Tải bản đầy đủ (.docx) (117 trang)

Dạy học tác phẩm vợ nhặt của kim lân ở trường trung học phổ thông theo đặc trưng thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (693.89 KB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

KIỀU THỊ HÀ

DẠY HỌC TÁC PHẨM "VỢ NHẶT" CỦA KIM LÂN
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2014

i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

KIỀU THỊ HÀ

DẠY HỌC TÁC PHẨM "VỢ NHẶT" CỦA KIM LÂN
Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG
THEO ĐẶC TRƯNG THỂ LOẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN

Chuyên ngành: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)
Mã số: 60 14 01 11


Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. HÀ VĂN ĐỨC

HÀ NỘI - 2014
ii


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận văn, tác giả đã nhận được rất nhiều sự quan tâm,
giúp đỡ. Nhân dịp này, tác giả xin gửi lời cảm ơn chân thành đến quý Thầy
giáo, Cô giáo của trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội đã nhiệt
tình giảng dạy và tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả trong thời gian học tập.
Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành, sâu sắc tới PGS. TS. Hà Văn
Đức - người thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình làm
và hoàn thiện luận văn này.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn tới các bạn đồng nghiệp, các học viên
trong lớp K8 Ngữ văn và thầy cô giáo trường THPT A Kim Bảng, các em học
sinh đã nhiệt tình giúp đỡ và đóng góp ý kiến để luận văn được hoàn thành
đúng tiến độ.
Tuy nhiên, do điều kiện về thời gian và khả năng bản thân có hạn nên
không tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được những ý kiến
đóng góp quý báu của thầy cô giáo.
Xin chân thành cảm ơn !
Hà Nội, tháng 11 năm 2014
Tác giả

Kiều Thị Hà

i



DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ĐHSP

: Đại học Sư phạm

GS

: Giáo sư

G

: Giáo viên :

V

Học sinh

HS

: Nhà xuất bản

NXB

: Phó giáo sư

PGS

: Sách giáo khoa :

SGK


Sách giáo viên

SGV

: Trung học cơ sở

THCS

: Tiến sĩ

TS

i
i


MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn ................................................................................................ i
Danh mục viết tắt ........................................................................................ii .
Mục lục .......................................................................................................iii .
Danh mục các bảng .....................................................................................v .
MỞ ĐẦU................................................................................................ 1
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI ...........................................11 ..
1.1. Thể loại văn học và đặc trưng của tác phẩm tự sự................................11
1.1.1. Quan niệm chung về thể loại văn học ...............................................11 ..
1.1.2. Đặc trưng của loại hình tác phẩm tự sự............................................14 ..
1.1.3. Đặc trưng thể loại truyện ngắn..........................................................19 ..
1.2. Dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại.........................29 ..

1.2.1. Dạy học loại tự sự tác giả ................................................................ 31
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ ĐỊNH HƯỚNG DẠY HỌC
TÁC PHẨM VỢ NHẶT CỦA KIM LÂN THEO ĐẶC TRƯNG
THỂ LOẠI................................................................................................34
2.1. Vị trí, vai trò của nhà văn Kim Lân và truyện ngắn "Vợ nhặt"
trong nền văn học dân tộc...........................................................................34 ..
2.1.1. Kim Lân là một nhà văn một lòng đi về với "đất" với "người",
với "thuần hậu nguyên thủy" của cuộc sống nông thôn ..............................34 ..
2.1.2. Truyện ngắn "Vợ nhặt" và sự kết tinh nhiều giá trị..........................36 ..
2.2. Thực trạng dạy tác phẩm "Vợ nhặt" của Kim Lân ở trường trung
học phổ thông hiện nay ..............................................................................41 ..
2.2.1. Khảo sát thực tế ................................................................................44 ..
2.2.2. Khảo sát giáo viên và học sinh .........................................................45 ..
2.2.3. Nhận xét và kết luận về thực trạng....................................................53 ..
2.3. Định hướng dạy học tác phẩm "Vợ nhặt" của Kim Lân theo đặc
trưng thể loại ..............................................................................................55 ..
2.3.1. Định hướng chung ............................................................................55 ..
2.3.2. Định hướng dạy học tác phẩm "Vợ nhặt" theo đặc trưng thể loại ............58 ..
Chương 3: GIÁO ÁN VÀ THỰC NGHIÊM...........................................74 ..
3.1. Thiết kế giáo án thực nghiệm ..............................................................74 ..

iii


3.2. Những vấn đề chung của thực nghiệm.................................................93 ..
3.2.1. Mục đích thực nghiệm......................................................................93 ..
3.2.2. Đối tượng, địa bàn và thời gian thực nghiệm ................................ 94
3.3. Nội dung và tiến trình thực nghiệm .....................................................95 ..
3.3.1. Nội dung thực nghiệm ......................................................................95 ..
3.3.2. Tiến trình thực nghiệm ................................................................ 95

3.4. Kết quả thực nghiệm ...........................................................................96 ..
3.4.1. Tiến hành kiểm tra............................................................................96 ..
3.4.2. Kết quả kiểm tra ..............................................................................96 ..
3.5. Đánh giá kết quả thực nghiệm .............................................................97 ..
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ..........................................................1.00 ..
1. Kết luận................................................................................................ 100
2. Khuyến nghị..........................................................................................1.01 ..
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................1.02 ..
PHỤ LỤC................................................................................................ 105

iv


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1.

Tổng hợp từ 11 giáo viên trường THPT A Kim Bảng và 13
giáo viên Trường THPT B Kim Bảng huyện Kim Bảng tỉnh Hà
Nam………………………………..……………………

Bảng 2.2.

Tổng hợp 175 phiếu của trường THPT A Kim Bảng và
Trường THPT B Kim Bảng huyện Kim Bảng tỉnh Hà Nam.

Bảng 3.1.

46

48


Tổng hợp kết quả (tính ra %) của lớp thực nghiệm và lớp đối
chứng………………………………………………..…..

97

v


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Mỗi tác phẩm văn học đều tồn tại dưới hình thức một loại thể nhất định.
Vì vậy muốn dạy học hiệu quả thì việc xác định được thể loại là một vấn đề mấu
chốt trong dạy học tác phẩm văn chương. Thể loại chính là chìa khóa để khám
phá được tầng nghĩa sâu của tác phẩm. Việc dạy học tác phẩm văn chương hiện
nay ở nhà trường phổ thông còn nhiều hạn chế do chúng ta chưa ý thức được
tầm quan trọng của thể loại. Một thực tế hiện nay cho thấy chưa có nhiều tài liệu
đi sâu vào việc hướng dẫn dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể loại
một cách tường tận. Do đó, giáo viên không tránh khỏi những khó khăn lúng
túng trong cách soạn giáo án cũng như trong cách dạy học các tác phẩm cụ thể.
1.2. Tác phẩm truyện ngắn được tuyển vào giảng dạy ở chương trình phổ thông
khá đa dạng và phong phú của các tác giả tiêu biểu làm nên diện mạo văn học
Việt Nam. Các tác phẩm truyện ngắn được đưa vào giảng dạy ở phổ thông chiếm
3/4 số lượng các tác phẩm trong chương trình. Điều này phản ánh đúng tương
quan của thành tựu truyện ngắn so với những thể loại văn xuôi khác trong đời
sống văn học của chúng ta. Mặc dù vậy, việc phân tích giảng dạy truyện ngắn
còn chưa chú ý đúng mức và chưa làm nổi bật đặc trưng thể loại. Phần lớn mới
chỉ chú ý đến đặc trưng "truyện" mà chưa chú ý đến "truyện ngắn". Nếu chỉ
phân tích nhân vật, cảnh vật, cốt truyện, kết cấu…không thôi thì chưa làm nổi bật
đặc trưng thể loại truyện ngắn.

1.3. Trong nền văn học Việt Nam, Kim Lân là nhà văn không có nhiều đầu tác
phẩm, nhưng những tác phẩm của ông vẫn mãi mãi neo đậu trong tâm hồn bạn
đọc. Nó để lại dấu ấn lâu bền trong lòng độc giả, thôi thúc trái tim ta hướng về
nơi quê hương nguồn cội, bởi Kim Lân được chắt ra từ cuộc đời của chính nhà
văn, từ sự hội tụ của những yếu tố quê hương, cộng đồng và thời đại. Gia tài
của Kim Lân không nhiều, từ truyện ngắn đầu tay: Đứa con người vợ lẽ đăng
ở báo Trung Bắc chủ nhật số 120 ngày 26/7/1942 đến
1


những tập truyện ngắn tiêu biểu Nên vợ nên chồng, Con chó xấu xí đã xếp
ông vào số ít nhà văn có thể minh chứng cho chân lí "quý hồ tinh, bất quý hồ
đa" trong nghệ thuật. Với một đời văn khá dài hơn năm mươi năm cầm bút, ông
chỉ trình làng trên ba mươi tác phẩm, nhưng nhà văn Kim Lân lại là một trong
những gương mặt xuất sắc nhất trong nền văn học Việt Nam.
Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân là một trong những tác phẩm xuất sắc
của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam, đã phản ánh chân thực nạn đói của dân tộc
năm 1945, và cũng là một trong những tác phẩm tiêu biểu của dòng văn học
Việt Nam sau Cách mạng Tháng 8 - 1945. Tác phẩm được đưa vào giảng dạy
trong chương trình Ngữ văn lớp 12, được khai thác trên nhiều bình diện: giá trị
hiện thực, giá trị nhân đạo, tình huống truyện độc đáo… Các ý kiến đó thật phong
phú, tuy nhiên đối với mỗi một tác phẩm văn học thì có rất nhiều con đường giải
mã khác nhau, chưa có sự thống nhất với nhau. Mặc dù đã có nhiều hướng dạy
học được đưa ra khi giảng dạy tác phẩm này, nhưng mạch ngầm khai thác chưa
cạn kiệt, nó là nguồn tài nguyên vô cùng phong phú cho mỗi người giáo viên
khai thác để truyền thụ cho học sinh.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi tiến hành và lựa chọn đề tài:
"Dạy học tác phẩm "Vợ nhặt" của Kim Lân ở trường trung học phổ thông
theo đặc trưng thể loại " làm luận văn thạc sĩ.
2. Lịch sử vấn đề

2.1. Lịch sử nghiên cứu dạy học tác phẩm văn chương theo đặc trưng thể
loại
Vấn đề thể loại đã được các nhà lí luận văn học quan tâm từ khá sớm.
Đặc biệt vấn đề lí luận về thể loại chủ yếu được nghiên cứu đúc kết, biên dịch
trong các bộ giáo trình đại học, cao đẳng cùng một số chuyên luận của Giáo sư
Hà Minh Đức, Giáo sư Phương Lựu, Giáo sư Trần Đình Sử. Tiếp đến là một số
công trình nghiên cứu liên quan đến loại thể văn học như của GS Đặng Thai Mai,
PGS Hoàng Tiến Tựu, PGS Nguyễn Đăng Na… Từ những góc độ khác nhau, các
tác giả cũng có những quan điểm về thể loại trong tiếp nhận,
2


nghiên cứu, sáng tác… phần nào giúp cho đông đảo giáo viên văn có được cái
nhìn mới mẻ, phong phú về thể loại. Tuy vậy, những giáo trình, những
chuyên luận về giảng dạy văn học trong nhà trường theo thể loại không nhiều.
Mấy vấn đề giảng dạy văn học theo loại thể (1970) của nhóm tác giả Trần
Thanh Đạm, Huỳnh Lý, Hoàng Như Mai, Phan Sĩ Tấn, Đàm Gia Cẩn và
Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể (2001) của PGS. TS
Nguyễn Viết Chữ là những tài liệu vẫn thường được sử dụng làm tài liệu tham
khảo cho sinh viên Ngữ văn và học viên cao học ngành Lí luận và phương
pháp dạy học văn.
Mặt khác những công trình nghiên cứu về đặc trưng của các thể loại văn
học hầu như chưa có. Khi chương trình sách giáo khoa Ngữ văn mới được tổ
chức biên soạn theo cụm thể loại và dạy học đọc - hiểu theo đặc trưng thể loại thì
những công trình về thể loại nói chung tỏ ra xa rời thực tiễn. Lí luận về loại thể
văn học chưa được nghiên cứu và vận dụng tương xứng với tầm quan trọng
của nó. Ngay cả trong chương trình Ngữ văn phổ thông, lí luận về loại thể văn
học cũng không được đề cập tới.
Gần đây, đã có một số chuyên đề đặc biệt về đặc trưng thể loại. PGS Đỗ
Bình Trị có chuyên đề Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn học dân

gian. Tác giả Hoàng Ngọc Hiến có Nhập môn văn học và Phân tích thể loại.
PGS, TS Nguyễn Thành Thi có chuyên đề về Đặc trưng truyện ngắn Thạch
Lam, Đặc trưng truyện ngắn giai đoạn 1930 - 1945... Hiện nay, trên các tạp
chí, các đợt tập huấn đổi mới phương pháp dạy học văn, tập huấn thay sách…
đều có đề cập đến vấn đề giảng dạy văn theo đặc trưng thể loại Đời sống thể loại văn
học Việt Nam nửa đầu thế lỉ XX - Vũ Tuấn Anh;
Mô hình đọc hiểu theo đặc trưng thể loại với việc hình thành và bồi dưỡng
kĩ năng đọc hiểu văn bản văn chương cho học sinh trung học phổ thông Trần Thị Thu Hồng… Các chuyên luận, bài viết đã đi sâu vào tìm hiểu đặc trưng của
một bộ phận văn học, một giai đoạn văn học. Đó là một sự vận dụng cụ thể, có
đóng góp nhiều cho dạy học văn. Những vấn đề các tác giả
3


đặt ra một mặt giúp cho người giáo viên văn ở trường phổ thông có được
những kiến thức cơ bản, hệ thống về đặc trưng thi pháp của các thể loại từ đó
giúp cho công việc giảng dạy thuận lợi và có hiệu quả. Mặt khác, các tài liệu
cũng đã trình bày những quan điểm mới mẻ bổ sung cho những quan điểm
thường thấy trong những công trình lí luận đang lưu hành ở nước ta.
2.2 Các công trình nghiên cứu về Kim Lân
Kim Lân là nhà văn gần gũi, quen thuộc với công chúng, ngay từ những
tác phẩm đầu tay của mình, ông đã được nhiều người giới thiệu, phê bình. Ông
được xem xét kĩ lưỡng ở từng giai đoạn sáng tác, ở chân dung con người và cả
lĩnh vực tiểu luận, phê bình....
2.2.1 Trước năm 1975
Nhà văn Nguyên Hồng, trong: Những nhân vật ấy đã sống với tôi đã đưa
ra nhận xét về nội dung tư tưởng và giọng điệu của các tác phẩm của Kim Lân:
"Từ giữa những năm 1943 - 1945 ấy, tôi đã đọc được mấy truyện của Kim
Lân… Thoạt tiên tôi những chẳng không để ý mà còn thấy cái tên Kim Lân chương
chướng thế nào ấy, hình như định chọi, định đả chữ với nhau với một số tên
như Mộng Ngọc, Mộng Dương hay Hoài Trạch, Hoài Tâm… lúc bấy giờ vậy.

Nhưng rồi chỉ bập vào mấy truyện của anh mà tôi thấy không phải loại ướt át
một cách bợm bãi, trái lại có cái gì đó chân chất của đời sống con người nghèo
hèn, khổ đau, giọng văn nhiều rung cảm thắm thiết đặc
biệt lại gần gũi với mình".[14, tr.103]
Ở những tác phẩm đầu tay, Kim Lân dường như chưa ý thức phản ánh
vấn đề gì có ý nghĩa hiện thực sâu sắc, nhưng chất hiện thực cứ toát ra một
cách tự nhiên từ những hình tượng nhân vật của ông. Nhân vật trong những
trang viết của Kim Lân chủ yếu là những người nông dân nghèo khổ - con
người gần gũi với quê hương ông, lam lũ, từ cuộc sống thực tế bước trực tiếp vào
văn học. Nguyên Hồng, Lại Nguyên Ân cũng đã đưa ra nhận xét về các nhân
vật trong trang văn của Kim Lân như sau: "Đọc văn xuôi Kim Lân ta bắt gặp cái
thế giới của những người nông dân nghèo vốn là "hạng hạ lưu" ở xã
4


hội cũ: Những người nông dân miền xuôi mất nhà, mất đất, xiêu dạt lên miền
ngược, táp vào một xóm chợ, bến sông, một góc phố hay ven đồn điền, một
xóm trại, tiếp tục vật lộn với miếng sống sơ đẳng hàng ngày ".[14, tr 110]
Nhà nghiên cứu Vương Trí Nhàn trong cuốn Nhà văn Kim Lân - chân
dung văn học thật có lí khi lí giải rằng: "hình như mẫu người đầu thừa đuôi
thẹo đã gửi một đại diện của họ vào văn học và Kim Lân đã làm việc này một
cách đương hoàng chững chạc".[24, tr 47]
Trong Tổng tập văn học Việt Nam GS Nguyễn Đăng Mạnh một lần nữa
bộc lộ cái nhìn về số phận của những kiếp người thấp cổ bé họng trong xã hội cũ
và cái nhìn về phong tục tập quán, những thú vui, trò chơi dân gian: "Đó là
những trang số phận của những đầu thừa đuôi thẹo được đưa từ các xó xỉnh
tối khuất lên mặt giấy trắng chứa chất nhân thế, nhân tình hoặc những trang
tuy nghiêng nhiều về phía phong tục, trình bầy những thú chơi lành mạnh
nhưng vẫn biểu hiện được một phần vẻ đẹp tâm hồn của những người nông
dân trước Cách mạng Tháng Tám những người sống vất vả, khổ

nghèo nhưng vẫn yêu đời, trong sáng, thông minh, tài hoa". [27, tr 5]
Không những thế, GS còn đưa ra những nhận xét thật sắc sảo về những
phong tục, tập quán mà Kim Lân đã thể hiện trong truyện ngắn của mình: "Văn
Kim Lân tỏ ra độc đáo, hấp dẫn hơn khi ông viết về những cái gì gọi là "thú
đồng quê" hay phong lưu đồng ruộng". Rồi ông lại tiếp tục lí giải: "Sở dĩ có sự
hấp dẫn không phải vì ở đấy những tập quán ngộ nghĩnh, kì lạ,những thú chơi
phiền phức, cầu kì được trình bầy cặn kẽ mà chính là nhà văn đã thể hiện lên
được những con người ở làng quê độc đáo kia, tuy nghèo khổ mà vẫn
yêu đời" [27, tr 72]
Nguyễn Khải một trong những tác giả nổi tiếng của nền văn học Việt Nam
hiện đại đã khái quát lại toàn bộ truyện ngắn Kim Lân: "Nếu nhìn một cách hệ
thống từ những nhân vật xuất hiện trong tác phẩm viết trước Cách mạng đến
những tác phẩm sau này, người đọc dễ nhận ra nét riêng của Kim Lân là: Một
ngòi bút cẩn thận, tỉ mỉ, sâu lắng, luôn luôn cố gắng đi đến tận
5


cùng nỗi niềm, tâm trạng từng con người, từng số phận riêng, để từ đó góp
một tiếng riêng vào trang sử riêng vào tâm tư tình cảm con người Việt Nam
hiện đại".[40, tr 75]
Đọc truyện ngắn Kim Lân, người đọc dễ dàng bị cuốn hút bởi những tố
chất, vẻ đẹp dung dị, kín đáo của con người làng quê Bắc Bộ - những con
người lịch lãm hào hoa và đầy tinh thần thượng võ. Đánh giá cao nghệ thuật
truyện ngắn Kim Lân qua bài viết Sử dụng ngôn ngữ nghệ thuật đặc sắc của
truyện Kim Lân tác giả Bảo Nguyên đã cho rằng: "Kim Lân lựa chọn những từ
ngữ mang hơi thở của cuộc sống hàng ngày để diễn đạt với chúng cuộc sống
miền quê với những con người giản dị mà mến yêu" [40, tr 84]. Điều đó có lẽ đã
làm cho tác phẩm của Kim Lân mang giá trị hiện thực và tạo cho ông một phong
cách rất riêng về bố cục, kết cấu giọng điệu, ngôn ngữ, cách tả
người tả việc…

Tác giả Bảo Nguyên còn rất tinh tế khi bổ sung thêm rằng giọng văn chủ
đạo của Kim Lân thường trầm sáng như giọng ca dao cổ tích. Nhịp văn của
ông chậm, gọn…đó là một thứ giọng điệu phù hợp với quang cảnh nông thôn với văn
minh nông nghiệp…Còn trong các truyện tâm lí xã hội của Kim Lân ta thường bắt gặp
một giọng kể giản dị độc đáo.
Trong số các bài nghiên cứu, phê bình về Kim Lân vào những năm
tháng này, đáng ghi nhận nhất là hướng đi thẳng vào văn bản để tìm kiếm
những nét đặc sắc, độc đáo. Nhờ vậy các ý kiến đưa ra có sức thuyết phục cao.
Song những bài nghiên cứu, chuyên luận nghiên cứu chuyên sâu có hệ thống về
thi pháp truyện ngắn Kim Lân chưa có nhiều.
2.2.2. Sau năm 1975
Từ sau năm 1975, việc nghiên cứu về Kim Lân có sự phát triển và mở rộng
thêm nhưng phần lớn các ý kiến chủ yếu dừng lại ở đánh giá quan điểm lập
trường tư tưởng trực diện vấn đề phong cách qua văn bản nghệ thuật. Tuy vậy,
nhìn chung các sáng tác của Kim Lân được xem xét với một thái độ trân

6


trọng. Ông được nhìn nhận như một hiện tượng khá đặc biệt trong số những
nhà văn viết về đề tài nông thôn.
Tác giả Trần Ninh Hồ trên báo văn nghệ số 34 (1991) đã nhận xét về
Kim Lân đó là tuy tầm vóc, vị trí của mỗi nhà văn một khác nhau, nhưng Kim
Lân là nhà văn thường đến với ta trong những khoảng chợt nhớ của đời người khó
mà diễn tả thành lời.
Năm 2005 tác giả Đặng Thị Huy Lam trong luận văn: Đặc điểm truyện ngắn
Kim Lân đã dành hai chương để khảo sát về nghệ thuật dựng truyện và
xây dựng nhân vật, về ngôn ngữ, giọng điệu nhân vật truyện ngắn Kim Lân.
Nhà thơ Hữu Thỉnh Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam nhận xét: "Văn Kim
Lân luôn mang đậm hồn quê, sự kế tục ngôn ngữ, phong tục của người

Việt Nam".[40, tr 98]
Năm 2006 tác giả Nguyễn Quỳnh Thanh trong luận văn: Cảm hứng chủ
đạo và nghệ thuật trần thuật trong truyện ngắn Kim Lân đã đề cập đến cảm
hứng chủ đạo, phân tích trần thuật và cấu trúc trần thuật trong truyện ngắn Kim
Lân.
Như vậy, qua việc trình bày các công trình nghiên cứu ở trên về tác giả
Kim Lân cũng như giá trị sáng tác của ông, chúng tôi có thể đi đến kết luận
rằng: Đã có nhiều công trình nghiên cứu, tìm hiểu về tác giả Kim Lân và các tác
phẩm của ông ở nhiều góc độ, bình diện khác nhau: nội dung tác phẩm, ngôn
ngữ, giọng điệu, kết cấu, thi pháp phong cách… Song những bài nghiên cứu,
chuyên luận nghiên cứu sâu về nét riêng thi pháp truyện ngắn Kim Lân chưa có
nhiều. Những năm gần đây có nhiều luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ về các tác
phẩm của Kim Lân song chưa có công trình nào bàn trực tiếp về hướng dạy học
truyện ngắn này. Chính vì vậy, việc đưa hướng dạy học truyện ngắn hiện thực
trong văn học Việt Nam nói chung và truyện ngắn Kim Lân nói riêng cần được
quan tâm nghiên cứu để tìm ra hướng dạy học phù hợp, hiệu quả. Luận văn của
chúng tôi nghiên cứu về đề tài này trên cơ sở gợi mở của những người đi trước.
7


2.3. Các công trình nghiên cứu về tác phẩm "Vợ nhặt" của Kim Lân
Truyện ngắn Vợ nhặt được Kim Lân viết sau hoà bình 1954. Vì vậy vẻ
đẹp của tình người, cảm hứng nhân bản, nhân đạo đằm thắm, mang ý nghĩa cao
rộng hơn so với những truyện trước đó (Đứa con người vợ lẽ, Cô Vịa, Làng,
Con chó xấu xí). Tình người trong câu chuyện phải chăng là sự cảm thương,
đùm bọc, nương tựa vào nhau cùng chống lại cái đói, nghèo hèn trong những
đêm đen của cuộc sống mà xây dựng lại cuộc đời mình, vun đắp cho hạnh phúc
trước mắt và gia đình về sau… Từ những giá trị trên theo chúng tôi tìm hiểu, truyện
ngắn Vợ nhặt của Kim Lân đã có một số công trình nghiên
cứu sau:

- "Xây dựng tình huống có vấn đề để phát huy tính tích cực, sáng tạo
của học sinh trong quá trình dạy học tác phẩm "Vợ nhặt" của Kim Lân" ĐHSP Hà Nội - 2006 của Trần Thị Quỳnh Hoa.
- "Dạy học truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân cho học sinh trung học
phổ thông từ cái nhìn văn hoá" - ĐHSP Hà Nội - 2006 của Nguyễn Thị Thu
Thảo.
- "Hướng dẫn học sinh phân tích chất thơ của đời sống trong truyện
ngắn "Vợ nhặt của Kim Lân""- ĐHSP Hà Nội 2012 của Nguyễn Thu Nga.
Ngoài ra tác phẩm "Vợ nhặt" còn có trong một số đề tài nghiên cứu
khác về các truyện ngắn của Kim Lân như:
- "Những giá trị tiêu biểu về tư tưởng và nghệ thuật của truyện ngắn
Kim Lân" - ĐHSP Hà Nội - 1997 của Nguyễn Văn Bao.
- "Những đặc sắc của truyện ngắn Kim Lân" - ĐHSP Hà Nội - 2003 của
Nguyễn Tiến Đức.
- "Nông thôn và hình ảnh người dân trong sáng tác của Kim Lân"ĐHSP Hà Nội - 2003 của Mã Thu Ngà.
- "Phong cách nghệ thuật Kim Lân" - ĐHSP Hà Nội - 2004 của Nguyễn
Thị Thu.

8


Bên cạnh những công trình nghiên cứu liên quan đến tác phẩm Vợ nhặt
về tác phẩm Vợ nhặt còn phải kể đến những bài phân tích, bình giảng về
truyện ngắn Vợ nhặt - một tác phẩm được chọn giảng trong nhà trường ở
chương trình lớp 12.
- Bài phân tích tác phẩm Vợ nhặt trong "Để học tốt Ngữ văn 12" .
- Bài viết "Sự sống đối mặt với cái chết" của Nguyễn Thị Thanh Cảnh
trong "Tiếng nói tri âm" - tập 1.
- Bài "Tác giả Kim Lân và hình tượng người đàn bà không tên trong
"Vợ nhặt"" của Trương Vũ Thiên An trên báo Giáo dục và thời đại - 1998.
Đây là những công trình khoa học nghiên cứu một cách công phu và hệ

thống nêu bật được những giá trị tiêu biểu về nội dung và ngệ thuật của truyện ngắn
Kim Lân nói chung, tác phẩm Vợ nhặt nói riêng. Đồng thời cũng có một số bài
đã đưa ra hướng dạy học tác phẩm này. Tuy nhiên hướng dẫn học sinh tìm hiểu
tác phẩm này theo đặc trưng thể loại thì chưa có tác giả nào đi sâu nghiên cứu.
Vì vậy, chúng tôi đã đi đến quyết định lựa chọn đề tài này làm luận văn thạc sĩ.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Tìm ra những biện pháp tối ưu nhất góp phần
nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc dạy học tác phẩm: Vợ nhặt ở nhà
truyện ngắn trong chương trình.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất: Tìm hiểu về thể loại văn học, đặc trưng loại hình tác phẩm tự
sự, đặc trưng thể loại truyện ngắn.
Thứ hai: Tìm hiểu về thực trạng dạy học tác phẩm Vợ nhặt ở một số
trường trên địa bàn huyện Kim Bảng. Tiến hành nghiên cứu, khảo sát thực tiễn
để từ đó xác định hướng dạy học hợp lí và hiệu quả cho việc dạy học tác phẩm
Vợ nhặt ở nhà trường trung học phổ thông hiện nay.

9


Thứ ba: Thiết kế giáo án giảng dạy tác phẩm Vợ nhặt và đề xuất một số
biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy truyện ngắn: Vợ nhặt của Kim Lân ở
trường trung học phổ thông.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Phương pháp dạy học tác phẩm Vợ nhặt của
Kim Lân theo đặc trưng thể loại.
Phạm vi nghiên cứu: Truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp loại hình.
Phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu.

Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài
Chương 2: Thực trạng và định hướng dạy học tác phẩm: "Vợ nhặt" của
Kim Lân ở trường trung học phổ thông
Chương 3: Giáo án và thực nghiệm

10


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI
1.1. Thể loại văn học và đặc trưng của tác phẩm tự sự
1.1.1. Quan niệm chung về thể loại văn học
Theo GS Trần Đình Sử trong Lí luận văn học tập 2 (NXB Đại học Sư
phạm 2008) " Thể loại văn học là khái niệm chỉ quy luật loại hình của tác
phẩm trong đó ứng với một loại nội dung nhất định của một loại hình thức nhất
định tạo cho tác phẩm" [34, tr 221].
Theo Từ điển thuật ngữ văn học NXB Giáo dục: " Thể loại văn học là
dạng thức của tác phẩm văn học, được hình thành và tồn tại tương đối ổn định
trong quá trình phát triển lịch sử văn học thể hiện ở sự khác nhau về cách thể hiện
chủ đề tác phẩm, về đặc điểm của các hiện tượng đời sống được miêu tả về tính
chất của mối 3quan hệ của nhà văn với các hiện tượng đời sống ấy." [41, tr 252 25].
Trong quá trình sáng tác, các nhà văn thường sử dụng các phương pháp
chiếm lĩnh đời sống khác nhau thể hiện những quan niệm thẩm mĩ khác nhau đối
với hiện thực, có những cách xây dựng hình tượng khác nhau. Các phương
thức ấy ứng với những hình thức hoạt động nhận thức khác nhau làm cho tác
phẩm văn học bao giờ cũng có sự thống nhất quy định lẫn nhau về loại đề tài,

cảm hứng, hình thức nhân vật, hình thức kết cấu và hình thức lời văn. Người ta
có thể tập hợp thành từng nhóm tác phẩm văn học giống nhau về phương thức
miêu tả và hình thức tồn tại chỉnh thể ấy. Đó là cơ sở khách quan của sự tồn tại
thể loại văn học và cũng là điểm xuất phát để xậy dựng nguyên tắc phân chia thể
loại văn học.
Thể loại văn học trong bản chất phản ánh những khuynh hướng phát
triển bền vững, vĩnh hằng của văn học, và các thể loại văn học tồn tại để giữ gìn,
đổi mới thường xuyên các khuynh hướng ấy. Do đó thể loại văn học luôn vừa
mới, vừa cũ, vừa biến đổi, vừa ổn định.

11


Lí luận văn học dựa vào các yếu tố ổn định mà chia tác phẩm văn học
thành các loại và các thể. Loại rộng hơn thể, thể nằm trong loại. Bất kì tác
phẩm văn học nào cũng thuộc một loại nhất định, và quan trọng hơn là có một
hình thức thể nào đó. Loại và thể mang tính chất biện chứng của cái biểu đạt và
cái được biểu đạt. Về phương diện cấu trúc nội dung của tác phẩm văn học thì loại
là chất mà thể là hình thức biểu hiện cụ thể của loại, không có thể thì loại không
không biểu hiện ra được. Nhưng khi đã biểu hiện ra thành thể thì nó lại có tính
độc lập tương đối. Cuốn Lí luận văn học của GS Hà Minh Đức, Đỗ Văn Khang,
Phạm Quang Long khẳng định rằng: Tính chất tương đối của ranh giới thể loại
còn biểu hiện ở sự thâm nhập lẫn nhau giữa các thể loại trong quá trình phát
triển. Có khi các tác phẩm khác nhau thuộc một thể tài lại biểu hiện tính chất của
những loại khác nhau. Ví dụ thể thơ thì có thơ tự sự, thơ trữ tình, kịch
thơ…Thực tế các tác phẩm văn chương cho thấy rằng khó có thể xác định máy móc
tác phẩm này là thể loại tự sự, trữ tình hay kịch. Trong tác phẩm trữ tình có
yếu tố tự sự và ngược lại. Một tác phẩm văn chương luôn chịu sự ràng buộc từ
hai phía loại và thể. Loại và thể phụ thuộc chặt chẽ với nhau nhưng vẫn có tính
độc lập tương đối.

Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng có ba loại. Mỗi loại trên gồm một số
thể nhỏ:
* Loại tự sự: phản ánh đời sống trong tính khách quan (tương đối) của nó qua con người, hành vi, sự kiện được kể lại bởi một người kể chuyện nào đó.
Loại tự sự bao gồm: Tự sự dân gian: thần thoại, truyền thuyết, cổ tích,
ngụ ngôn, truyện cười.Tự sự trung đại và hiện đại: truyền kì, tiểu thuyết, truyện
vừa, kí.
* Loại trữ tình: biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của con người. Trong tác
phẩm trữ tình, tình cảm, cảm xúc, tâm trạng, suy nghĩ… được trình bày trực tiếp
và làm thành nội dung chủ yếu của tác phẩm. Tác giả có thể biểu hiện cảm xúc
cá nhân của mình mà không cần kèm theo bất cứ một sự miêu tả biến cố, sự kiện
nào.
12


Loại trữ tình gồm: Trữ tình dân gian: tục ngữ, ca dao, dân ca, vè, câu
đối. Trữ tình trung đại và hiện đại: thơ cổ thể truyền thống, thơ tự do…
* Loại kịch gồm: Kịch bản văn học: chỉ là một yếu tố, dù đó có thể là một trong
những yếu tố đầu tiên và quan trọng nhất của kịch. Nghệ thuật sân khấu: mang
tính chất tổng hợp bao gồm nhiều hoạt động của diễn viên, đạo diễn,
hoá trang, ánh sáng, âm thanh…
Bên cạnh việc nắm vững đặc điểm của mỗi loại, chúng ta có thể dựa
vào thi pháp tư tưởng, phong cách, cái "tạng" riêng của từng nhà văn để khám
phá ra "chất của loại" trong tác phẩm cụ thể.
Ví dụ: Nam Cao là một nhà văn hiện thực, ngòi bút của ông thường thể hiện
những nỗi đau sâu kín trong tâm hồn con người, để rồi từ đấy tiếng tơ đàn thánh
thiện của tâm linh được bật lên tràn đầy vẻ nhân văn. Tác phẩm của Nam Cao
thường thể hiện nỗi đau tinh thần giằng xé trong tâm hồn con người, con người
trong tình huống bị hạ nhục; cái nhục bị đẩy lên tận cùng là lúc nhân tính phát
sáng. Tác phẩm của Nam Cao thường có nhiều tầng bi kịch. Nếu không xác định
được tầng tư tưởng của nhà văn, ta chỉ mới dạy học ở tầng nghĩa cụ thể nào đó. Ở

trong các tác phẩm của Ngô Tất Tố thì lại mang một phong cách riêng, các tác
phẩm của ông thường vang lên tiếng kêu cứu của những người bần cố nông
nhất là phụ nữ và trẻ em. Trong tác phẩm của Nguyễn Công Hoan là những tấn
bi hài kịch của những kiếp người. Thạch Lam cũng vậy. Cái riêng của ông là
thể hiện vẻ đẹp tình người kín đáo, đằm thắm, khẽ khàng, sâu xa lắng đọng.
Chất "thơ văn xuôi", "chất trữ tình hiện thực" tràn đầy trong tác phẩm của ông.
Chúng ta phải dạy học tác phẩm của Thạch Lam theo hướng với tác phẩm trữ
tình cho dù nó là truyện. Xuân Diệu và Tản Đà dù có viết truyện ngắn thì vẫn là
truyện trữ tình của nhà thơ. Nguyên Hồng có làm thơ thì cũng là thơ của các
tác giả văn xuôi. Qua "tạng nghệ sĩ" có thể khám phá ra "chất của loại" trong tác
phẩm là vì vậy.
Ngoài ra, chúng ta có thể nhận biết loại thể qua những dấu hiệu của tổ
chức cấu trúc, cách thể hiện của tác phẩm. Loại tự sự thường có tiết tấu đầu 13


giữa - cuối (trừ thể loại thần thoại), người kể chuyện ở dạng ngôi thứ nhất
tham dự, không tham dự, thông suốt, thông suốt có lựa chọn, khách quan…
trước mọi sự vật, sự việc trong truyện… Loại trữ tình thường dễ nhận biết qua trạng
thái tình cảm, giọng nói của nhân vật trữ tình, giọng điệu của hệ thống thanh
âm, giọng thơ, các hình thái tu từ… Loại kịch thường biểu hiện qua
những mâu thuẫn với những diễn biến phức tạp…
Tóm lại việc xác định thể loại văn học chỉ có tính chất tương đối. Song vẫn
cần thống nhất rằng thể loại là dạng thức tồn tại chỉnh thể tác phẩm. Thể loại văn
học là sự thống nhất giữa loại nội dung và một dạng hình thức văn bản và
phương thức chiếm lĩnh đời sống.
1.1.2. Đặc trưng của loại hình tác phẩm tự sự
Loại hình tự sự khác hẳn loại trữ tình và kịch. Nếu như ở thể loại trữ
tình biểu hiện trực tiếp thế giới chủ quan của con người; tình cảm, cảm xúc, tâm
trạng, suy nghĩ được trình bày trực tiếp làm thành nội dung chủ yếu của tác
phẩm. Ở đó tác giả có thể biểu hiện cảm xúc cá nhân mình mà không kèm theo bất

cứ một sự miêu tả biến cố sự kiện nào; thì ở kịch lại khác. Kịch bắt đầu từ xung
đột, đó là sự phát triển cao nhất sự mâu thuẫn của hai hay nhiều lực lượng đối lập
thông qua một sự kiện hay một diễn biến tâm lí cụ thể được thể hiện trong mỗi màn
mỗi hồi kịch. Còn loại tự sự phản ánh đời sống trong tính khách quan của nó qua
con người, hành vi, sự kiện được kể lại bởi một người kể chuyện nào đó. Tác
phẩm tự sự hầu như không bị hạn chế bởi không gian và thời gian. Nó có thể kể về
khoảnh khắc hay những sự kiện xảy ra hàng trăm năm. Tầm bao quát cuộc sống
trong tác phẩm rộng lớn. Nhân vật tự sự được khắc hoạ đầy đặn nhiều mặt: bên
trong, bên ngoài, cả điều nói ra và không nói ra, cả ý nghĩ, cả cái nhìn, cả cảm
xúc, tình cảm, ý thức và vô thức, cả quá khứ, hiện tại và tương lai. Tác phẩm tự
sự nào cũng có hình tượng người trần thuật của nó. Hình tượng người trần thuật,
kể chuyện rất đa dạng: khách quan, ngôi thứ nhất, thông suốt, thông suốt có lựa
chọn… và cũng có khi người kể chuyện như một nhân vật… khi thâm nhập, khi
gián cách, khi
14


đứng ngoài, khi hoà nhập… ít nhiều ta vẫn nhận ra thái độ của họ. Lời văn
của loại tự sự có thể là văn vần hay văn xuôi nhưng luôn hướng người đọc ra thế
giới đối tượng, khác hẳn lời trữ tình hướng sự chú ý tới cảm xúc, ý định chủ
quan của người nói, khác hẳn lời thoại trong kịch. Lời nói của nhân vật tự sự là
một thành phần, một yếu tố của văn tự sự. Nó xuất hiện gắn liền với sự miêu tả.
Trong tự sự, không có chỗ cho những lời thổ lộ trữ tình độc lập, hay tự biểu
hiện một cách trực tiếp, cái đó chủ yếu dành cho nhân vật. Vì vậy mà trong tự
sự vẫn chấp nhận ngôn ngữ đa thanh, đa nghĩa, nửa trực tiếp, nửa gián tiếp.
Văn tự sự có chức năng tái hiện, phân tích sự vật qua miêu tả và thuyết minh.
Tái hiện toàn bộ thế giới bao gồm bên ngoài và bên trong của con người nhưng
đều xem chúng như là những sự kiện khác nhau về đời sống con người, xã hội.
Không gian và thời gian không bị hạn chế, nhà văn có thể thể hiện những vùng
đất khác nhau, có thể lùi về dĩ vãng hay đắm mình trong hiện tại, có thể lướt qua

hoặc tập trung miêu tả một mặt nào đó mà mình cho là quan trọng.
Trong tác phẩm tự sự, hình tượng người trần thuật giữ một vai trò hết sức
quan trọng và luôn luôn muốn hướng dẫn, gợi ý cho người đọc nên hiểu nhân
vật, hoàn cảnh nên thế này hay thế khác. Nếu truyện ngắn trữ tình với nét nổi
bật là tính "phi cốt truyện", truyện không kể lại được vì cốt truyện không tiêu
biểu, thì truyện ngắn tự sự cốt truyện lại rất rõ nét, trong mỗi cốt truyện lại được
đan cài bởi các chi tiết, sự kiện, tình tiết, phản ánh mối quan hệ xã hội, cuộc đời
với những xung đột, những mâu thuẫn gay gắt. Cốt truyện đóng vai trò quan
trọng trong tác phẩm tự sự, nó được xây dựng từ những sự kiện, hành động của
những nhân vật.
Loại hình tác phẩm tự sự gồm các thể loại nhỏ: tiểu thuyết, truyện ngắn,
kí, tản văn… Cách phân loại trên là cần thiết khi bước đầu tiếp cận các tác phẩm văn
học trong nhà trường, chính "tính chất loại thể" làm ra diện mạo tinh thần của
tác phẩm. Nó giúp ta tiếp nhận "đúng", "trúng" với tác phẩm cụ thể. Làm thành
"loại" và thể hiện "loại" phải nhờ các "thể". Nhưng
15


không ít "thể" của tác phẩm thuộc loại này nội dung lại mang tính chất của
loại kia. Ví dụ truyện Chí Phèo vừa giàu chất trữ tình, vừa giàu kịch tính. Nếu
chỉ chú ý vào thể mà quên đi tính chất loại trong tác phẩm, chúng ta rất dễ
phân tích tác phẩm một cách rập khuôn, sai lệch. Chính vì thế mà chúng ta cần
quan tâm và tìm ra các phương pháp, biện pháp thích hợp để giải quyết những
tồn tại và mâu thuẫn này trong quá trình dạy học tác phẩm văn chương. Điểm
qua một vài đặc điểm các thể tiểu thuyết, truyện ngắn, kí, tản văn trong
loại hình tác phẩm tự sự:
Tiểu thuyết: là thể loại không bị giới hạn về dung lượng phản ánh hiện thực
cả không gian và thời gian. Qua tiểu thuyết người đọc có thể hiểu được một giai
đoạn lịch sử với nhiều sự kiện, nhiều cảnh ngộ, nhiều địa điểm, tình huống, miêu tả
cuộc sống từ góc độ đời tư. Các yếu tố khác của tác phẩm văn học, từ đề tài, chủ

đề, nhân vật, kết cấu… cũng chịu sự chi phối của đặc điểm. Người trần thuật được
chứng kiến câu chuyện và có khả năng kể lại toàn bộ câu chuyện theo cách
riêng của mình. Lời trần thuật ở đây còn có nhiệm vụ tái hiện và phân tích, lí
giải thế giới khách quan vật chất, sự việc, con người; tái hiện và phân tích, lí giải
lời nói và ý thức người khác. Ngôn ngữ nhân vật là một trong những phương
tiện quan trọng được nhà văn sử dụng nhằm thể hiện cuộc sống và cá tính nhân
vật. Ngôn ngữ trần thuật của nhân vật là lời trực tiếp của nhân vật trong tác
phẩm, là thứ ngôn ngữ được miêu tả. Đó thực chất là ngôn ngữ của tác giả
nhưng tác giả tự để cho nhân vật giãi bày về mình. Ngôi kể của nhân vật trần
thuật là ngôi thứ hai, thứ ba nhưng vẫn được trần thuật ở ngôi thứ nhất, xưng
tôi trong đối thoại. Ngôn ngữ trần thuật của nhân vật có thể là đối thoại hay độc
thoại. Đối thoại gắn liền với việc những người nói hướng vào nhau và tác động
vào nhau; độc thoại không nhằm hướng tới người khác và tác động qua lại giữa
người và người. Ngôn ngữ trần thuật của nhân vật có nhiều chức năng khác
nhau như: chức năng phản ánh hiện thực, chức năng tự bộc lộ của nhân vật,
chức năng là đối tượng miêu tả của tác giả hoặc chức năng thể hiện nội tâm…
Qua trần thuật, nhân vật kể lại
16


cuộc đời của mình, bộc lộ tâm tư, suy nghĩ, chiêm nghiệm về cuộc đời, lẽ
sống, giúp người đọc lĩnh hội được tư tưởng, quan niệm của nhà văn. Trong khi
trần thuật, tác giả sử dụng nhiều giọng điệu, nhiều sắc thái trên cơ sở một giọng
điệu cơ bản, chủ đạo, chứ không đơn điệu. Tính chất hiện đại thể hiện trong ngôn
ngữ trần thuật gần với ngôn ngữ đời sống hơn, tính chất văn hoá vùng miền thể
hiện ở chất giọng nhà văn, người trần thuật không những kể chuyện mà còn
chuyển tải những giá trị văn hoá nằm sâu dưới lớp ngôn ngữ, làm cho nội dung
trần thuật phong phú, đặc trưng.
Truyện ngắn là loại văn xuôi tự sự có hình thức ngắn gọn, nắm bắt và thể
hiện hiện thực cuộc sống. Nhà văn thường hướng tới khắc hoạ một hiện tượng, phát

hiện một nét bản chất nào đó trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn
con người. Tập trung về sự kiện, về chủ đề, về ấn tượng, luôn luôn chú ý vào
một vấn đề cơ bản với sự tỉ mỉ, chi tiết, loại bỏ những gì thiếu xúc tích. Nhân vật
thường không nhiều và cuộc đời của nhân vật cũng thường chỉ được miêu tả như
một khoảnh khắc, mảnh nhỏ, nhưng lại có ý nghĩa trong cả cuộc đời nhân vật nên
nhịp điệu truyện ngắn khẩn trương, gấp rút có nhiều yếu tố bất ngờ, chuyển đoạn
đột ngột trong giới thiệu, bố cục, kết thúc câu chuyện.
Kí: mang tính tổng hợp về đối tượng mô tả và người ta có thể tìm ở đó
không chỉ những số phận mà là những bức tranh về phong tục, về đời sống
kinh tế, chính trị… Đặc trưng này thực ra có thể được xác rõ nét hơn trong tiểu thuyết.
Do kí là một thể loại có tính chất ghi chép nên kí phản ánh người thật, việc thật,
có tính nguyên tắc. Kí viết về sự thật nhưng thực ra nhà văn có tư tưởng, tình
cảm hoàn toàn đúng đắn chỉ việc ghi chép lại, thì trước khi ghi chép, ít nhất cũng
phải nghe thấy, tức là nghe kể lại hoặc chứng kiến. Nhà văn có thể được hư cấu
rộng rãi hơn với những thành phần không xác định như nội tâm nhân vật, cảm
xúc, thiên nhiên, những nhân vật phụ, cũng như việc sắp xếp, tổ chức hệ thống
cốt truyện.

17


Tản văn: nói lên điều suy nghĩ, nung nấu, cảm xúc trong lòng về con
người, thế sự, đạo lí, về thiên nhiên, môi trường, chính trị văn nghệ. Có thể có nhiều
phong cách: nghiêm túc, cười cợt, trữ tình, chính luận, triết lí Tản văn có hình
thức đa dạng, cũng có thể là tạp bút, tạp văn, bút kí, du kí… Ngoài ra, tản văn
còn có dề tài rộng mở, không bị hạn chế bởi thời gian, không gian. Tản văn
thường mang ý nghĩa sâu sắc, thâm thuý, ngôn từ cô đọng, súc tích, thể hiện rõ
cảm nhận của tác giả về cuộc sống hàng ngày. Tản văn trữ tình nghiêng về cảm
nhận tư tưởng, xuất phát từ tư tưởng tình cảm của tác giả. Tản văn trữ tình miêu
tả sự vật cụ thể, tình tiết không xâu chuỗi, có đặc điểm nổi bật là giàu chất trữ

tình, hàm chứa tư tưởng tình cảm và nội dung xã hội sâu sắc. Tản văn tả cảnh
chủ yếu miêu tả cảnh vật, thường xuất phát từ cảm nhận của tác giả hay mượn
cảnh tả tình, nắm bắt được đặc trưng cảnh vật, quan sát sự thay đổi của toàn
cảnh. Tản văn thường tả cảnh sinh động, không những có thể thay thế bối cảnh mà
con mượn tư tưởng, tình cảm nhân vật biểu hiện rõ hơn chủ đề. Có thể thấy, tản
văn trữ tình và tản văn tả cảnh chuyển tải quá nhiều ký ức và ấn tượng. Tạp văn,
tạp bút là chân trời rộng mở về đời sống hiện thực. Mạch viết ngắn, những suy
tư bất chợt, những trăn trở của tác giả lại khiến độc giả phải nặng lòng suy ngẫm
xem ý tưởng của tác giả hướng về đâu, gợi mở điều gì. Tản văn triết lý có sự cảm
nhận sâu sắc, tư tưởng bao trùm, triết lý rõ ràng, có đề tài sáng tác rộng lớn, nội
hàm phong phú, bao gồm toàn bộ xã hội nhân sinh, thể hiện cảnh quan đời sống
thiên biến vạn hoá. Tác giả tản văn triết lý thường có kiến thức sâu rộng, biết chớp
thời điểm triết lý. Tản văn triết lý có sự kết hợp các loại hình tượng với sự sống,
xuyên qua bản chất sự vật, đạt hiệu quả thẩm mỹ cao. Tư duy trong tản văn triết
lý khá sâu sắc, dù là vấn đề hạn hẹp cũng thể hiện được tư tưởng tình cảm cao
thâm, vượt qua loại tình cảm thông thường mà thăng hoa đến cảnh giới tinh thần.
Tư duy trong tản văn triết lý là hệ thống tư duy tổng hợp, thông qua liên tưởng để
phản ánh chung về tự nhiên, xã hội con người ở nhiều góc độ.

18


×