Tải bản đầy đủ (.doc) (59 trang)

Đánh giá hệ thống xử lý nước thải của công ty cổ phần Môi trường đô thị Hạ Long – Quảng Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (420.53 KB, 59 trang )

Phần 1
ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1.

Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển kinh tế là một trong những mục tiêu chiến lược của nước ta,

phấn đấu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Quá trình công nghiệp hóa – hiện đại hóa đồng nghĩa với việc phát triển các
khu đô thị, các khu công nghiệp và các hoạt động kinh tế được đẩy mạnh
mang tính tất yếu và không thể không thực hiện. Những hệ lụy của phát triển
kinh tế đối với môi trường là không thể tránh khỏi.
Hiện nay ở Việt Nam, mặc dù các cấp, các ngành đã có nhiều cố gắng
trong việc thực hiện chính sách quản lý để bảo vệ môi trường, nhưng tình
trạng ô nhiễm môi trường nói chung và ô nhiễm nước nói riêng đang là một
vấn đề rất đáng lo ngại. Vấn đề ô nhiễm môi trường và bảo vệ sự trong sạch
cho các thủy vực hiện nay đang là những vấn đề cấp bách trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội. Để phát triển bền vững chúng ta cần có những biện pháp
kỹ thuật hạn chế, loại bỏ các chất ô nhiễm do hoạt động sống và sản xuất thải
ra môi trường. Một trong những biện pháp tích cực trong công tác bảo vệ môi
trường và chống ô nhiễm nước là tổ chức thoát nước và xử lý nước thải trước
khi xả vào nguồn tiếp nhận.
Khi nước thải không được xử lý hiệu quả trước khi thải vào môi trường
sẽ làm ô nhiễm nước ngầm, nước mặt tại các ao, hồ, kênh mương và các con
sông. Nước bị ô nhiễm gây mất cân bằng sinh thái, hàm lượng các chất hữu
cơ trong nước tăng cao gây nên sự thiếu hụt oxy. Không những vậy, nước ô
nhiễm còn làm tăng số lượng các vi trùng gây bệnh, thậm chí xuất hiện những
mầm bệnh nguy hiểm cho cả người và các sinh vật sống.
Thành Phố Hạ Long – Quảng Ninh là một trong những cực phát triển
quan trọng của Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Cơ cấu kinh tế của thành
phố được xác định là: Công nghiệp - du lịch, Dịch vụ, Thương Mại, Nông 1




lâm nghiệp và hải sản. Tình hình phát triển kinh tế, xã hội Thành phố Hạ
Long đã và đang thay đổi theo xu hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ
gắn với việc phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ tài nguyên môi trường. Tuy
nhiên, một hệ quả tất yếu của quá trình phát triển kinh tế đó là chất lượng môi
trường bị suy giảm. Vì vậy vấn đề xử lý nước thải đang là một trong những
vấn đề được quan tâm hàng đầu, góp phần tích cực trong việc phòng ngừa ô
nhiễm do nước thải đến môi trường xung quanh.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc xử lý nước thải, xuất phát từ
yêu cầu thực tiễn, được sự giúp đỡ của Ban quản lý công ty môi trường đô thị
Hạ Long, em tiến hành nghiên cứu đề tài “Đánh giá hệ thống xử lý nước
thải của công ty cổ phần Môi trường đô thị Hạ Long – Quảng Ninh”.
1.2. Mục tiêu và yêu cầu nghiên cứu của đề tài
1.2.1. Mục tiêu nghiên cứu


Tìm hiểu và đánh giá hiệu quả của công tác thu gom, quy trình xử lý
nước thải của công ty môi trường đô thị Hạ Long.



Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của công tác thu
gom, quy trình xử lý.

1.2.2. Yêu cầu


Thu thập hoặc điều tra, phân tích được số liệu liên quan đến khối




lượng, tính chất nguồn nước đầu vào và đầu ra của quy trình xử lý.
Các biện pháp đề xuất phải có tính khả thi.

Phần 2
TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
2


2.1. Tổng quan về nước thải
2.1.1. Khái niệm nước thải
Theo tiêu chuẩn Việt Nam 5980 – 1995 và ISO 6107/1-1980 nước thải là
nước đã được thải ra sau khi sử dụng hoặc được tạo ra trong một quá trình
công nghệ và không còn giá trị trực tiếp với quá trình đó. [18]
2.1.2. Phân loại nước thải
Thông thường nước thải được phân loại theo nguồn gốc phát sinh ra
chúng :
+ Nước thải sinh hoạt: là nước thải từ các khu dân cư, khu vực hoạt động
thương mại, khu vực công sở, trường học và các cơ sở tương tự khác.
+ Nước thải công nghiệp (hay còn gọi là nước thải sản xuất): là nước thải
từ các nhà máy đang hoạt động hoặc trong đó nước thải công nghiệp là chủ
yếu.
+ Nước thấm qua: là lượng nước thấm vào hệ thống ống bằng nhiều cách
khác nhau, qua các khớp nối, các ống có khuyết tật hoặc thành hố ga hay hố
xí.
+ Nước thải tự nhiên: nước mưa được xem như nước thải tự nhiên ở
những thành phố hiện đại, chúng được thu gom theo hệ thống riêng.
+ Nước thải đô thị: nước thải đô thị là một thuật ngữ chung chỉ chất lỏng
trong hệ thống cống thoát của một thành phố, thị xã; đó là hỗn hợp của các

loại nước thải trên. [18]
2.1.3. Ô nhiễm nước
Theo các quy định về bảo vệ môi trường của Việt Nam, ô nhiễm nước là
việc đưa vào các nguồn nước các tác nhân lý, hoá, sinh học và nhiệt không
đặc trưng về thành phần hoặc hàm lượng đối với môi trường ban đầu đến mức
có khả năng gây ảnh hưởng xấu đến sự phát triển bình thường của một loại
sinh vật nào đó hoặc thay đổi tính chất trong lành của môi trường ban đầu.[20]
Theo một định nghĩa khác “Ô nhiễm nước mặt diễn ra khi đưa quá nhiều
3


các tạp chất, các chất không mong đợi, các tác nhân gây nguy hại vào các
nguồn nước, vượt khỏi khả năng tự làm sạch của các nguồn nước này”.[20]
2.1.4. Đặc điểm, tính chất của nước thải
Bảng 2.1: Đặc điểm lý học, hoá học và sinh học của nước thải

Đặc điểm
Màu


Mùi

Học
Chất rắn

Nguồn
Nước thải sih hoạt hay công nghiệp, thường do
sự phân huỷ của các chất thải hữu cơ
Nước thải công nghiệp, sự phân huỷ của nước
thải

Nước cấp, nước thải sinh hoạt và công nghiệp,

Nhiệt

xói mòn đất
Nước thải sinh hoạt, công nghiệp

Hoá

Carbohydrate

Nước thải sinh hoạt, thương mại, công nghiệp

học

Dầu, mỡ

Nước thải sinh hoạt, thương mại, công nghiệp

Thuốc trừ sâu

Nước thải nông nghiệp

Phenols

Nước thải công nghiệp

Protein

Nước thải sinh hoạt, thương mại, công nghiệp


Chất hữu cơ bay hơi

Nước thải sinh hoạt, thương mại, công nghiệp

Các chất nguy hiểm

Nước thải sinh hoạt, thương mại, công nghiệp
Do sự phân huỷ của các chất hữu cơ trong

Các chất khác
Tính kiềm

nước thải trong tự nhiên
Chất thải sinh hoạt, nước cấp, nước ngầm

Chlorides

Nước cấp, nước ngầm

Kim loại nặng

Nước thải công nghiệp

Nitrogen

Nước thải sinh hoạt, công nghiệp

pH


Nước thải sinh hoạt, thương mại, công nghiệp
Nước thải sinh hoạt, thương mại, công nghiệp;

Photphorus
Sulfur

rửa trôi
Nước thải sinh hoạt, thương mại, công nghiệp;
4


nước cấp
Hydrogen sulfide

Sự phân huỷ của nước thải sinh hoạt

Methane

Sự phân huỷ của nước thải sinh hoạt
Nước cấp, sự trao đổi qua bề mặt tiếp xúc

Oxygen

Sinh
học

Động vật

không khí – nước
Các dòng chảy hở và hệ thống xử lý


Thực vật

Các dòng chảy hở và hệ thống xử lý

Eubacteria

Nước thải sinh hoạt, hệ thống xử lý

Archaebacteria

Nước thải sinh hoạt, hệ thống xử lý

Viruses
Nước thải sinh hoạt, hệ thống xử lý
(Nguồn: Wastewater Engineering: treatment, reuse, disposal, 1998)
Nhìn chung, các đặc điểm lý học, hóa học và sinh học của nước thải phụ
thuộc vào nguồn phát sinh ra chúng.
Đặc điểm vật lý của nước thải được xác định dựa trên các chỉ tiêu: màu
sắc, mùi, chất rắn và nhiệt độ. Màu: nước thải mới có màu nâu hơi sáng, tuy
nhiên thường là có màu xám có vẩn đục. Màu sắc của nước thải sẽ thay đổi
đáng kể nếu như bị nhiễm khuẩn, khi đó sẽ có màu đen tối. Mùi: có trong
nước thải là do các khí sinh ra trong quá trình phân hủy các hợp chất hữu cơ
hay do một số chất được đưa thêm vào. Nhiệt độ: nhiệt độ của nước thải
thường cao hơn so với nguồn nước sạch ban đầu, do có sự gia nhiệt vào nước
từ các đồ dùng trong gia đình và các máy móc sản xuất.
Các đặc điểm hóa học: Carbohydrate, dầu mỡ, protein, chất hữu cơ bay
hơi, các chất nguy hiểm, pH, phosphorus, sulfua thường phát sinh chủ yếu từ
các nguồn thương mại, công nghiệp. Thuốc trừ sâu, phenols thì nguồn phát
sinh chủ yếu từ nước thải nông nghiệp. Một số chất khác thì phát sinh do

nước thải sinh hoạt, nước cấp, nước ngầm…
Ngoài các đặc điểm hóa, lý thì các đặc điểm sinh học cũng thể hiện ở
một số thành phần như động vật, thực vật, Eubacteria, Archaebacteria và
5


Viuses được phát sinh từ các dòng chảy hở, nước thải sinh hoạt.
Thành phần và tính chất nước thải sinh hoạt
Thành phần nước thải sinh hoạt phụ thuộc vào tiêu chuẩn cấp nước, đặc
điểm hệ thống thoát nước điều kiện trang thiết bị vệ sinh… và có thể tham
khảo theo bảng sau đây:
Bảng 2.2: Thành phần nước thải sinh hoạt khu dân cư
Chỉ Tiêu
Trong khoảng
Trung bình
Tổng chất rắn(TS), mg/l
350 – 1200
720
Chất rắn hoà tan(TDS), mg/l
250 – 850
500
Chất rắn lơ lửng (SS), mg/l
100 – 350
220
BOD5, mg/l
110 – 400
220
Tổng Nitơ, mg/l
20 – 85
40

Nitơ hữu cơ, mg/l
8 – 35
15
Nitơ Amoni, mg/l
12 – 50
25
Nitơ Nitrit, mg/l
0 – 0,1
0,05
Nitơ Nitrat, mg/l
0,1 – 0,4
0,2
Clorua, mg/l
30 – 100
50
Độ kiềm, mg CaCO3/l
50 – 200
100
Tổng chất béo, mg/l
50 – 150
100
Tổng phốt pho, mg/l
8
(Nguồn: Metcalf&Eddy. Wastewater Engineering Treatment, Disposal,
Reuse. Third Eđition, 1991)
Đặc trưng của nước thải sinh hoạt là hàm lượng chất hữu cơ lớn (từ 50 –
55%), chứa nhiều vi sinh vật, trong đó có vi sinh vật gây bệnh. Đồng thời
trong nước thải còn có nhiều vi khuẩn phân huỷ chất hữu cơ, cần thiết cho các
quá trình chuyển hoá chất bẩn trong nước. Trong nước thải đô thị còn có vi
khuẩn gây bệnh phát triển, tổng số coliform từ 10 6 – 109 MPN/100ml, fecal

coliform từ 104 – 107 MPN/100ml.
Như vậy nước thải sinh hoạt của đô thị, các khu dân cư và các cơ sở dịch
vụ, công trình công cộng có khối lượng lớn, hàm lượng chất bẩn cao, nhiều vi
khuẩn gây bệnh là một trong những nguồn gây ô nhiễm chính đối với môi
trường nước.
6


2.1.5. Vấn đề môi trường liên quan đến nước thải
a. Ảnh hưởng đến môi trường nước và sinh vật nước
- Nước:
+ Nước ngầm: Ngoài việc các cặn lơ lửng trong nước mặt, các chất thải
nặng lắng xuống đáy sông, sau khi phân huỷ, một phần lượng chất được các
sinh vật tiêu thụ, một phần thấm xuống mạch nước bên dưới (nước ngầm) qua
đất, làm biến đổi tính chất của loại nước này theo chiều hướng xấu (do các
chất chứa nhiều chất hữu cơ, kim loại nặng…), bên cạnh đó, việc khai thác
nước ngầm bừa bãi và người dân xây dựng các loại hầm chứa chất thải cũng
góp phần làm suy giảm chất lượng nước ngầm, làm cho lượng nước ngầm vốn
đã khan hiếm, nay càng hiếm hơn nữa.[13]
+ Nước mặt: Do nhiều nguyên nhân khác nhau, gây ra sự mất cân bằng
giữa lượng chất thải ra môi trường nước (rác thải sinh hoạt, các chất hữu cơ,
…) và các sinh vật tiêu thụ lượng chất thải này (vi sinh vật, tảo,…)làm co các
chất hữu cơ, chất rắn lơ lửng,… không được phân huỷ, vẫn còn lưu lại trong
nước với khối lượng lớn, dẫn đến việc nước dần mất đi sự tinh khiết ban đầu,
làm chất lượng nguồn nước bị suy giảm nghiêm trọng.[13]
- Sinh vật nước:
Ô nhiễm nước ảnh hưởng trực tiếp tới các sinh vật nước, đặc biệt là vùng
sông, do nước chịu tác động của ô nhiễm nhiều nhất. Nhiều loài thuỷ sinh do
hấp thụ các chất độc trong nước, thời gian lâu ngày gây biến đổi trong cơ thể
nhiều loài thuỷ sinh, một số trường hợp gây đột biến gen, tạo nhiều loài mới,

một số trường hợp làm cho nhiều loài thuỷ sinh chết.[13]
Đại dương tuy chiếm ¾ diện tích trái đất, nhưng cũng không thể không
chịu tác động bởi việc nước bị ô nhiếm, mà một phần sự ô nhiễm nước đại
dương là do các hoạt động của con người như việc khai thác dầu, rác thải từ
người đi biển,… gây ảnh hưởng không nhỏ tới đại dương và các sinh vật đại
7


dương, làm xuất hiện nhiều hiện tượng lạ, đồng thời làm cho nhiều loài sinh
vật biển không có nơi sống, một số vùng có nhiều loài sinh vật biển chết hàng
loạt.[13]
b. Ảnh hưởng tới môi trường đất và sinh vật đất
- Đất
Nước bị ô nhiễm mang nhiều chất vô cơ và hữu cơ thấm vào đất gây ô
nhiễm nghiêm trọng cho đất.
Nước ô nhiễm thấm vào đất làm:
+ Liên kết giữa các hạt keo đất bị bẻ gãy, cấu trúc đất bị phá vỡ.
+ Thay đổi đặc tính lý học, hoá học của đất.
+ Vai trò đệm, tính oxy hoá, tính dẫn điện, dẫn nhiệt của môi trường đất
thay đổi mạnh.
+ Thành phần chất hữu cơ giảm nhanh làm khả năng giữ nước và thoát
nước của đất bị thay đổi.
Một số chất hay ion có trong nước thải ảnh hưởng đến đất:
+ Quá trình oxy hoá các ion Fe 2+ và Mn2+ có nồng độ cao tạo thành các
axit không tan Fe2O3 và MnO2 gây ra hiện tượng “nước phèn” dẫn đến đóng
thành váng trên mặt đất (đóng phèn).
+Canxi, magie và các ion kim loại khác trong đất bị nước chứa axit
cacbonic rửa trôi thì đất sẽ bị chua hoá.[13]
- Sinh vật đất
Khi các chất ô nhiễm từ nước thấm vào đất không những gây ảnh hưởng

đến đất mà còn ảnh hưởng đến cả các sinh vật đang sinh sống trong đất.
+ Các ion Fe2+ và Mn2+ ở nồng độ cao là các chất độc hại với thực vật.
+ Cu trong nguồn nước ô nhiễm từ các khu công nghiệp thải ra thấm vào
đất không độc lắm đối với động vật nhưng độc đối với cây cối ở nồng độ
trung bình.
+ Các chất ô nhiễm làm giảm quá trình hoạt động phân huỷ chất của một
8


số vi sinh vật trong đất.
+ Là nguyên nhân làm cho nhiều cây cối còi cọc, khả năng chống chịu
kém, không phát triển được hoặc có thể bị thối gốc mà chết.
Có nhiều loại chất độc bền vững khó bị phân huỷ có khả năng xâm nhập
tích luỹ trong cơ thể sinh vật. Khi vào cơ thể sinh vật chất độc cũng có thể
phải cần thời gian để tích luỹ đến lúc đạt mức nồng độ gây độc.[13]
c. Ảnh hưởng tới môi trường không khí
Ô nhiễm môi trường nước không chỉ ảnh hưởng đến con người, đất,
nước mà còn ảnh hưởng đến không khí. Các hợp chất hữu cơ, vô cơ độc hại
trong nước thải thông qua vòng tuần hoàn nước, theo hơi nước vào không khí
làm cho mật độ bụi bẩn trong không khí tăng lên. Không những vậy, các hơi
nước này còn là giá bám cho các vi sinh vật và các loại khí bẩn công nghiệp
độc hại khác. Một số chất khí được hình thành do quá trình phân huỷ các hợp
chất hữu cơ trong nước thải như SO2, CO2, CO,… ảnh hưởng nghiêm trọng
đến môi trường khí quyển và con người, gây ra các căn bệnh liên quan đến
đường hô hấp như: niêm mạc đường hô hấp trên, viêm phổi, viêm phế quản
mãn tính, gây bệnh tim mạch, tăng mẫn cảm ở những người mắc bệnh hen,…
[13]
d. Ảnh hưởng đến sức khỏe con người
- Do kim loại trong nước: Các kim loại nặng có trong nước là cần thiết
cho sinh vật và con người vì chúng là những nguyên tố vi lượng mà sinh vật

cần tuy nhiên với hàm lượng cao nó lại là nguyên nhân gây độc cho con
người, gây ra nhiều bệnh hiểm nghèo như ung thư, đột biến. Các ion kim loại
được phát hiện là hợp chất kìm hãm enzyme mạnh. Chúng tác dụng lên phôi
tử như nhóm – SCH3 và SH trong methionin và xystein. Một số kim loại tác
động rất nguy hiểm đến sức khỏe con người là: As, Cr, Pb, Hg, Mn…[8]
- Bệnh do nồng độ nitrat cao trong nước: Nồng độ nitrat cao trong nước
có thể do phân huỷ chất hữu cơ trong tự nhiên hoặc do ảnh hưởng của chất
9


thải ô nhiễm. Trong nước chứa hàm lượng nitrat trên 10mg/l có thể gây ra
bệnh tím tái ở trẻ em. Người ta thấy hàm lượng mthemoglobine trong máu
cao với cả trẻ em và người lớn khi dùng nước có hàm lượng nitrat cao hơn
giới hạn cho phép.[8]
- Các hợp chất hữu cơ: Trên thế giới hàng năm có khoảng 60.105 tấn các
chất hữu cơ tổng hợp bao gồm các chất nhiên liệu, chất màu, thuốc trừ sâu,
thuốc kích thích tăng trưởng, các phụ gia trong dược phẩm thực phẩm. Các
chất này thường độc và có độ bền sinh học khá cao, đặc biệt là các
hidrocacbon thơm gây ô nhiễm môi trường mạnh, gây ảnh hưởng lớn đến sức
khỏe con người. Các hợp chất hữu cơ như: các hợp chất hữu cơ của phenol,
các hợp chất bảo vệ thực vật như thuốc trừ sâu DDT, linden(666), endrin,
parathion, sevin, bassa… Các chất tẩy rửa có hoạt tính bề mặt cao là những
chất ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe, bị nghi ngờ là gây ung thư.[8]
- Vi khuẩn trong nước thải: Vi khuẩn có hại trong nước bị ô nhiễm có từ
chất thải sinh hoạt của con người và động vật như bệnh tả, thương hàn và bại
liệt. Ecoli – vi khuẩn đường ruột gây bệnh dạ dày, viêm nhiễm đường tiết
liệu, tiêu chảy cấp.[8]
2.2. Tình hình ô nhiễm nguồn nước và biện pháp xử lý trên thế giới
2.2.1. Tình trạng ô nhiễm nước trên thế giới
Trong thập niên 60, ô nhiễm nước lục địa và đại dương gia tăng với nhịp

độ đáng lo ngại. Tốc độ ô nhiễm nước phản ánh một cách chân thực tốc độ
phát triển kinh tế của các quốc gia. Xã hội càng phát triển thì càng xuất hiện
nhiều nguy cơ. Ta có thể kể ra đây vài ví dụ tiêu biểu.[19]
Từ các đại dương lớn trên thế giới, nơi chứa đựng hầu hết lượng nước
trên trái đất, nước luôn được lưu thông thường xuyên và sự ô nhiễm nếu xảy
ra cũng chỉ mang tính chất nhỏ bé nhưng nay cũng đang hứng chịu sự ô
nhiễm nặng nề, tùy từng đại dương mà mức độ ô nhiễm lại khác nhau. Nhiều
10


vùng biển trên thế giới đang bị ô nhiễm nghiêm trọng, đe dọa đến sự sống của
các loài động vật biển mà chủ yếu là nguồn ô nhiễm đất liền và giao thông
vận tải biển gây nên.[19]
Ô nhiễm nước ngọt lại càng nghiêm trọng. Trung bình mỗi ngày trên trái
đất có khoảng 2 triệu tấn chất thải sinh hoạt đổ ra sông hồ và biển cả, 70%
lượng chất thải công nghiệp không qua xử lý bị trực tiếp đổ vào các nguồn
nước tại các quốc gia đang phát triển.[19]
Xác chết của một con bò nằm trên nền đất ở San Isidro de Cienega, bang
Nuevo Leon, Mexico. Vào tháng 11/2011, Mexico phải hứng chịu đợt hạn
hán nặng nề nhất trong vòng 70, ảnh hưởng đến 70% lãnh thổ quốc gia này.
Nước bẩn chảy ra từ một mỏ vàng đã bị đóng cửa ở gần làng Rosia
Motana, Romania, 20/09/2011.[19]
Mực nước xuống thấp tại con đập El Atazar gần El Berrueco, ở Madrid,
Tây Ban Nha. Tháng 3/2012, nông dân Tây Ban Nha đã phải đối mặt với đợt
hạn hán lớn nhất trong vòng 70 năm.[19]
2.2.2. Tình hình xử lý nước thải trên thế giới
Lượng nước thải ngày một tăng lên đang là mối đe dọa nghiêm trọng đối
với môi trường. Nước thải chứa hàm lượng các chất ô nhiễm cao như: COD,
BOD, NH4+, NO3-, PO43-, tổng Coliform, các kim loại nặng Cu, Pb, Zn, Hg,
As,… nếu không có các biện pháp hữu hiệu để xử lý sẽ gây ô nhiễm nguồn

nước mặt, theo thời gian sẽ ảnh hưởng, làm ô nhiễm đất và nguồn nước ngầm.
Do đó, để đảm bảo sự phát triển kinh tế đi đối với bảo vệ môi trường thì các
phương pháp xử lý nước thải cũng được nghiên cứu và phát triển. Các
phương pháp xử lý nước thải hiện nay được chia thành:
- Phương pháp cơ học: được sử dụng để tách các tạp chất không hòa tan
và một phần các chất ở dạng keo ra khỏi nước thải. Các công trình xử lý cơ
học bao gồm: thiết bị chắn rác, nghiền rác, bể điều hòa, bể lắng, lọc, vớt dầu
mỡ,…
11


- Phương pháp hóa lý: có bổ sung thêm hóa chất từ ngoài vào, bao gồm
phương pháp keo tụ tạo bông, trung hòa, tuyển nổi, hấp thụ, hấp phụ, trao đổi
ion, oxy hóa khử, phương pháp điện hóa,…
- Phương pháp sinh học: sử dụng các vi sinh vật sẵn có trong nước thải
hoặc bổ sung thêm các chủng, giống vi sinh vật để nâng cao hiệu suất xử lý
nước thải. Các phương pháp sinh học có thể được duy trì trong các điều kiện
yếm khí (không có oxy), thiếu khí và hiếu khí (bổ sung oxy từ ngoài vào).
Hiện nay, việc kết hợp các phương pháp xử lý một cách khoa học giúp
mang lại hiệu quả cao trong xử lý nước thải, giảm chi phí đầu tư, vận hành…
[22]
a. Một số công nghệ xử lý nước thải công nghiệp
Cùng với sự phát triển của sản xuất công nghiệp, xử lý nước thải công
nghiệp đang là vấn đề vô cùng quan trọng, bảo đảm cho sự trong sạch môi
trường sống đồng thời góp phần vào sự phát triển bền vững của nền kinh tế
mọi quốc gia trên thế giới. Tại nhiều nước có nền công nghiệp phát triển cao
như Nhật, Mỹ, Anh, Pháp,… các hệ thống xử lý nước thải công nghiệp đã
được nghiên cứu và đưa vào ứng dụng từ lâu, đặc biệt các thành tựu tiên tiến
trong lĩnh vực tự động hóa cũng đã được áp dụng và đem lại hiệu quả kỹ
thuật, kinh tế xã hội vô cùng to lớn.

- Ngành dệt nhuộm:
+ Đặc trưng của nước thải đệt nhuộm
Nước thải dệt nhuộm chủ yếu được phát sinh trong quá trình hồ sợi, giặt
hồ, nấu tẩy, nhuộm,… Nước thải dệt nhuộm thường có độ pH cao gây độc với
các loại thủy sinh, gây ăn mòn.
Độ màu của nước thải dệt nhuộm cao do trong quá trình sử dụng thuốc
nhuộm chỉ phần nhỏ lượng màu bám vào vải còn phần lớn thải ra cùng nước
gây màu cho nước thải khi thải vào môi trường. Ngoài hai yếu tố trên các chất
độc khác như sunfit, kim loại nặng, các hợp chất hữu cơ halogen có thể tích tụ
12


vào cơ thể sinh vật rồi đi vào chuỗi thức ăn gây lên các bệnh mãn tính cho
người và động vật.[11]
+ Quy trình công nghệ
Nước thải từ cống thải chung của nhà máy được loại bỏ rác qua hệ thống
song chắn rác. Sau khi loại bỏ rác, nước thải được chảy sang bể điều hòa để
chỉnh nồng độ và lưu lượng, nước thải từ bể điều hòa được bơm sang hệ
thống bể phản ứng keo tụ nhằm xử lý màu và xử lý các hợp chất hữu cơ mạch
vòng.
Nước thải sau quá trình keo tụ được tự chảy sang bể lắng hóa lý để loại
bỏ cặn lắng trong quá trình keo tụ. Nước sạch được chảy sang bể aerotank để
xử lý các chất hữu cơ có thể xử lý bằng quá trình sinh học. Bùn thải từ bể lắng
hóa lý được bơm sang bể chứa bùn. Tại bể sinh học dưới tác dụng của các vi
sinh vật hiếu khí, các chất hữu cơ được xử lý tạo thành bùn sinh khối. Nước
sạch được cho qua hệ thống bể lọc áp lực để loại bỏ tối đa các chất rắn lơ
lửng.[11]
- Ngành chế biến thực phẩm:
+ Đặc trưng của nước thải chế biến thực phẩm
Chủ yếu chứa các chất hữu cơ ít độc có nguồn gốc thực vật hoặc động

vật. Chất thải hữu cơ có nguồn gốc từ thực vật đa phần là Cacbon – Hydrat.
Chất thải có nguồn gốc động vật có thành phần chủ yếu là Protein và chất
béo. Chất rắn lơ lửng, BOD, COD, vi khuẩn gây hại.
Chế biến thực phẩm thường gây ô nhiễm mùi và nước thải, nhiều trường
hợp cũng góp phần quan trọng gây ô nhiễm mùi.[11]
+ Một số giải pháp công nghệ áp dụng
Xử lý bằng phương pháp sinh học hiếu khí: Biện pháp này dùng các vi
sinh vật hiếu khí phân hủy các chất hữu cơ trong nước và các thành phần gây
ô nhiễm thành các chất vô cơ không gây ô nhiễm.[7]
Xử lý bằng phương pháp sinh học kị khí: Biện pháp này dùng các vi sinh
vật kị khí để phân hủy các chất hữu cơ và các thành phần gây ô nhiễm trong
nước. Cơ chế phân hủy này diễn ra trong điều kiện kị khí nên có thể áp dụng
13


cho những nơi có quỹ đất hẹp và không có mặt thoáng lớn; có thể áp dụng
trong khu vực đông dân cư.
Xử lý bằng phương pháp lọc sinh học: Xử lý sinh học nói chung rất phù
hợp đối với các loại nước thải công nghiệp thực phẩm do bản chất dễ thối rữa
và dễ phân hủy của chất ô nhiễm.[7]
- Ngành sản xuất bia rượu và giải khát
+ Đặc trưng chất thải của ngành
Sản xuất rượu bia thải ra thường có đặc tính chung là ô nhiễm chất hữu
cơ rất cao, nước thải thường có màu xám đen và khi thải vào các thủy vực đón
nhận thường gây ô nhiễm nghiêm trọng do sự phân hủy của các chất hữu cơ
diễn ra rất nhanh. Thêm vào đó là các hóa chất sử dụng trong quá trình sản
xuất như CaCO3, CaSO4, H3PO4, NaOH, Na2CO3… Những chất này cùng với
các chất hữu cơ trong nước thải có khả năng đe dọa nghiêm trọng tới thủy vực
đón nhận nếu không được xử lý.[7]
+ Một số giải pháp công nghệ áp dụng

Ngành sản xuất có đường và chưng cất (ngành sản xuất nước giải khát)
là các ngành công nghiệp gây ô nhiễm cao và lượng nước thải lớn. Các
phương pháp xử lý nước thải ngành này bao gồm các phương pháp kỵ khí,
hiếu khí cũng như lý hóa đã được sử dụng. Xử lý kỵ khí là phương pháp xử lý
cơ bản hấp dẫn nhất do loại bỏ hơn 80% BOD kết hợp với phục hồi năng
lượng trong phượng pháp tạo khí sinh học. Tiếp tục xử lý để giảm tải hữu cơ
còn xót lại và màu sắc bao gồm các giai đoạn khác nhau:
(1) Sử dụng phương pháp sinh học dùng các loại nấm khác nhau, vi
khuẩn và tảo…
(2) Sử dụng phương pháp lý hóa và phương pháp như hấp phụ, quá trình
oxy hóa và lọc màng.
Công trình này trình bày một đánh giá về tình trạng hiện tại và tiến bộ
trong phương pháp sinh học và hóa lý được áp dụng để xử lý nước thải có quá
trình chưng cất mật đường. Hơn nữa, hạn chế trong quá trình hiện đã có được

14


tổng kết và các khu vực tiềm năng để điều tra thêm đã được thảo luận.[7]
b. Một số công nghệ xử lý nước thải ngành y tế
- Đặc trưng nước thải bệnh viện:
Các vi sinh vật, vi khuẩn, vi rút được thải ra từ bệnh nhân có thể dẫn đến
lây lan. Các chất kháng sinh và các dược chất, kể cả các chất phóng xạ (dùng
trong chuẩn đoán và điều trị).
Các hóa chất và kim loại được thải ra trong các hoạt động của bệnh viện
(hóa chất xét nghiệm và sản phẩm, các kim loại có trong các thiết bị dụng cụ
y tế). Các chất thải giống như nước thải sinh hoạt.[9]
- Một số giải pháp công nghệ áp dụng:
+ Xử lý nước thải bệnh viện theo công nghệ hợp khối: Nguyên lý hợp
khối cho phép thực hiện kết hợp nhiều quá trình cơ bản xử lý nước thải đã

biết trong không gian thiết bị của mỗi mô-đun để tăng hiệu quả và giảm chi
phí vận hành xử lý nước thải. Thiết bị xử lý hợp khối cùng một lúc thực hiện
đồng thời quá trình xử lý sinh học thiếu khí và hiếu khí. Việc kết hợp đa dạng
này sẽ tạo mật độ màng vi sinh tối đa mà không gây tắc các lớp đệm, đồng
thời thực hiện oxy hóa mạnh và triệt để các chất hữu cơ trong nước thải. Thiết
bị hợp khối còn áp dụng phương pháp lắng có lớp bản mỏng (lamen) cho
phép tăng bề mặt lắng và rút ngắn thời gian lưu. Việc áp dụng công nghệ hợp
khối này sẽ không những đảm bảo loại trừ các chất gây ô nhiễm xuống dưới
tiêu chuẩn cho phép trước khi thải ra môi trường, mà còn tiết kiệm chi phí đầu
tư. Bởi công nghệ này có thể giảm thiểu được phần đầu tư xây dựng, dễ quản
lý vận hành, tiết kiệm diện tích đất xây dựng, kiểm soát các ô nhiễm thứ cấp
như tiếng ồn và mùi hôi.[9]
+ Ứng dụng công nghệ ozon vào xử lý nước thải bệnh viện: Nước thải ô
nhiễm làm cho không khí xung quanh cũng bị ô nhiễm và lây lan rất nhanh,
rất phức tạp và khó kiểm soát. Để triệt các ô nhiễm loại này cần đồng thời và
nhanh chóng ức chế phát triển, gom trói cô lập, tiêu diệt vi sinh, trừ khử dứt
điểm và đào thải càng sớm càng tốt.
15


Một trong những giải pháp hiệu quả cao và an toàn là tiến hành ức chế
gom trói bằng ion âm và phân hủy bằng công nghệ oxy hóa sâu AOP
(Advanced Oxydation Processes) – đã được Hiệp hội Ozone quốc tế IOA giới
thiệu lần đầu tiên tháng 6 năm 2000 tại Hội thảo quốc tế ở TOKYO (Nhật
Bản). Trong đó đã dùng ion âm tiền xử lý và phối hợp với Ozone có nồng độ
cao (đôi khi cho thêm cả nước oxy già H 2O2) để tạo thêm hydro oxy ion âm
HO – làm tăng cường độ và năng lực oxy hóa giúp xử lý sạch nhanh và triệt
để những ô nhiễm “cứng đầu” nhất.[9]
c. Một số công nghệ xử lý nước thải sinh hoạt
- Đặc trưng của nước thải sinh hoạt:

Nước thải sinh hoạt là nước thải phát sinh từ các hoạt động sinh hoạt của
các cộng đồng dân cư như: khu vực đô thị, trung tâm thương mại, khu vực vui
chơi giải trí, cơ quan công sở,… Các thành phần ô nhiễm chính đặc trưng
thường cho thấy ở nước sinh hoạt là BOD 5, COD, Nitơ và Phốt pho. Một yếu
tố gây ô nhiễm quan trọng trong nước thải sinh hoạt đó là các mầm bệnh được
lây truyền bởi các vi sinh vật có trong phân. Vi sinh vật gây bệnh cho người
bao gồm các nhóm chính là virus, vi khuẩn, nguyên sinh bào và giun sán.
Chứa thành phần hữu cơ nhiều: BOD5, COD, SS, tổng P, tổng N cao.
Nhiều vi sinh vật gây bệnh. Thành phần chất thải chứa nhiều dầu mỡ, chất tẩy
rửa.[9]
- Công nghệ xử lý nước thải:
Với thành phần ô nhiễm là các tạp chất nhiễm bẩn có tính chất khác
nhau, từ các loại chất không tan đến các chất ít tan và cả những hợp chất tan
trong nước, việc xử lý nước thải sinh hoạt là loại bỏ các tạp chất đó, làm sạch
nước và có thể đưa nước vào nguồn tiếp nhận hoặc đưa vào tái sử dụng. Việc
lựa chọn phương pháp xử lý thích hợp thường được căn cứ trên đặc điểm của
các loại tạp chất có trong nước thải. Nguyên tắc lựa chọn công nghệ xử lý
nước thải phụ thuộc vào:
+ Thành phần và tính chất nước thải
+ Mức độ cần thiết xử lý nước thải
+ Lưu lượng và chế độ xả thải
16


+ Đặc điểm nguồn tiếp nhận
+ Điều kiện mặt bằng và địa hình khu vực dự kiến xây dựng trạm xử lý
nước thải
+ Điều kiện địa chất thủy văn, khí hậu tại khu vực dự kiến xây dựng
+ Điều kiện cơ sở hạ tầng (cấp điện, cấp nước, giao thông)
+ Điều kiện vận hành và quản lý hệ thống xử lý nước thải

Công nghệ xử lý nước thải sinh hoạt nói chung thường phụ thuộc vào
quy mô dân số (tức phụ thuộc vào lưu lượng nước thải).
Các phương pháp chính thường được sử dụng trong các công trình xử
lý nước thải sinh hoạt là: phương pháp hóa học, phương pháp hóa lý, và
phương pháp sinh học.
+ Các phương pháp hóa học: dùng trong hệ thống xử lý nước thải sinh
hoạt gồm có: trung hòa, oxy hóa khử, tạo kết tủa hoặc phản ứng phân hủy các
hợp chất độc hại. Cơ sở của phương pháp này là các phản ứng hóa học diễn ra
giữa các chất ô nhiễm và hóa chất thêm vào. Do đó, ưu điểm của phương
pháp là có hiệu quả xử lý cao, thường được sử dụng trong các hệ thống xử lý
nước khép kín. Tuy nhiên, phương pháp hóa học có nhược điểm là chi phí vận
hành cao, không thích hợp cho các hệ thống XLNT sinh hoạt với quy mô lớn.
Bản chất của phương pháp hóa lý trong quá trình xử lý nước thải sinh hoạt là
áp dụng các quá trình vật lý và hóa học để đưa vào nước thải chất phản ứng
nào đó gây tác động với các tạp chất bẩn, biến đổi hóa học, tạo thành các chất
khác dưới dạng cặn hoặc chất hòa tan nhưng không độc hại hoặc gây ô nhiễm
môi trường.[9]
+ Phương pháp hóa lý: thường được áp dụng để xử lý nước thải là: keo
tụ, tuyển nổi, đông tụ, hấp phụ, trao đổi ion, thấm lọc ngược và siêu lọc…
Giai đoạn xử lý hóa lý có thể là giai đoạn xử lý độc lập hoặc xử lý cùng với
các phương pháp cơ học, hóa học và sinh học trong công nghệ XLNT hoàn
chỉnh.[9]
+ Phương pháp sinh học: trong quá trình XLNT sinh hoạt là sử dụng
khả năng sống và hoạt động của các vi sinh vật có ích để phân hủy các chất
hữu cơ và các thành phần ô nhiễm trong nước thải. Các quá trình xử lý sinh
17


học chủ yếu có 5 nhóm chính: quá trình hiếu khí, quá trình trung gian anoxic,
quá trình kị khí, quá trình kết hợp hiếu khí – trung gian anoxic – kị khí, các

quá trình hồ. Đối với việc XLNT sinh hoạt có yêu cầu đầu ra không quá khắt
khe đối với chỉ tiêu N và P, quá trình xử lý hiếu khí bằng bùn hoạt tính là quá
trình xử lý sinh học thường được ứng dụng nhất.[9]
2.3. Thực trạng ô nhiễm nguồn nước và biện pháp xử lý ở Việt Nam
2.3.1. Tình trạng ô nhiễm nước ở nước ta
a. Ở thành thị và các khu sản xuất
Hiện nay ở Việt Nam, mặc dù các cấp, các ngành đã có nhiều cố gắng
trong việc thực hiện chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường, nhưng tình
trạng ô nhiễm nước là vấn đề rất đáng lo ngại. Tốc độ công nghiệp hóa và đô
thị hóa khá nhanh và sự gia tăng dân số gây áp lực ngày càng nặng nề đối với
tài nguyên nước trong vùng lãnh thổ. Môi trường nước ở nhiều đô thị, khu
công nghiệp và làng nghề ngày càng bị ô nhiễm bởi nước thải, khí thải và chất
thải rắn. Ở các thành phố lớn, hàng trăm cơ sở sản xuất công nghiệp đang gây
ô nhiễm môi trường nước do không có công trình và thiết bị xử lý chất thải. Ô
nhiễm nước do sản xuất công nghiệp là rất nặng. Ví dụ: ở ngành công nghiệp
dệt may, ngành công nghiệp giấy và bột giấy, nước thải thường có độ pH
trung bình từ 9-11; chỉ số nhu cầu oxy sinh hóa (BOD), nhu cầu oxy hóa học
(COD) có thể lên đến 700mg/l và 2.500mg/l; hàm lượng chất rắn lơ lửng…
cao gấp nhiều lần giới hạn cho phép. Hàm lượng nước thải của các ngành này
có chứa xyanua (CN-) vượt đến 84 lần, H2S vượt 4,2 lần, hàm lượng NH3 vượt
84 lần tiêu chuẩn cho phép nên đã gây ô nhiễm nặng nề các nguồn nước mặt
trong vùng dân cư. Mức độ ô nhiễm nước ở các khu công nghiệp, khu chế
xuất, cụm công nghiệp tập trung là rất lớn.[4]
Tại cụm công nghiệp Tham Lương, thành phố Hồ Chí Minh, nguồn nước
bị nhiễm bẩn bởi nước thải công nghiệp với tổng lượng nước thải ước tính
500.000 m3/ngày từ các nhà máy giấy, bột giặt, nhuộm, đệt. Còn ở thành phố
18


Thái Nguyên, nước thải công nghiệp thải ra từ các cơ sở sản xuất giấy, luyện

gang thép, luyện kim màu, khai thác than; về mùa cạn tổng lượng nước thải
khu vực thành phố Thái Nguyên chiếm khoảng 15% lưu lượng sông Cầu;
nước thải từ sản xuất giấy có pH từ 8,4-9 và hàm lượng NH 4 là 4mg/l, hàm
lượng chất hữu cơ cao, nước thải có màu nâu, mùi khó chịu…[4]
Khảo sát một số làng nghề sắt thép, đúc đồng, nhôm, chì, giấy, dệt
nhuộm ở Bắc Ninh cho thấy có lượng nước thải hàng ngàn m 3/ngày không
qua xử lý, gây ô nhiễm nguồn nước và môi trường trong khu vực.
Tình trạng ô nhiễm nước ở các đô thị thấy rõ nhất là ở thành phố Hà Nội
và thành phố Hồ Chí Minh. Ở các thành phố này, nước thải sinh hoạt không
có hệ thống xử lý tập trung mà trực tiếp xả thải ra nguồn tiếp nhận (sông, hồ,
kênh, mương).[4]
Mặt khác, còn rất nhiều cơ sở sản xuất không xử lý nước thải, phần lớn
các bệnh viện và cơ sở y tế lớn chưa có hệ thống xử lý nước thải; một lượng
rác thải lớn trong thành phố không thu gom hết được… là những nguồn quan
trọng gây ô nhiễm nước. Hiện nay, mức độ ô nhiễm trong các kênh, sông, hồ
ở các thành phố lớn là rất nặng. Ở thành phố Hà Nội, tổng lượng nước thải
của thành phố lên tới 800-1000 m3/ngày; hiện mới chỉ có 5/31 bệnh viện có hệ
thống xử lý nước thải, chiếm 25% lượng nước thải bệnh viện; 36/400 cơ sở
sản xuất có xử lý nước thải; lượng rác thải sinh hoại chưa được thu gom
khoảng 1.200m3/ngày đang xả vào các khu đất ven các hồ, kênh, mương
trong nội thành; chỉ số BOD, oxy hoà tan, các chất NH4, NO2, NO3 ở các
sông, hồ, mương nội thành đều vượt quá quy định cho phép ở thành phố Hồ
Chí Minh thì lượng rác thải lên tới gần 4.000 tấn/ngày; chỉ có 24/142 cơ sở y
tế lớn là có xử lý nước thải; khoảng 3.000 cơ sở sản xuất gây ô nhiễm thuộc
diện phải di dời.[4]
Không chỉ ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh mà ở các đô thị khác như
Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Nam Định, Hải Dương… nước thải sinh hoạt cũng
19



không được xử lý độ ô nhiễm nguồn nước nơi tiếp nhận nước thải đều vượt
quá tiểu chuẩn cho phép (TCCP), các thông số chất lơ lửng (SS), BOD; COD;
Oxy hòa tan (DO) đều vượt từ 5-10 lần, thậm chí 20 lần TCCP.[4]
b. Ở nông thôn và khu vực sản xuất nông nghiệp
Về tình trạng ô nhiễm nước ở nông thôn và khu vực sản xuất nông
nghiệp, hiện nay Việt Nam có gần 76% dân số đang sinh sống ở nông thôn là
nơi cơ sở hạ tầng còn lạc hậu, phần lớn các chất thải của con người và gia súc
không được xử lý nên thấm xuống đất hoặc bị rửa trôi, làm cho tình trạng ô
nhiễm nguồn nước về mặt hữu cơ và vi sinh vật ngày càng cao. Theo báo cáo
của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, số vi khuẩn Feca coliform trung
bình biến đổi từ 1.500-3.500MNP/100ml ở các vùng ven sông Tiền và sông
Hậu, tăng lên tới 3800-12.500MNP/100ML ở các kênh tưới tiêu. [4]
Trong sản xuất nông nghiệp, do lạm dụng các loại thuốc bảo vệ thực vật,
các nguồn nước ở sông, hồ, kênh, mương bị ô nhiễm, ảnh hưởng lớn đến môi
trường nước và sức khỏe nhân dân. Theo thống kê của Bộ Thuỷ sản, tổng diện
tích mặt nước sử dụng cho nuôi trồng thuỷ sản đến năm 2001 của cả nước là
751.999 ha. Do nuôi trồng thuỷ sản ồ ạt, thiếu quy hoạch, không tuân theo
quy trình kỹ thuật nên đã gây nhiều tác động tiêu cực tới môi trường nước.
Cùng với việc sử dụng nhiều và không đúng cách các loại hoá chất trong nuôi
trồng thuỷ sản, thì các thức ăn dư lắng xuống đáy ao, hồ, lòng sông làm cho
môi trường nước bị ô nhiễm các chất hữu cơ, làm phát triển một số loài sinh
vật gây bệnh và xuất hiện một số tảo độc; thậm chí đã có dấu hiệu xuất hiện
thủy triều đỏ ở một số vùng ven biển Việt Nam.[4]
c. Hiện trạng ô nhiễm nước ở một số sông lớn ở nước ta
Hầu hết sông hồ ở các thành phố lớn như Hà Nội và TP HCM, nơi có
dân cư đông đúc và nhiều khu công nghiệp lớn đều bị ô nhiễm. Phần lớn
lượng nước thải sinh hoạt (khoảng 600.000m3 mỗi ngày, với khoảng 250 tấn
rác được thải ra các sông ở khu vực Hà Nội) và công nghiệp (khoảng
20



260.000m3 nhưng chỉ có 10% được xử lý) đều không được xử lý, mà đổ thẳng
vào các ao hồ, sau đó chảy ra các con sông lớn tại vùng Châu Thổ sông Hồng
và sông Mê kông. Ngoài ra, nhiều nhà máy và cơ sở sản xuất như các lò mổ
và ngay bệnh viện (khoảng 7.000m3 mỗi ngày, chỉ 30% là được xử lý) cũng
không được trang bị hệ thống xử lý nước thải.[21]
2.3.2. Các công nghệ áp dụng và hiệu quả của quá trình xử lý
a. Xử lý nước thải sinh hoạt đô thị
Đối với nước thải đô thị, khu dân cư, hầu hết sử dụng bể tự hoại xử lý tại
chỗ thuộc các hộ gia đình. Các bể tự hoại được xây thời Pháp thuộc đều có
ngăn lọc hiếu khí, sau ngày miền Bắc hoàn toàn giải phóng, người ta chỉ dùng
bể tự hoại không có ngăn lọc và được gọi là bể bán tự hoại. Tới nay có
khoảng 10 nhà máy xử lý nước thải đô thị đã được xây dựng và đưa vào hoạt
động tại Hà Nội, Đà Nẵng, Buôn Ma Thuột, Đà Lạt và TP Hồ Chí Minh. Đa
số các đô thị Việt Nam chưa có nhà máy trạm xử lý nước thải tập trung.
Hiện nay đã có một số thành phố khác đang thực hiện dự án thoát nước
và vệ sinh môi trường như TP Huế, Hạ Long, Việt Trì, Thanh Hóa, Đồng Hới,
Nha Trang, Quy Nhơn. Công nghệ XLNT là công nghệ sinh học hiếu khí
bằng bùn hoạt tính hoặc áp dụng công nghệ xử lý đơn giản là hồ sinh học.
Các đô thị nhỏ hầu như chưa có dự án thoát nước và xử lý nước thải.[11]
b. Xử lý nước thải bệnh viện, trường học hay cơ quan NCKH
+ Xử lý nước thải bằng bể lọc sinh học: Xứ lý nước thải bệnh viện bằng
bể lọc sinh học dễ xây dựng, lắp đặt, vận hành, bảo quản, giá thành rẻ. Nước
thải sau xử lý sạch hơn tiêu chuẩn Việt Nam, có thể thải thẳng ra môi trường
không ảnh hưởng đến môi trường và sức khỏe cộng đồng.
+ Biện pháp xử lý bằng phương pháp hóa sinh: Biện pháp xử lý hóa sinh
là biện pháp xử lý kết hợp giữa phương pháp xử lý sinh học và phương pháp
xử lý hóa học. Nước thải sau khi áp dụng phương pháp này được làm sạch
đảm bảo tiêu chuẩn TCVN 7382: 2004 và được đưa vào hệ thống thoát nước
21



chung.
Ưu điểm: Công nghệ và công trình linh động, phù hợp với điều kiện từng
bệnh viện. Kinh phí đầu tư xây dựng giảm từ 3 – 10 lần so với nhập từ nước
ngoài.
Tại các bệnh viện như BV Quân Đội 108, BV Bạch Mai, BV Hai Bà
Trưng, Hà Nội (xây dựng mới), BV Việt - Tiệp, BV Nhi TP Hải Phòng, BV
Đa khoa TP Huế, BV Nhi Thụy Điển Hà Nội và BV Uông Bí, BV Nhi TP
HCM… có trạm xử lý nước thải với công nghệ xử lý sinh học hiếu khí bằng
bùn hoạt tính hoặc kết hợp xử lý bằng phương pháp hóa học, Viện Khoa học
Việt Nam nay là Viện KH & CN Quốc Gia đã xây dựng và vận hành trạm xử
lý nước thải bằng hóa học và sinh học. Hiện có khoảng 100-150 trong số 1100
bệnh viện (hay khoảng 10-15% số bệnh viện) có trạm xử lý nước thải bệnh
viện đưa vào hoạt động. [11]
c. Xử lý nước thải công nghiệp
Hiện tại ở nước ta ước tính đã có khoảng 60-70 nhà máy xử lý nước thải
tập trung tại các KCN-KCX, trong số 171 KCN-KCX đưa vào hoạt động
(tổng số có 223 KCN-KCX có quyết định thành lập).[12]
Cũng khoảng 60% số khu công nghiệp và nhiều cụm công nghiệp, nhà
máy, cơ sở sản xuất, các làng nghề chưa có trạm XLNT, có nơi đã xây dựng
trạm XLNT nhưng không hoạt động. Công nghệ XLNT thường dùng là
phương pháp bùn hoạt tính và lọc sinh học.[12]
Công nghệ XLNT công nghiệp khá đa dạng và đặc biệt có xuất xứ từ
nhiều nước. Do đó các thiết bị cũng có xuất xứ từ nhiều nguồn cung cấp. Kết
quả sẽ gây nhiều khó khăn cho việc sửa chữa, thay thế khi cần thiết.[12]
Quy chuẩn đánh giá chất lượng nước thải: Theo Quy chuẩn kỹ thuật
quốc gia về nước thải công nghiệp (QCVN 40: 2011/BTNMT).
d. Xử lý nước thải làng nghề
Trong vòng 10 năm lại đây vấn đề môi trường làng nghề đã được nhiều

22


chương trình NCKH quan tâm như Làng nghề Việt Nam và Môi trường và
nhiều đề tài nghiên cứu ứng dụng khác. Cho đến nay một số cơ sở ở làng
nghề dệt nhuộm Dương Nội, Hà Đông, Giấy Yên Phong, Bắc Ninh, cơ sở mạ
kim loại, dùng công nghệ hóa học – keo tụ, kết tủa + lắng nước thải. Một số
cơ sở chế biến giấy còn áp dụng keo tụ kết hợp tuyển nổi… Một số cơ sở chế
biến bún – bánh đa đã áp dụng bãi lọc sinh học ngập nước, một số khác dùng
bãi lọc trồng cây… Nhìn chung công nghệ XLNT các làng nghề, tùy thuộc
từng ngành sản xuất, tùy thuộc từng điều kiện làng xóm mà áp dụng các công
nghệ đa dạng khác nhau.[2]
2.3.3. Đánh giá công nghệ và hoạt động vận hành xử lý nước thải
Do khả năng kinh tế của Việt Nam còn có hạn, nên việc đầu tư xử lý
nước thải đô thị chưa được nhiều, như đã mô tả ở trên. Việc hút bùn từ bể tự
hoại cũng chưa thực hiện đúng thời hạn.
Trong khoảng 10 – 15 năm lại đây các cơ quan nghiên cứu và các trường
đại học đã nghiên cứu theo hướng công nghệ xử lý chi phí thấp và đang áp
dụng ở một số nơi và thu được kết quả ban đầu.
Việc quản lý vận hành và bảo dưỡng ở các nhà máy xử lý nước thải với
mọi cấp độ và quy mô đang là một vấn đề lớn không chỉ đối với nước ta mà
cả các nước đang phát triển. Đây không chỉ đơn thuần là quản lý kỹ thuật , mà
còn liên quan đến chi phí kinh tế. Do vậy nhiều nhà máy, trạm xử lý nước
thải, khi xây dựng với kinh phí đầu tư lớn nhưng không hoạt động. Hệ quả là
hiệu xuất xử lý rất thấp. Đây là một vấn đề cần được nghiên cứu đánh giá một
cách nghiêm túc.[11]
Hiện nay công nghệ, thiết bị XLNT ở nước ta có xuất xứ từ nhiều nước
như Nhật, Pháp, Ý, Hà Lan, Đan Mạch, Anh, Mỹ… Trong khi nước ta còn
chưa có công nghiệp sản xuất, chế tạo chuyên dụng. Đây sẽ là thách thức lớn
đối với nước ta trong những năm tới.

Đối với các làng nghề, đã đang áp dụng một số công nghệ khác nhau, tùy
23


thuộc lĩnh vực sản xuất và điều kiện cụ thể của địa phương. Vấn đề là với
công nghệ hóa học hay hóa lý các cơ sở có vận hành một cách thường xuyên
hay không hay vận hành có hiệu quả hay không lại là chuyện khác.[11]
2.4. Thực trạng phát sinh và xử lý nước thải ở thành phố Hạ long, tỉnh
Quảng Ninh
2.4.1. Tình hình phát sinh nước thải
Trước đây, nước thải sinh hoạt, thương mại, du lịch, dịch vụ của thành
phố Hạ Long phần lớn chưa được xử lý và thải ra sông, suối, ao, hồ… rồi đổ ra
vịnh Cửa Lục, vịnh Hạ Long. Thực hiện dự án cải tạo vệ sinh môi trường của
Đan Mạch và sự quan tâm đúng mức của thành phố, hiện nay đã giải quyết
đáng kể việc thu gom nước thải sinh hoạt và chất thải rắn tại các phường tiếp
ráp với vịnh Hạ Long. Và ở cả 2 khu vực Bãi Cháy và Hòn Gai.[16]
Một vấn đề mới nảy sinh đã ảnh hưởng tới hệ thống thoát nước thải của
thành phố. Các khu vực lấn biển xây dựng do công tác san nền và chuẩn bị kỹ
thuật chưa đồng bộ với nền hiện trạng của thành phố, do đó vô tình tạo thành
long chảo ở trong long thành phố, dẫn đến ngập úng. Ngoài ra, mỗi năm lượng
nước thải ngành than đạt đến 20.000 - 30.000m3. Nên nguy cơ ô nhiễm lưu
huỳnh là rất cao. Các bãi thải mỏ nếu không được hoàn nguyên sẽ gây ô nhiễm
môi trường nặng.[16]
2.4.2. Tình hình xử lý nước thải
Những năm gần đây, TP Hạ Long đã đầu tư và đưa vào hoạt động hai
nhà máy xử lý nước thải là Bãi Cháy và Hà Khánh do Công ty CP Môi trường
Đô thị Hạ Long quản lý. Tổng công suất hoạt động của hai nhà máy đạt trên
10.000m3/ngày đã phát huy hiệu quả tích cực, góp phần bảo vệ môi trường
thành phố và Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long.
Hai nhà máy xử lý nước thải Bãi Cháy và Hà Khánh được đầu tư bằng

nguồn vốn của dự án thoát nước vệ sinh môi trường TP Hạ Long và Cẩm Phả.
Đây là hai nhà máy xử lý nước thải có công nghệ được đánh giá là tiên tiến,
24


hiện đại, cho phép TP Hạ Long chủ động xử lý, bảo vệ môi trường cho đô thị
trung tâm và khu du lịch trọng điểm không chỉ trong hiện tại, mà còn đáp ứng
trong nhiều năm sau. Hai nhà máy có nhiệm vụ thu gom toàn bộ nguồn nước
thải sinh hoạt tại khu du lịch Bãi Cháy và các phường khu vực trung tâm của
thành phố gồm: Hồng Hải, Bạch Đằng, Hồng Gai, Yết Kiêu, Trần Hưng Đạo.
Quy trình công nghệ xử lý gồm bốn công đoạn chính: Tiếp nhận, sục khí, để
lắng và xả. Theo đó, nước thải được thu gom thông qua các trạm bơm, sau đó
bơm chuyển tiếp đến bể điều hoà, qua ngăn chắn rác, để lắng cặn sơ bộ, tiếp
đến nước thải được bơm qua máng tràn tạo ô xy để vi sinh vật hoạt động qua
hệ thống khuấy bổ trợ và được đưa vào bể lắng tiếp theo để xử lý mùi, kết
hợp với lắng cặn. Sau quá trình xử lý, nước thải đạt tiêu chuẩn loại B (TCVN)
mới thải ra môi trường.[15]
Đặc biệt, trong quá trình hoạt động Nhà máy đã được Trung tâm Quan
trắc và Phân tích môi trường (Sở Tài nguyên và Môi trường) thực hiện quan
trắc định kỳ 3 tháng/lần, đảm bảo đúng tiêu chuẩn quy định. Sau một thời
gian đi vào hoạt động, hiệu quả của hai nhà máy xử lý nước thải đã từng bước
được khẳng định. Vấn đề xử lý nước thải sinh hoạt tại khu du lịch Bãi Cháy
và khu trung tâm Hồng Gai đã được giải quyết, góp phần cải thiện môi trường
của thành phố ngày một trong sạch hơn.[15]
2.4.3. Những tồn tại trong quá trình xử lý
Qua quá trình hoạt động theo đánh giá của Công ty CP Môi trường đô thị
Hạ Long, thì hiện nay việc xử lý nước thải tại các nhà máy không chỉ khó do
nước thải về không đều, mà ngay trong chính lượng nước đưa về cũng chưa
đạt “đúng chuẩn”. Bởi các cơ sở sản xuất lớn có nước thải ra môi trường đều
chưa được xử lý ngay tại cơ sở, nhất là ở các cửa hiệu giặt là. Vì vậy, các nhà

máy vẫn phải xử lý lượng nước pha lẫn như vậy, có xử lý thì cũng không thể
hiệu quả như mong muốn được. Thêm vào đó, là tình trạng xả rác của người
dân xuống cống thoát nước đã ảnh hưởng đến quá trình bơm dẫn cũng như xử
25


×