Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Giải quyết bồi thường trong bảo hiểm tài sản

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.23 KB, 15 trang )

Giải quyết bồi thường trong bảo hiểm tài sản
Kinh doanh bảo hiểm là một loại hình kinh doanh đặc biệt hoạt động dựa trên niềm
tin về sự an toàn tài chính cho người tham gia bảo hiểm trước những rủi ro có thể
xảy ra.. Mục đích của bên được bảo hiểm khi tham gia quan hệ BHTS là khôi phục
một cách nhanh chóng tình trạng tài chính của mình khi tài sản bảo hiểm bị tổn thất,
đây là ý định chính đáng được pháp luật thừa nhận. Tuy nhiên, đây cũng là một lĩnh
vực có rất nhiều quy định phức tạp mà không nắm rõ rất có thể sẽ không đạt được
mục đích đó. Để hiểm rõ hơn về vấn đề này, em xin lựa chọn đề tài: “Tìm hiểu về
vấn đề giải quyết bồi thường trong bảo hiểm tài sản”

GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Khái quát chung Bảo hiểm tài sản
Khái niệm bảo hiểm tài sản
BHTS là một loại bảo hiểm thuộc nhóm bảo hiểm phi nhân thọ, đã được Luật
KDBH xác định cụ thể tại Điều 7. Nhìn chung, BHTS là một loại hình nghiệp vụ
bảo hiểm, theo đó DNBH tiến hành thu phí bảo hiểm của bên mua bảo hiểm và cam
kết bồi thường cho bên được bảo hiểm khi tài sản bảo hiểm gặp rủi ro trong phạm vi
bảo hiểm dẫn đến tổn thất.�
Đặc điểm về đối tượng BHTS
Đặc điểm về đối tượng của BHTS chính là đối tượng trong hợp đồng bảo hiểm
được ký kết, đó là là tài sản, bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền
và các quyền tài sản. Theo đó tài sản bảo hiểm phải thỏa mãn các đặc điểm sau:
Một là, tài sản được bảo hiểm phải là lợi ích hợp pháp, tức là phải được pháp luật
thừa nhận. Cơ sở để hình thành nên quyền lợi được bảo hiểm trong BHTS là quyền
sở hữu hoặc quyền quản lý của bên mua bảo hiểm đối với tài sản. Chẳng hạn, một


người mua bảo hiểm cho tài sản do mình trộm cắp mà có, hay chủ hàng mua bảo
hiểm vận chuyển hàng hóa cho mặt hàng quốc cẩm… là không thể.
Hai là, tài sản trong BHTS phải là tài sản tồn tại tại thời điểm giao kết hợp đồng.
Một người mua BHTS mà không chứng minh được tài sản cần bảo hiểm đang tồn
tại thì không thể hình thành quan hệ BHTS.


Ba là, tài sản bảo hiểm trong BHTS phải định lượng được. Tức là có thể tính toán
về mặt giá trị. Trong một số trường hợp, mặc dù các bên không định giá được chính
xác giá trị của tài sản thì cũng phải dựa vào những tiêu chí nhất định để xác định giá
trị bảo hiểm. Những tiêu chí này phải được Nhà nước hoặc những tổ chức định giá
hoạt động hợp pháp thừa nhận.
Giải quyết bồi thường trong bảo hiểm tài sản
Mục đích của BHTS là khôi phục lại tình trạng tài chính ban đầu cho bên bảo hiểm
ngay sau khi tổn thất xảy ra. Sự khôi phục này được gọi là bồi thường. Trong quan
hệ BHTS, thuật ngữ bồi thường đóng vai trò hết sức quan trọng, nó xác định phạm
vi trách nhiệm tài chính của DNBH. Bồi thường là cơ chế mà công ty bảo hiểm sử
dụng để cung cấp khoản tài chính với mục đích hoàn trả cho người được bảo hiểm
những gì mà họ đã mất do việc tài sản bảo hiểm gặp tổn thất trong phạm vi rủi ro
được bảo hiểm. Như vậy, có thể khẳng định bồi thường được coi là sự đền bù chính
xác về tài chính, đủ để khôi phục lại tình trạng tài chính ban đầu của người được
bảo hiểm như trước khi xảy ra tổn thất.
Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy
định mà khi nó xảy ra thì DNBH phải bồi thường cho người được bảo hiểm. Như
vậy, việc giải quyết bồi thường trong BHTS thì trước hết căn cứ đầu tiên chính là sự
kiện bảo hiểm.
Nguyên tắc bồi thường: Số tiền mà bên bồi thường cho bên được bảo hiểm không
vượt quá giá trị của tài sản bảo hiểm tại thời điểm và nơi xảy ra tổn thất.


Vấn đề giải quyết bồi thường trong bảo hiểm tài sản Quy định của pháp luật hiện
hành về giải quyết bồi thường trong bảo hiểm tài sản và một số đánh giá.
Bồi thường bảo hiểm là một nghĩa vụ quan trọng nhất đối với DNBH. Pháp luật
hiện hành quy định DNBH có các quyền, nghĩa vụ sau: Trả tiền bảo hiểm kịp thời
cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện
bảo hiểm; Được quyền từ chối trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc từ chối
bồi thường cho người được bảo hiểm trong trường hợp không thuộc phạm vi trách

nhiệm bảo hiểm hoặc trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm theo thỏa thuận
trong hợp đồng bảo hiểm nhưng phải giải thích bằng văn bản lý do từ chối trả tiền
bảo hiểm hoặc từ chối bồi thường; Phối hợp với bên mua bảo hiểm để giải quyết
yêu cầu của người thứ ba đòi bồi thường về những thiệt hại thuộc trách nhiệm bảo
hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Căn cứ bồi thường
Quán triệt nguyên tắc bồi thường trong BHTS, Luật KDBH đã quy định căn cứ bồi
thường tại điều 46. Theo đó,
Số tiền bồi thường mà DNBH phải trả cho người được bảo hiểm được xác định trên
cơ sở giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời điểm, nơi xảy ra tổn thất và
mức độ thiệt hại thực tế, trừ trường hợp có thoả thuận khác trong hợp đồng bảo
hiểm. Chi phí để xác định giá thị trường và mức độ thiệt hại do DNBH chịu. Đối
với những tổn thất do hao mòn tự nhiên hoặc do bản chất vốn có của tài sản DNBH
sẽ không phải chị trách nhiệm trừ trường hợp có thỏa thuận.
Số tiền bồi thường mà DNBH trả cho người được bảo hiểm không vượt quá số tiền
bảo hiểm, trừ trường hợp có thoả thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm.


Ngoài số tiền bồi thường, DNBH còn phải trả cho người được bảo hiểm những chi
phí cần thiết, hợp lý để đề phòng, hạn chế tổn thất và những chi phí phát sinh mà
người được bảo hiểm phải chịu để thực hiện chỉ dẫn của DNBH.
Với quy định về giới hạn bồi thường trên, có một số nhận xét như sau:
Thứ nhất, mặc dù trên nguyên tắc là bồi thường phải được giải quyết theo giá thị
trường của tài sản khi xảy ra thiệt hại và không vượt quá số tiền bảo hiểm, nhưng
trên thực tế thường tồn tại cách xác định bồi thường theo 3 trường hợp sau:
Bảo hiểm có xác định giá trị tài sản. Đây là trường hợp hợp đồng bảo hiểm đã xác
định và ghi rõ giá trị của tài sản được bảo hiểm. Do vậy, khi thiệt hại xảy ra thì phải
bồi thường trong phạm vi giá trị của tài sản được ghi trong hợp đồng dù tổn thất
thực tế có lớn hơn giá trị được xác định trong hợp đồng. Trường hợp này đảm bảo
người tham gia bảo hiểm sẽ nhận được đúng với giá trị tài sản đã được ghi trong

hợp đồng mà thôi.
Bảo hiểm không xác định giá trị của tài sản. Đây là trường hợp mà hợp đồng bảo
hiểm chỉ xác định số tiền bảo hiểm còn giá trị bảo hiểm lại được xác định sau khi
thiệt hại đã xảy ra. Như vậy, mặc dù trách nhiệm bồi thường của DNBH tuân theo
đúng nguyên tắc là không vượt quá số tiền bảo hiểm nhưng đây là trường hợp khá
bất lợi cho người tham gia bảo hiểm. Vì số tiền bảo hiểm sẽ không tăng dù giá trị tài
sản tăng lên theo giá trị trường, nhưng lại giảm khi giá trị tài sản giảm khi có thiệt
hại.
VD: A mua bảo hiểm cho chiếc xe của mình với số tiền bảo hiểm là 500 triệu đồng.
Sau 1 năm đã xảy ra tai nạn và có tổn thất. Nếu vào thời điểm xảy ra tai nạn chiếc
xe có giá trị 800 triệu đồng thì DNBH cũng chỉ phải bồi thường 500 triệu đồng
nhưng nếu trị giá xe này trên thị trường chỉ còn 300 triệu đồng thì chỉ phải bồi
thường 300 triệu đồng.


Bảo hiểm giá trị tài sản mua sắm lại. Đây là trường hợp có sự thỏa thuận giữa hai
bên về việc xác định số tiền bồi thường đủ để mua sắm lại tài sản mới nếu đối tượng
bảo hiểm bị thiệt hại.
Thứ hai, căn cứ để xem xét bồi thường trong quan hệ BHTS là giá thị trường của tài
sản được bảo hiểm tại thời điểm, nơi xảy ra tồn thất và mức độ thiệt hại thực tế. Tuy
nhiên, vấn đề xác định giá thị trường là một việc khá khó khăn. Giá thị trường
thường tính được đối với những tài sản còn mới, trong khi đó, tài sản rơi vào trường
hợp BHTS thường là tài sản đã qua sử dụng. Vì vậy, việc xác định thiệt hại thực tế
xảy ra đối với tài sản bảo hiểm chỉ mang tính ước đoán. Để thực hiện được điều
khoản này, DNBH và bên mua bảo hiểm phải thống nhất về cách thức và biện pháp
xác định giá trị của tài sản bảo hiểm tại thời điểm và nơi xảy ra tổn thất.
Thứ ba, mục đích của điều 46 là nhằm quy định một căn cứ để xác định việc bội
thường, đây cũng là căn cứ quan trọng nhất để có thể schống trục lợi bảo hiểm. Tuy
nhiên, nhà làm luật lại cho phép các bên thỏa thuận về số tiền bồi thường mà không
dựa vào căn cứ bồi thường với quy định “ trừ trường hợp có thỏa thuận khác trong

hợp đồng bảo hiểm”. Như vậy, vẫn sẽ có những tình huống trục lợi phát sinh.
Hình thức giải quyết bồi thường về bảo hiểm tài sản
Hình thức của bồi thường thường dựa trên sự thoả thuận giữa DNBH và bên được
bảo hiểm theo một trong các hình thức bồi thường: Sửa chữa, thay thế hoặc trả tiền
bồi thường.
Trong trường hợp DNBH và bên mua bảo hiểm không thoả thuận được về hình thức
bồi thường thì việc bồi thường sẽ được thực hiện bằng tiền.
Thời điểm phát sinh trách nhiệm bồi thường


Trước đây, Điều 15 Luật KDBH 2000 có quy định về thời điểm phát sinh trách
nhiệm bảo hiểm:
Trách nhiệm bảo hiểm phát sinh khi hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết hoặc khi
có bằng chứng DNBH đã chấp nhận bảo hiểm và bên mua bảo hiểm đã đóng phí
bảo hiểm, trừ trường hợp có thoả thuận khác trong hợp đồng bảo hiểm.
Nếu hiểu theo tinh thần của Điều 404 BLDS thì “ hợp đồng dân sự được giao kết và
thời điểm bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận giao kết” thì thời điểm hợp đồng
bảo hiểm đã được giao kết là thời điểm DNBH cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc
đơn bảo hiểm. Tuy nhiên, thời điểm cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo
hiểm mới chỉ thể hiện sự đồng thuận về mặt hình thức, tức là thể hiện bên mua bảo
hiểm yêu cầu được bảo hiểm và DNBH đồng ý bảo hiểm, chứ chưa phải là thời
điểm phát sinh trách nhiệm bảo hiểm của DNBH. Về nguyên tắc, bên mua bảo hiểm
chỉ được bồi thường bảo hiểm khi đã đóng phí bảo hiểm.
Về vấn đề này, Luật KDBH 2010 đã có sửa đổi cho phù hợp với việc thực hiện
công thức này:
1. Hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết và bên mua bảo hiểm đã đóng đủ phí bảo
hiểm;
2. Hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết, trong đó có thỏa thuận giữa DNBH và bên
mua bảo hiểm về việc bên mua bảo hiểm nợ phí bảo hiểm;
3. Có bằng chứng về việc hợp đồng bảo hiểm đã được giao kết và bên mua bảo

hiểm đã đóng đủ phí bảo hiểm.”
Thông thường, khi hợp đồng chấm dứt, trách nhiệm bồi thường cũng thường chầm
dứt, tuy nhiên cần lưu ý rằng, đối với trường hợp bên mua bảo hiểm không đóng đủ
phí bảo hiểm trong thời gian gia hạn đóng phí bảo hiểm theo thỏa thuận trong hợp


đồng bảo hiểm (Điều 23) thì DNBH vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường cho
người được bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra trong thời gian ra hạn đóng phí.
Tuy nhiên bên mua bảo hiểm vẫn phải đóng phí bảo hiểm cho đến hết thời gian gia
hạn theo thỏa thuận trong hợp đồng BHTS.
Đối với những trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm tức là không phải bồi
thường khi xảy ra được căn cứ theo quy định tại Điều 16 trong những trường hợp
sau:
Bên mua bảo hiểm vi phạm pháp luật do vô ý;
Bên mua bảo hiểm có lý do chính đáng trong việc chậm thông báo cho DNBH về
việc xảy ra sự kiện bảo hiểm.
Các trường hợp bồi thường
Trường hợp bên mua bảo hiểm yêu cầu bảo hiểm cho tài sản lớn hơn giá thị trường
của tài sản thì hợp đồng bảo hiểm được gọi là hợp đồng bảo hiểm trên giá trị. Nếu
hợp đồng này được giao kết do lỗi vô ý của bên mua bảo hiểm thì sẽ xử lý theo
hướng: DNBH phải hoàn lại cho bên mua bảo hiểm số phí bảo hiểm đã đóng tường
ứng với số tiền bảo hiểm vượt quá giá thị trường của tài sản được bảo hiểm, sau khi
trừ đi các chi phí hợp lý. Tương ứng như vậy, việc bồi thường đương nhiên sẽ được
hiểu là áp dụng theo phạm vi giá trị tài sản được bảo hiểm tương ứng với giá trị
trường.
Trường hợp bên mua bảo hiểm yêu cầu số tiền bảo hiểm thấp hơn giá thị trường của
tài sản được bảo hiểm tại thời điểm giao kết hợp đồng được gọi là hợp đồng bảo
hiểm dưới giá trị. Trong trường hợp này, DNBH chỉ chịu trách nhiệm bồi thường
theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm và giá thị trường của tài sản được bảo hiểm tại thời
điểm giao kết hợp đồng.



Trường hợp bảo hiểm trùng tài sản là trường hợp bên mua bảo hiểm mua bảo hiểm
cho cùng một tài sản với cùng điều kiện và sự kiện bảo hiểm tại hai hay nhiều
DNBH. Pháp luật hiện hành không hề cấm các bên tham gia quan hệ BHTS giao kết
hợp đồng bảo hiểm trùng mà chỉ quy định về hướng xử lý. Theo đó, khi xảy ra sự
kiện bảo hiểm mỗi DNBH chỉ chịu trách nhiệm bồi thường theo tỷ lệ giữa số tiền
bảo hiểm đã thỏa thuận trên tổng số tiền bảo hiểm của tất cả các hợp đồng mà bên
mua bảo hiểm đã giao kết. Tức là, việc giải quyết bồi thường cũng được xử lý theo
hướng là dàn trải rủi ro. Các bên giải quyết bồi thường theo tỷ lệ của số tiền bảo
hiểm. Cụ thể, nếu bên mua bảo hiểm tiến hành mua bảo hiểm cho tài sản tại nhiều
DNBH rồi hoàn tất hồ sơ để yêu cầu các doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ bồi
thường thì tổng trách nhiệm bồi thường của các DNBH không vượt quá giá trị thiệt
hại thực tế của tài sản (Điều 44).
Nghĩa vụ bồi thường kịp thời cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiêm
của doanh nghiệp bảo hiểm.
Sản phẩm bảo hiểm là sản phẩm trừu tượng nên không dễ nhìn thấy được và không
dễ nhận biết được lợi ích cơ bản, công dụng của sản phẩm. Sản phẩm bảo hiểm nói
chung và BHTS nói riêng là lời hứa, sự cam kết của DNBH sẽ bồi thường cho
khách hàng khi tổn thất xảy ra đối với tài sản bảo hiểm. Vì vậy, việc duy trì uy tín
của doanh nghiệp đối với sản phẩm này là rất lớn.
Hành vi trây ỳ trong việc bồi thường cho người được bảo hiểm trong BHTS nhằm
mang lại lợi ích cho DNBH cần được pháp luật nghiêm cấm. Hành vi này không
những gây thiệt hại cho người được bảo hiểm mà còn hảnh hưởng lớn tới uy tín
kinh doanh của các DNBH nói chung. Việc này gây ra tác động rất lớn cho việc xây
dựng và phát triển thị trường bảo hiểm. Trên thực tế, trong một số trường hợp, vì lợi
ích trước mắt của chính DNBH hoặc lợi ích cá nhân của mình mà một số nhân viên
bảo hiểm đã cố tính dây dưa trong việc thực hiện bồi thường cho người được bảo
hiểm. Để ngăn chặn hành vi này, pháp luật đã quy định một trong những nghĩa vụ
bắt buộc của DNBH là “ bồi thường kịp thời cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự



kiện bảo hiểm”. Ngoài ra, để bảo vệ quyền lợi cho người được bảo hiểm, Điều 29
Luật KDBH quy định: Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, DNBH phải trả tiền bảo hiểm
hoặc bồi thường theo thời hạn đã thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm; trong trường
hợp không có thoả thuận về thời hạn thì DNBH phải trả tiền bảo hiểm hoặc bồi
thường trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ về yêu
cầu trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường. Đây là thời gian ấn định để DNBH thực hiện
nghĩa vụ bồi thường của mình.
Đồng thời quy định này cũng có ý nghĩa ngăn ngừa việc DNBH cố tính không đưa
điều khoản về thời hạn trả tiền bồi thường trong hợp đồng nhằm kéo dài thời gian
sự dụng vốn của người được bảo hiểm. Trong trường hợp DNBH vi phạm nghĩa vụ
này về nguyên tắc phải trá thêm tiền lãi cho người được bảo hiểm hoặc người thụ
hưởng bảo hiểm.
Trách nhiệm chuyển quyền yêu cầu bồi hoàn
Điều 49 quy định: Trong trường hợp người thứ ba có lỗi gây thiệt hại cho người
được bảo hiểm và DNBH đã trả tiền bồi thường cho người được bảo hiểm thì người
được bảo hiểm phải chuyển quyền yêu cầu người thứ ba bồi hoàn khoản tiền mà
mình đã nhận bồi thường cho DNBH.
Trong trường hợp người được bảo hiểm từ chối chuyển quyền cho DNBH, không
lưu hoặc từ bỏ quyền yêu cầu người thứ ba bồi thường thi DNBH có quyền kháu trừ
số tiền bồi thường tùy theo mức độ lỗi của người được bảo hiểm. DNBH không
được yêu cầu cha, mẹ, vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột của người được bảo hiểm
bồi hoàn khoản tiền mà DNBH đã trả cho người được bảo hiểm, trừ trường hợp
những người này cố ý gây ra tổn thất. Tuy nhiên, vẫn có điểm chưa rõ ràng:
Một là, DNBH có quyền khấu trừ số tiền bồi thường tùy theo mức độ lỗi của người
được bảo hiểm. Vậy lỗi của người được bảo hiểm ở đây là lỗi đói với sự kiện bảo
hiểm xảy ra hay là lỗi đối với việc người được bảo hiểm phải là nhưng họ đã không



làm là từ chối chuyển quyền cho DNBH, không bảo lưu hoặc từ bỏ quyền yêu cầu
người thứ ba bồi thường. Theo ý kiến cá nhân em là lỗi ở đây cần xác định là lỗi
trong sự kiện bảo hiểm xảy ra.
Hai là trường hợp tổn thất xảy ra cho đôi tượng bảo hiểm do lỗi cố ý của cha, mẹ,
vợ, chồng, con, anh, chị, em ruột của người được bảo hiểm thì DNBH có phải bồi
thường không? Nếu có bồi thường trong trường hợp này và người được bảo hiểm
phải chuyển yêu cầu bồi hoàn cho DNBH thì trong nhiều trường hợp người được
bảo hiểm vẫn thiệt hại.
Thực trạng và một số ý kiến đóng góp
Mặc dù đã có quy định về căn cứ bồi thường nhưng các trường hợp trục lợi bảo
hiểm vẫn diễn ra trên thực tế. Theo quy định tại Thông tư 31/2004/TT-BTC của Bộ
Tài chính hướng dẫn thực hiện Nghị định 118 về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm thì: “Trục lợi bảo hiểm là hành vi cố ý lừa dối của tổ
chức, cá nhân nhằm thu lợi bất chính khi tham gia bảo hiểm, bồi thường bảo hiểm,
trả tiền bảo hiểm và giải quyết khiếu nại bảo hiểm”. Như vậy, nói đến trục lợi bảo
hiểm là phải nói đến hành vi của tổ chức, cá nhân được thực hiện một cách cố ý
nhằm thu lợi bất chính. Trên thực tế thường diễn ra một số hành vi như sau:
Đối với trường hợp tài sản đã tổn thất chủ tài sản mới mua bảo hiểm. Như đã phân
tích ở trên, để được bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm phải có tài
sản bảo hiểm. Như vậy, nếu như tại thời điểm mua bảo hiểm mà không còn tài sản
hoặc lợi ích về tài sản thì không thể giao kết hợp đồng bảo hiểm. Tuy nhiên, trên
thực tế, có rất nhiều trường hợp tài sản đã tổn thất ròi bên mua bảo hiểm mới tiền
hành mua bảo hiểm cho tài sản. VD: tàu biển đã bị đắm, toàn bộ hàng hóa đã bị tổn
thất chủ hàng mới đi mua bảo hiểm. Có những trường hợp có khi người bán bảo
hiểm không biết tàu đã bị đắm. Vậy bồi thường trong trường hợp này giải quyết như
thế nào. Theo cá nhân tôi, cơ sở hình thành nên quy định pháp luật về nghĩa vụ cung
cấp thông tin trong quan hệ thương mại nói chung đó là, tất cả các giao dịch kinh
doanh cần thực hiện trên cơ sở tin cậy lẫn nhau. những trường hợp ký hợp đồng bảo



hiểm như vậy là vi phạm quy định về hợp đồng theo BLDS, Luật thương mại và cả
Luật KDBH. Vì vậy, đây là những trường hợp vô hiệu do giả dối. Việc bồi thường
là không cần thiết đối với DNBH.
Nếu theo quy định của luật bảo hiểm: thừa nhận bảo hiểm trên giá trị và chỉ quy
định chế tài trong trường hợp bảo hiểm trên giá trị do lỗi vô ý, nhiều ý kiến cho
rằng đây là quy định giúp hiểu ngầm là nếu có lỗi cố ý thì không phải chịu chế tài.
Tuy nhiên, theo cá nhân tôi, đối với trường hợp lỗi cố ý thì phải áp dụng quy định
của BLDS và BLHS. Hợp đồng ở đây đối với phần cố ý khai tăng giá trị (phần giá
trị bị khai tăng lên để DNBH phải bồi thường những tổn thất lớn hơn thực tế) cần
phải xử lý theo hướng vô hiệu giống như trường hợp lỗi vô ý. Tuy nhiên, dựa theo
thực tế thiệt hại của DNBH để xem xét đây có phải hành vi phải chịu TNHS hay
không. Tóm lại, đối với trường hợp này, đối với phần tài sản tăng lên, nên quy định
theo hướng, nếu không có sự đồng ý từ phía DNBH thì sẽ không phải chịu trách
nhiệm bồi thường khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra. Về vấn đề này có nhiều ý kiến
nên sửa quy định của pháp luật theo hướng sau:
Thứ nhất, phần cuối Khoản 1, Điều 42 Luật KDBH quy định “DNBH và bên mua
bảo hiểm không được giao kết hợp đồng BHTS trên giá trị” nhưng ở Khoản 2 lại
quy định “trong trường hợp hợp đồng BHTS trên giá trị được giao kết do lỗi vô ý
của bên mua bảo hiểm, DNBH phải hoàn lại cho bên mua bảo hiểm số phí bảo hiểm
đã đóng tương ứng với số tiền bảo hiểm vượt quá giá thị trường của tài sản được
bảo hiểm, sau khi trừ các chi phí hợp lý có liên quan…”. Theo chúng tôi, quy định
như trên là không thống nhất giữa khoản 1 và khoản 2, cụ thể ở khoản 1 đã quy định
không cho phép thì sẽ không có quy định tại Khoản 2, bởi vì quy định tại khoản 2 là
thừa nhận sự tồn tại của hợp đồng bảo hiểm trên giá trị.
Thứ hai, nội dung quy định tại Khoản 2 là không khả thi, bởi vì tiêu chí để xác định
thế nào là vô ý và thế nào là cố ý trên thực tế là không có cơ sở, trong nhiều trường
hợp chỉ là sự suy đoán chủ quan. Vì vậy, ý nghĩa chống trục lợi của quy định này
trên thực tế sẽ rất khó áp dụng, theo chúng tôi, nên bỏ Khoản 2 của Điều 42, tức là



không thừa nhận sự tồn tại của hợp đồng BHTS trên giá trị dù là vô ý hay cố ý, tức
là nếu trường hợp các bên có giao kết thì hợp đồng sẽ không phát sinh hiệu lực pháp
lý.
Trong hợp đồng BHTS, sự kiện bảo hiểm xảy ra do hành vi của người được bảo
hiểm thực hiện với lỗi cố ý không nhiều. Do số tiền mà DNBH bòi thường không
bao giờ vượt quá giá trị tài sản tại thời điểm và tại nơi xảy ra thiệt hại. Xét về lợi
ích, bên được bảo hiểm sẽ không được lợi gì khi tài sản bị thiệt hại sau đó DNBH
mới bồi thường nhiều nhất là tương đương với giá trị thiệt hại của tài sản đó. Tuy
nhiên, nói như vậy không có nghĩa là những hành vi cố ý phá hủy tài sản bên mua
bảo hiểm nhằm trục lợi trong việc hưởng bồi thường không xảy ra. Đây thường là
những hành vi rất tinh vi, có kiến thức nghiệp vụ cao, được chuẩn bị kỹ lưỡng, số
tiền trục lợi lớn. Hình thức trục lợi này thường là tìm cách phá hủy tài sản trong một
hoàn cảnh được dàn dựng như thật. VD: cố ý làm đắm tàu trong thời tiết xấu. Điều
nguy hiểm trong những tình huống này là người thực hiện thường thực hiện những
hành vi rất khó điều tra, nên việc bồi thường thường phải thực hiện theo đúng hợp
đồng.
Một thực trạng khác là việc bên mua bảo hiểm thường cố ý khai tăng tổn thất đối
với tài sản khi rủi ro xảy ra. Về nguyên tắc, khi rủi to được bảo hiểm xảy ra, bên
bảo hiểm phải bồi thường cho bên được bảo hiểm những tổn thất thực tế. Nếu có
tổn thất thì mới bồi thường, không được bồi thường ít hơn tổn thất dựa theo phạm vi
được bảo hiểm. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp, lợi dụng tổn thất xảy ra để làm hư
hỏng thêm tài sản được bảo hiểm hoặc làm hư hỏng toàn bộ tài sản đã được bảo
hiểm để được bồi thường cao hơn. Hoặc cố ý khai tăng tổn thất để có thể vượt quá
mức miễn thường để được hưởng bồi thường. VD: Hợp đồng bảo hiểm hàng hóa
bằng đường biển quy định: Mức miễn thường là 0,35% trách nhiệm qua cân tại
cảng. Trên thực tế, trọng lượng hàng hóa bị thiếu là 0,34% nên không được bồi
thường. Bên mua bảo hiểm có thể khai tăng, hoặc tìm cách nâng con số này lên 0,35
% để được hưởng bảo hiểm. Thực trạng này còn có một nguyên nhân quan trọng
chính là thái độ làm việc của các cơ quan Nhà nước. Hồ sơ, chứng từ có xác nhận



của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong nhiều trường hợp là một căn cứ quan
trọng giúp xác định trách nhiệm bồi thường. Tuy nhiên, sự thiếu trách nhiệm ngay
từ giai đoạn kê khai đã gây ra tình trạng tăng tổn thất khi có trách nhiệm bồi thường
phát sinh.
Từ thực tế thấy rằng, những tranh chấp trong việc giải quyết bồi thường BHTS
thường diễn ra khá phức tạp. Các bên trong hợp đồng nếu không nhanh chóng nắm
bắt và thực hiện theo đúng quy định của pháp luật thì rất dễ dẫn đến các trường hợp
loại trừ trách nhiệm bồi thường. Có thể lấy ví dụ thông qua tình huống sau:
Cơn mưa lớn chiều 1/8/2008 tại khu vực trung tâm TP HCM có lượng mưa lên tới
130mm khiến nước tràn vào tầng hầm để xe của Ngân hàng Đại Tín, số 75 Hồ Hảo
Hớn, phường Cô Giang, quận 1. Nước mưa tràn vào hầm, dâng cao tới 1m khiến
chiếc xe ôtô hiệu Mercedes của ngân hàng này bị ngâm dưới nước, gây hư hỏng
toàn bộ hệ thống điện, giá trị sửa chữa hết khoảng 400 triệu đồng. Sau sự cố trên 3
ngày, Ngân hàng Đại Tín mới thông báo sự việc này cho bảo hiểm và tiến hành các
thủ tục yêu cầu bảo hiểm 3A bồi thường nhưng phía 3A từ chối bồi thường thiệt hại
cho Ngân hàng Đại Tín với lý do: Sự việc trên không phải là yếu tố rủi ro bất ngờ,
phía bảo hiểm 3A chỉ đồng ý hỗ trợ mức 50 triệu đồng để chia sẻ thiệt hại với khách
hàng và Ngân hàng Đại Tín đã không chấp thuận.
Sự việc tranh chấp này, về phía ngành bảo hiểm, ông Phùng Đắc Lộc, Tổng Thư ký
Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cho biết: "Trong trường hợp này, người tham gia bảo
hiểm là Ngân hàng Đại Tín đã không mẫn cán trong việc khắc phục sự cố. Diễn
biến nước mưa tràn ngập tầng hầm xe kéo dài từ 16h đến 17h30′ nên không thể cho
đó là sự cố bất thường hoặc không lường trước được".
Còn theo luật sư Bùi Quang Nghiêm, Phó đoàn luật sư TP HCM thì bảo hiểm 3A
không có nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho Ngân hàng Đại Tín do không xảy ra sự
kiện bảo hiểm giữa các bên bởi những lý do: Việc chiếc ôtô Mercedes của Ngân
hàng Đại Tín bị hư hỏng nặng là một rủi ro nhưng không mang yếu tố bất ngờ,



nghĩa là Ngân hàng Đại Tín không thể cho rằng mình không thể lường trước được
những thiệt hại có thể gây ra với chiếc xe Mercedes. Trước đó mấy ngày, Trung tâm
Dự báo khí tượng thủy văn Nam Bộ đã dự báo khu vực TP HCM sẽ có mưa lớn bất
thường trong 5 ngày đầu của tháng 8. Như vậy, cơn mưa chiều 1/8/2008 hoàn toàn
không có yếu tố bất ngờ. Mặt khác, cơn mưa bắt đầu diễn ra lúc 16h, nước mưa từ
ngoài đường chỉ bắt đầu tràn vào tầng hầm của Ngân hàng Đại Tín lúc 16h30′, đến
17h, nước trong hầm đã dâng 0,5m.
Từ lúc bắt đầu mưa đến lúc mực nước ngập có thể gây hư hỏng xe kéo dài 1 tiếng
đồng hồ, lẽ ra Ngân hàng Đại Tín phải nhìn nhận được rủi ro có thể xảy ra đối với
chiếc xe của mình trong khoảng thời gian này hoặc ít nhất kể từ khi nước bắt đầu
tràn vào tầng hầm trong lúc trời còn đang mưa để đưa xe ra ngoài. Như vậy, rủi ro
là có thật và rủi ro này gây ra thiệt hại thực tế nhưng hoàn toàn không mang tính bất
ngờ đối với ngân hàng. Cũng theo luật sư Bùi Quang Nghiêm, bảo hiểm 3A không
có trách nhiệm bồi thường ngay cả khi đó là sự kiện bảo hiểm vì Bộ luật Dân sự đã
quy định "Khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, bên mua bảo hiểm hoặc bên được bảo hiểm
phải báo ngay cho bên bảo hiểm và phải thực hiện mọi biện pháp cần thiết mà khả
năng cho phép để ngăn chặn, hạn chế thiệt hại".
Đồng quan điểm này, luật sư Trần Đình Quốc Bảo, Đoàn luật sư TP HCM cũng đã
lên tiếng với báo chí rằng theo khoản 1, Điều 161 của Bộ luật Dân sự, một sự kiện
xảy ra được xem là bất khả kháng phải có đủ các yếu tố cấu thành là tính khách
quan, tức là không do con người gây ra và nằm ngoài ý chí, ý muốn của con người;
tính không tiên liệu được về sự kiện đó và tính không thể khắc phục.
Các yếu tố này phải đáp ứng điều kiện là mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho
phép đã được áp dụng để khắc phục sự kiện bất khả kháng đó. Sự kiện trên cho thấy
lỗi chủ quan của Ngân hàng Đại Tín trong việc chậm trễ ứng cứu tài sản của
mình… Do đó, bảo hiểm 3A không đồng ý bồi thường theo hợp đồng mà chỉ hỗ trợ
là đúng.


Về phía bảo hiểm 3A, ông Phạm Trường Khê, Phó Tổng Giám đốc công ty nhấn

mạnh: Thực sự khi đưa ra quyết định từ chối bồi thường đối với bất cứ khách hàng
nào chúng tôi cũng phải xem xét thật kỹ càng, chính xác và cũng hết sức áy náy.
Bởi rất nhiều khách hàng có tâm lý "Các nhà bảo hiểm chỉ mong thu được phí còn
khi xảy ra rủi ro thì tìm cách né tránh để không phải trả tiền bồi thường". Từ việc từ
chối bồi thường của 3A trong trường hợp trên, một lần nữa là lời nhắc nhở với
khách hàng của các công ty bảo hiểm: Không phải cứ mua bảo hiểm là sẽ được bồi
thường nếu không nắm rõ và thực hiện đúng các quy tắc, quy định về bảo hiểm.
KẾT THÚC VẤN ĐỀ
Từ những phân tích trong bài làm ta thấy rằng, khi tham gia vào một quan hệ bảo
hiểm nói chung và một quan hệ bảo hiểm tài sản nói riêng là sẽ đảm bảo việc có bồi
thường sau khi thiệt hại xảy ra. Dù là người tham gia bảo hiểm nhưng việc tìm hiểu
kỹ hợp đồng cũng thực hiện những quy định của pháp luật nhằm đảm bảo tốt nhất
quyền lợi cho mình thường rất phức tạp. Bài làm còn nhiều sai sót tuy nhiên hy
vọng sẽ mang lại cái nhìn chung nhất về vấn đề này cho người đọc.



×