức “tác chiến” phù hợp, có hiệu quả thì
trước sau cũng bị các thế lực “cá lớn” nuốt trôi.
Bốn là, việc hoạch định và thực thi mọi chủ trương, chính sách ở tất cả các
cấp, các ngành trong quá trình tham gia toàn cầu hóa kinh tế cần được đặt trong
mối tương quan giữa kinh tế với chính trị, văn hoá, quốc phòng, an ninh, đối



ngoại… Cần thấy rằng, tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế không chỉ
thuần tuý vì lợi ích kinh tế, vì lợi nhuận, bất chấp mọi lợi ích khác của quốc gia,
của dân tộc. Thế giới ngày nay đang xuất hiện một quá trình “thực dân hoá” kiểu
mới thông qua quá trình toàn cầu hoá kinh tế. Trên một ý nghĩa nào đó, toàn cầu
hoá kinh tế hiện nay là sự bành trướng của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và đi
liền với nó là các giá trị chính trị, tinh thần, đạo đức tư sản. Các công cụ tài chính,
vốn, mậu dịch, thương mại đang được các nước tư bản phát triển sứ dụng như
những “vũ khí” lợi hại nhất để “thôn tính”, “quy phục” những quốc gia không cùng
lợi ích, không cùng ý thức hệ với họ. Đó là một thực tế nghiệt ngã mà chúng ta
không thể coi thường trong quá trình tham gia vào toàn cầu hoá kinh tế. Đặc biệt,
trong lĩnh vực quốc phòng – an ninh, sự tác động của toàn cầu hoá kinh tế đang đặt
ra nhiều bài toán hết sức hóc búa cần có lời giải chính xác. Hiện nay, một hoạt
động nào đó tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế, trước mắt có thể đưa lại
những lợi ích kinh tế lớn, tưởng chừng như vô hại về quốc phòng – an ninh, nhưng
sẽ là một nấc thang cực kỳ nguy hiểm trong ý đồ chiến lược “thôn tính” của chủ
nghĩa tư bản mà ta không dễ thấy ngay. Đó hoàn toàn không phải là sự “tự huyễn
hoặc mình” như một số luận điệu đang rêu rao, mà là một thực tế đã và đang gây
hậu quả nghiêm trọng cho việc bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia.
Tham gia vào quá trình toàn cầu hoá kinh tế và bảo vệ chủ quyền quốc gia là
hai mặt, hai quá trình vừa thống nhất, vừa mâu thuẫn. Vấn đề có ý nghĩa quyết
định là chúng ta cần xác định đúng những quyết sách chiến lược, những bước đi cụ
thể, phù hợp, hết sức tỉnh táo để đảm bảo cho cả hai quá trình đó đều phát triển
theo chiều thuận.. Để hoàn thành nhiệm vụ thiêng liêng và cao cả đó, hơn lúc nào
hết phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nước, của cả hệ thống chính trị, dưới
sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành thống nhất của Nhà nước, giữ vững
độc lập, chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán, toàn vẹn vùng biển nói riêng
và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc nói chung, xây dựng một nước Việt Nam “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, góp phần thực hiện mục tiêu
xây dựng nước ta thực sự trở thanh quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển.




×