Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Đề cương chi tiết ôn tập Cao học chuyên ngành Kinh tế Chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (268.75 KB, 27 trang )

1

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP.HCM
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU BAN TRIẾT HỌC

TÀI LIỆU ÔN THI
TUYỂN SINH CAO HỌC
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ

MÔN

TRIẾT HỌC
MÁC - LÊNIN

LƯU HÀNH NỘI BỘ


2


3

TRƯỜNG ĐH KINH TẾ TP.HCM

NỘI DUNG ÔN TẬP THI môn TRIẾT HỌC

KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

DÙNG CHO TUYỂN SINH SAU ĐẠI HỌC
CHUYÊN NGÀNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ



I. NỘI DUNG ÔN TẬP
1) Quan niệm mácxít về vật chất và ý thức
a) Nội dung và ý nghĩa của định nghĩa của V.I.Lênin về vật chất
b) Bản chất và kết cấu của ý thức
c) Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
2) Các nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật
a) Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
b) Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về sự phát triển
3) Các quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật
a) Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn đến
những thay đổi về chất và ngược lại
b) Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập
c) Nội dung và ý nghĩa phương pháp luận của quy luật phủ định của phủ định
4) Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
a) Khái niệm và kết cấu của lực lượng sản xuất
b) Khái niệm và kết cấu của quan hệ sản xuất
c) Nội dung quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
5) Biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
a) Khái niệm và kết cấu của cơ sở hạ tầng
b) Khái niệm và kết cấu của kiến trúc thượng tầng
c) Mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng
6) Biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
a) Khái niệm và kết cấu của tồn tại xã hội
b) Khái niệm và kết cấu của ý thức xã hội
c) Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
II. TÀI LIỆU ÔN TẬP
Giáo trình Triết học Mác – Lênin (dùng trong các trường đại học và cao đẳng), Bộ giáo dục và đào tạo,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
TP Hồ Chí Minh, ngày tháng năm

KT Trưởng khoa/ Phó trưởng khoa

TS. BÙI VĂN MƯA


4

I. QUAN NIỆM MÁCXÍT VỀ VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
I.1. NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA CỦA ĐỊNH NGHĨA VỀ VẬT CHẤT CỦA V.I.LÊNIN
a) Nêu và phân tích định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin


Định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin: “Vật chất là một phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại
khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại,
chụp lại, phản ánh và tồn tại khơng lệ thuộc vào cảm giác”.



Định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin cần được xem xét từ hai phương diện
 Một là, trong bản thể luận cần phân biệt vật chất với tư cách là phạm trù triết học với các quan
niệm của các ngành khoa học cụ thể về vật chất.
-

Phạm trù triết học về vật chất dùng chỉ vật chất nói chung; đó là vật chất tồn tại vơ hạn, vơ
tận, khơng sinh ra, khơng mất đi.

-

Quan niệm của các ngành khoa học cụ thể về vật chất dùng để chỉ những vật thể / dạng thể
cụ thể của vật chất, có kết cấu và tính chất cụ thể mà các ngành khoa học cụ thể (ở những

giai đoạn phát triển cụ thể) nghiên cứu; đó là các vật thể / dạng thể của vật chất có giới hạn,
có sinh ra và mất đi hay chuyển hóa thành cái khác.

-

Vì vậy, khơng thể quy vật chất nói chung về vật thể, khơng thể đồng nhất vật chất nói chung
với những dạng cụ thể của vật chất như các nhà duy vật trong lịch sử cổ đại, cận đại đã làm.

 Hai là, trong nhận thức luận cần xác định rõ đặc trưng quan trọng nhất để nhận biết vật chất
chính là thuộc tính thực tại khách quan.
-

Thực tại khách quan là “cái đang tồn tại độc lập với lồi người và với cảm giác của con
người”. Trong đời sống xã hội, vật chất “theo ý nghĩa là tồn tại xã hội khơng phụ thuộc vào
ý thức xã hội của con người”.

-

Khái niệm vật chất khơng có nghĩa gì khác hơn: “thực tại khách quan tồn tại độc lập với ý
thức con người và được ý thức con người phản ánh”.

b) Nội dung cơ bản của định nghĩa về vật chất của V.I.Lênin
 Vật chất là cái tồn tại khách quan bên ngồi ý thức và khơng phụ thuộc vào ý thức, bất kể sự
tồn tại ấy con người đã nhận thức được hay chưa nhận thức được.
 Vật chất là cái gây nên cảm giác ở con người khi gián tiếp hoặc trực tiếp tác động lên giác quan
của con người.
 Cảm giác, tư duy, ý thức chỉ là sự phản ánh của vật chất.
c) Ý nghĩa to lớn của định nghĩa vật chất của V.I.Lênin
 Đối với triết học, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin thể hiện cách giải quyết duy vật biện chứng
vấn đề cơ bản của triết học; qua đó, bác bỏ quan điểm của chủ nghĩa duy tâm và thuyết khơng

thể biết; khắc phục được những hạn chế trong các quan điểm của chủ nghĩa duy vật trước Mác
về vật chất.
 Đối với khoa học cụ thể, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin định hướng đối với khoa học cụ thể
trong việc tìm kiếm các dạng thể cụ thể hoặc các hình thức mới của vật chất chất tồn tại trong
thế giới.
 Đối với nhận thức xã hội, định nghĩa vật chất của V.I.Lênin đã cho phép xác định tồn tại xã hội
là vật chất trong lĩnh vực xã hội. Từ đó giúp các nhà khoa học xã hội có cơ sở lý luận để giải
thích những ngun nhân cuối cùng của các biến cố xã hội, những ngun nhân thuộc về sự vận
động của tồn tại xã hội mà trước hết là của phương thức sản xuất; trên cơ sở ấy, người ta có thể


5

tìm ra các phương án tối ưu để hoạt động thúc đẩy xã hội phát triển.
I.2. BẢN CHẤT VÀ KẾT CẤU CỦA Ý THỨC
a) Bản chất của ý thức


Các quan niệm phi mácxít về ý thức
 Quan niệm duy tâm: Ý thức là một thực thể tinh thần độc lập (linh hồn, cái Tôi hay bản ngã,
thực tại tối cao,…) với bản tính năng động, ý thức sáng tạo ra vật chất. Chủ nghĩa duy tâm
không chỉ thừa nhận mà thậm chí còn tuyệt đối hóa, thần thánh hóa tính năng động sáng tạo của
ý thức; coi ý thức không phải là sự phản ánh của vật chất, thậm chi còn sáng tạo ra thế giớivật
chất.
 Quan niệm duy vật cũ: Ý thức là sự phản ánh một cách thụ động, đơn giản, máy móc sự vật vật
chất tồn tại khách quan vào trong đầu óc con người; Chủ nghĩa duy vật cũ dù thấy được tính
phản ánh vật chất của ý thức nhưng không thấy được tính năng động sáng tạo của ý thức, không
thấy được tính biện chứng của quá trình phản ánh của ý thức.




Quan niệm mácxít (duy vật biện chứng): Ý thức là sự phản ánh một cách năng động, sáng tạo thế
giới khách quan vào trong bộ óc con người. Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
 Bản tính phản ánh của ý thức
-

Vật chất và ý thức là những cái đối lập không thể tách rời nhau: Ý thức là sự (cái) phản ánh.
Vật chất là cái được phản ánh. Cái được phản ánh (vật chất) là hiện thực khách quan, ở
ngoài và độc lập với cái phản ánh (ý thức). Cái phản ánh (ý thức) là hiện thực chủ quan, là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, lấy cái khách quan làm tiền đề, bị cái khách
quan quy định, nó không có tính vật chất.

-

Vật chất và ý thức là những cái đối lập không thể đồng nhất với nhau: Nếu coi cái phản ánh
(ý thức) là hiện tượng vật chất thì sẽ lẫn lộn giữa cái được phản ánh và cái phản ánh; tức lẫn
lộn giữa vật chất và ý thức, làm mất đi sự đối lập giữa vật chất và ý thức, từ đó dẫn đến làm
mất đi sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm.

 Bản tính sáng tạo của ý thức
-

Ý thức không phải là sự phản ánh bằng những hình ảnh mang tính vật lý hay tâm lý động
vật về thế giới mà là sự phản ánh bằng bằng những hình tượng, tư tưởng tinh thần của con
người: Trên cơ sở những cái đã có trước, ý thức có khả năng tạo ra tri thức mới về sự vật, có
thể tưởng tượng ra cái không có trong thực tế, có thể tiên đoán, dự báo tương lai, có thể tạo
ra những ảo tưởng, những huyền thoại, những giả thuyết lý thuyết khoa học hết sức trừu
tượng và khái quát cao…. Ý thức “chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu
óc con người và được cải biến đi trong đó”.


-

Ý thức con người - một thực thể xã hội năng động sáng tạo nên nó có tính năng động, giúp
con người sáng tạo lại hiện thực theo nhu cầu và điều kiện của thực tiễn xã hội.

 Bản tính xã hội của ý thức
-

Ý thức là một hiện tượng tâm lý - xã hội; ý thức ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với hoạt
động thực tiễn xã hội của con người và phản ánh các quan hệ xã hội.

-

Ý thức bị quy định bởi các điều kiện sinh hoạt hiện thực xã hội và nhu cầu giao tiếp xã hội
của con người; ý thức chịu sự chi phối chủ yếu bởi các quy luật xã hội, chứ không phải đơn
thuần bởi các quy luật sinh học.

 Sáng tạo và phản ánh là hai mặt thuộc bản chất ý thức thống nhất với nhau trong hoạt động


6

thực tiễn xã hội của con người.
-

Phản ánh của ý thức là phản ánh sáng tạo.

-

Sáng tạo của ý thức là sáng tạo dựa trên sự phản ánh, theo quy luật của sự phản ánh.


-

Phản ánh sáng tạo hay sự sáng tạo trong phản ánh của ý thức xảy ra trong đời sống xã hội và
bị chi phối bởi nhu cầu của thực tiễn xã hội.

 Ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan: Ý thức là quá trình phản ánh hiện thực
khách quan vào bộ óc người. Đó là quá trình năng động sáng tạo thống nhất ba giai đoạn sau:
-

Trao đổi thông tin qua lại giữa chủ thể và khách thể (đối tượng) phản ánh có tính định
hướng, và chọn lọc.

-

Mô hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh thần (sáng tạo lại hiện thực
hay mã hóa các đối tượng vật chất thành các hình tượng, tư tưởng tinh thần phi vật chất).

-

Chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan thông qua hoạt động thực tiễn (biến cái
quan niệm thành cái thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư duy thành các dạng vật
chất hiện thực). Trong giai đoạn này, con người lựa chọn những phương pháp, phương tiện,
công cụ để tác động vào hiện thực khách quan nhẳm thực hiện mục đích của mình.

b) Kết cấu của ý thức


Theo các yếu tố hợp thành, ý thức bao gồm các yếu tố cấu thành như tri thức, tình cảm, niềm tin, lý
trí, ý chí…trong đó tri thức là yếu tố cơ bản, cốt lõi.

 Tri thức
-

Tri thức là kết quả quá trình nhận thức của con người về thế giới hiện thực, làm tái hiện
trong tư tưởng những thuộc tính, những quy luật của thế giới ấy và diễn đạt chúng dưới hình
thức ngôn ngữ hoặc các hệ thống ký hiệu khác.

-

Tri thức có nhiều loại như tri thức về tự nhiên, tri thức về xã hội, tri thức về con người; có
nhiều cấp độ như tri thức thông thường, tri thức khoa học.

-

Ngày nay, tri thức là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Loài người
đang bước vào nền kinh tế tri thức, đầu tư vào tri thức trở thành yếu tố then chốt cho sự tăng
trưởng kinh tế dài hạn.

 Tình cảm



-

Tình cảm là cảm xúc ổn định của con người trong quan hệ của mình với thực tại xung quanh
và đối với bản thân mình. Tình cảm là một hình thái đặc biệt của sự phản ánh thực tại; nó
phản ánh quan hệ của con người đối với nhau; cũng như đối với thế giới khách quan.

-


Tình cảm có nhiều loại như tình cảm đạo đức, tình cảm chính trị, tình cảm tôn giáo, tình
cảm thẩm mỹ,…

-

Tình cảm tham gia vào mọi hoạt động của con người và giữ một vị trí quan trọng trong việc
điều chỉnh hoạt động của con người. Tình cảm có thể mang tính chất chủ động, chứa đựng
sắc thái cảm xúc tích cực, cũng như trở thành thụ động, chứa đựng sắc thái cảm xúc tiêu
cực. Tình cảm tích cực là một trong những động lực nâng cao năng lực hoạt động sống của
con người.

-

Tri thức kết hợp với tình cảm hình thành nên niềm tin, nâng cao ý chí tích cực biến thành
hành động thực tế, mới phát huy được sức mạnh của mình.

Theo chiều sâu của nội tâm, ý thức bao gồm cả tự ý thức, tiềm thức, vô thức.
 Tự ý thức


7

-

Tự ý thức là quá trình con người tự nhận thức bản thân mình như một thực thể hoạt động có
cảm giác, có tư duy, có các hành vi đạo đức,… và có vị trí trong xã hội, trong mối quan hệ
xã hội giữa mình với những người khác.

-


Tự ý thức không chỉ là tự ý thức của cá nhân mà con là tự ý thức của cả xã hội, của một giai
cấp hay của một tầng lớp xã hội về địa vị của mình, về lợi ích mục đích, về lý tưởng… của
mình.

-

Chính trong quan hệ xã hội, con người phải tự ý thức về mình để nhận rõ bản thân mình, tự
điều chỉnh bản thân theo các quy tắc, các tiêu chuẩn mà xã hội đề ra.

 Tiềm thức
-

Tiềm thức là những tri thức mà chủ thể đã có được từ trước nhưng đã gần như trở thành bản
năng, thành kỹ năng nằm trong tầng sâu của ý thức chủ thể; là ý thức dưới dạng tiềm năng.

-

Tiềm thức có vai trò quan trọng cả trong hoạt động tâm lý hàng ngày của con người, cả
trong tư duy khoa học (giúp giảm sự quá tải của đầu óc trong việc xử lý khối lượng lớn các
tài liệu, dữ kiện, tin tức diễn ra một cách lặp đi lặp lại mà vẫn đảm bảo được độ chính xác và
chặt chẽ cần thiết).

 Vô thức
-

Vô thức là những trạng thái tâm lý ở chiều sâu, điều chỉnh sự suy nghĩ, hành vi, thái độ ứng
xử của con người mà chưa có sự tranh luận của nội tâm, chưa có sự truyền tin bên trong,
chưa có sự kiểm tra, tính toán của lý trí.

-


Vô thức biểu hiện thành nhiều hiện tượng khác nhau như bản năng ham muốn, giấc mơ, bị
thôi miên, mặc cảm, sự lỡ lời, nói nhịu, trực giác...

-

Vô thức giúp giải tỏa những ức chế trong hoạt động thần kinh vượt ngưỡng, tránh được tình
trạng căng thẳng không cần thiết khi làm việc “quá tải”. Nhờ có vô thức mà chuẩn mực con
người đặt ra được thực hiện một cách tự nhiên…

-

Không nên cường điệu, tuyệt đối hóa và thần bí vô thức hay coi vô thức là hiện tượng tâm lý
cô lập, tách khỏi hoàn cảnh xã hội và không liên quan gì tới đến ý thức. Vì vô thức là vô
thức nằm trong con người có ý thức. Vô thức chỉ là một mắt khâu trong cuộc sống có ý thức
của con người.

I.3. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC
a) Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức


Vật chất có trước ý thức; vật chất là nguồn gốc của ý thức; vật chất quyết định ý thức.
 Vật chất quyết định nội dung ý thức;
 Vật chất quyết định hình thức biểu hiện (tồn tại) của ý thức;
 Vật chất quyết định vai trò và tác dụng của ý thức.



Ý thức có thể tác động trở lại vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
 Bản thân ý thức tự nó không trực tiếp thay đổi được gì trong hiện thực.

 Ý thức muốn tác động trở lại đời sống hiện thực phải bằng lực lượng vật chất, nghĩa là phải
được con người thực hiện trong thực tiễn. Đó là các quá trình như: vật chất hóa tri thức khoa
học, quần chúng hóa quan điểm cách mạng,…

b) Ý nghĩa phương pháp luận của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức


Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn con người phải tôn trọng khách quan, đồng thời phải phát


8

huy tính năng động chủ quan của mình.
 Tôn trọng khách quan là tôn trọng tính khách quan của vật chất, tôn trọng các quy luật tự nhiên
và xã hội…
-

Phải xuất phát từ thực tế khách quan, lấy thực tế khách quan làm căn cứ cho mọi hoạt động
nhận thức và thực tiễn của mình;

-

Không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm
điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng.

 Phát huy tính năng động chủ quan là phát huy vai trò tích cực của ý thức, vai trò tích cực của
nhân tố con người.
-

Phát huy tính năng động chủ quan của con người để nhận thức đúng quy luật khách quan;


-

Phải biết dựa trên quy luật khách quan để xác định mục tiêu, kế hoạch; biết tìm ra và vận
dụng các phương pháp tổ chức hoạt động hiệu quả để đạt được mục tiêu đề ra một cách tối
ưu.

 Phải khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí (chỉ xuất phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt
cho thực tế, lấy ảo tưởng thay cho hiện thực); bệnh bảo thủ trì trệ, thái độ tiêu cực, thụ động, ỷ
lại ngồi chờ…; đặc biệt là trong quá trình đổi mới hiện nay.


Vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam vào sự nghiệp Đổi mới
 Từ lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin và từ kinh nghiệm thành công và thất bại trong quá trình
lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã rút ra bài học quan trọng là “Mọi đường lối,
chủ trưởng của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan”.
 Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa, Đảng chủ
trương: “huy động ngày càng cao mọi nguồn lực cả trong và ngoài nước, đặc biết là nguồn lực
của dân và công cuộc phát triển đất nước”, muốn vậy phải “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới,
sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ,văn minh”.


9

II. CÁC NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
II.1. NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA NGUYÊN LÝ VỀ MỐI LIÊN HỆ PHỔ
BIẾN
a) Khái niệm mối liên hệ



Vấn đề: Các sự vật, các hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế giới có mối liên hệ qua lại,
tác động, ảnh hưởng lẫn nhau hay chúng tồn tại biết lập, tách rời nhau? Nếu chúng có mối liên hệ
qua lại thì cái gì quy định mối liên hệ đó?
 Quan điểm siêu hình cho rằng: Các sự vật, hiện tượng tồn tại biết lập, tách rời nhau, cái này tồn
tại bên cạnh cái kia; chúng không có sự phụ thuộc, không có sự ràng buộc và quy định lẫn nhau.
Nếu giả sử giữa chúng có sự quy định, liên hệ lẫn nhau thì đó chỉ là những quy định, liên hệ bề
ngoài, mang tính ngẫu nhiên, không có khả năng chuyện hóa lẫn nhau.
 Quan điểm biện chứng cho rằng: Các sự vật, hiện tượng, các quá trình khác nhau vừa tồn tại độc
lập, vừa quy định, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau.



-

Quan điểm biện chứng duy tâm cho rằng: Cái quyết định mối liên hệ, sự chuyển hóa lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tượng là một lực lượng siêu tự nhiên (trời) hay ở ý thức, cảm giác
của con người.

-

Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định: Các sự vật, hiện tượng chỉ là những dạng khác
nhau của một thế giới thống nhất, duy nhất – thế giới vật chất. Nhờ có tính thống nhất vật
chất của thế giới mà các sự vật, hiện tượng có mối liên hệ, tác động qua lại, chuyển hóa lẫn
nhau.

Mối liên hệ là phạm trù triết học dùng để chỉ sự quy định, sự tác động qua lại, sự chuyển hóa lẫn
nhau giữa các sự vật, hiện tượng hay giữa các mặt của một sự vật, của một hiện tượng trong thế giới.


b) Các tính chất của mối liên hệ


Triết học duy vật biện chứng khẳng định, mối liên hệ có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa
dạng phong phú.
 Tính khách quan: Các mối liên hệ là vốn có của mọi sự vật, hiện tượng; nó không phụ thuộc vào
ý thức của con người.
 Tính phổ biến: Bất kỳ một sự vật, hiện tượng nào; ở bất kỳ không gian, thời gian nào cũng có
mối liên hệ với những sự vật hiện tượng khác. Còn trong cùng một sự vật, hiện tượng thì bất kỳ
một thành phần nào, một yếu tố nào cũng có mối liên hệ với những thành phần, những yếu tố
khác.
 Tính đa dạng phong phú: Sự vật, hiện tượng khác nhau, không gian khác nhau, thời gian khác
nhau thì các mối liên hệ biểu hiện khác nhau. Dù sự phân chia các loại mối liên hệ chỉ mang tính
tương đối, nhưng rất cần thiết, bởi vì mỗi loại mối liên hệ có vị trí và vai trò xác định trong sự
vận động và phát triển của sự vật. Có thể phân chia các mối liên hệ như sau:
-

Mối liên hệ bên trong & mối liên hệ bên ngoài,

-

Mối liên hệ cơ bản & mối liên hệ không cơ bản,

-

Mối liên hệ chủ yếu, mối liên hệ thứ yếu,

-

Mối liên hệ riêng, mối liên hệ chung, mối liên hệ phổ biến, v.v..


-

Phép biện chứng duy vật nghiên cứu các mối liên hệ phổ biến chi phối sự vận động và phát
triển của sự vật, hiện tượng.


10

c) Ý nghĩa của phương pháp luận


Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải tôn trọng quan điểm toàn diện.
Quan điểm toàn diện đòi hỏi:
 Phải nhận thức về sự vật trong toàn bộ các mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố,
giữa các mặt của chính sự vật và giữa sự vật đó với các sự vật khác; Phải biết phân biệt từng
mối liên hệ, phải biết chú ý tới mối liên hệ bên trong, mối liên hệ bản chất, mối liên hệ chủ yếu,
mối liên hệ tất nhiên và lưu ý đến sự chuyển hóa lẫn nhau giữa các mối liên hệ để hiểu rõ bản
chất của sự vật.
 Khi tác động đến sự vật phải chú ý tới mọi mối liên hệ của nó; phải biết sử dụng đồng bộ các
biện pháp, các phương tiện khác nhau để tác động nhằm đem lại hiệu quả cao nhất.
 Trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam: Để thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh”, một mặt, chúng ta phải phát huy nội lực của đất nước ta; mặt
khác phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách do xu hướng quốc tế hóa mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội và toàn cầu hóa kinh tế đưa lại.



Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải tôn trọng quan điểm lịch sử - cụ
thể. Quan điểm lịch sử - cụ thể đòi hỏi:

 Khi nhận thức về sự vật và tác động vào sự vật phải chú ý điều kiện, hoàn cảnh lịch sự - cụ thể
trong đó sự vật sinh ra, tồn tại và phát triển.
 Phải thấy được một luận điểm nào đó có thể đúng trong điều kiện này nhưng sẽ không còn đúng
trong điều kiện khác; Một lý luận nào đó chỉ vận dụng phù hợp nơi này, lúc này nhưng sẽ không
phù hợp khi vận dụng vào nơi khác, lúc khác.
 Trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam: Để xác định đúng đường lối, chủ trương cụ thể của từng
giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng, bao giờ Đảng ta cũng phân tích tình hình cụ thể của đất nước
ta cũng như bối cảnh quốc tế diễn ra trong từng giai đoạn, từng thời kỳ đó; và khi thực hiện
đường lối, chủ trương, Đảng ta cũng bổ sung và điều chỉnh sao cho phù hợp với diễn biến của
từng hoàn cảnh cụ thể.



Khi tuân theo quan điểm toàn diện và quan điểm lịch sử - cụ thể, chúng ta sẽ tránh được chủ nghĩa
phiến diện, chủ nghĩa chiết trung, chủ nghĩa ngụy biện.

II.2. NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA NGUYÊN LÝ VỀ SỰ PHÁT TRIỂN
a) Khái niệm phát triển


Vấn đề: Các sự vật, các hiện tượng và các quá trình khác nhau của thế giới đứng im, bất động hay
không ngừng vận động, phát triển? Nếu chúng luôn vận động, phát triển thì cái gì là nguồn gốc gây
ra sự vận động, phát triển đó?
 Quan điểm siêu hình cho rằng: Các sự vật, hiện tượng đứng im, bất động. Nếu giả sử chúng có
vận động, phát triển thì đó chỉ là sự tăng lên hay sự giảm xuống đơn thuần về mặt lượng mà
không có sự thay đổi gì về mặt chất của sự vật; Hoặc nếu có sự thay đổi nhất định về chất thì sự
thay đổi ấy cũng chỉ diễn ra theo môt vòng khép kín chứ không có sự sinh thành ra cái mới (chất
mới); do sự tác động của cái bên ngoài gây ra. Phát triển như là một quá trình tiến lên liên tục,
không có những bước quanh co, thăng trầm, phức tạp.
 Quan điểm biện chứng cho rằng: Các sự vật, hiện tượng luôn vận động, phát triển. Phát triển là

một quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, thay đổi dần dần về lượng dẫn đến sự thay đổi
về chất, đưa tới sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ; Phát triển không phải lúc nào cũng theo
đường thẳng, mà rất quanh co, phức tạp, thậm chí có thể có những bước lùi tạm thời; đó là quá


11

trình diễn ra theo đường xoáy ốc và hết mỗi chu kỳ sự vật lặp lại dường như sự vật ban đầu
nhưng ở cấp độ cao hơn.



-

Quan điểm biện chứng duy tâm - tôn giáo cho rằng: Nguồn gốc của sự phát triển là những
lực lượng siêu nhiên (Thượng đế,…).

-

Quan điểm duy vật biện chứng khẳng định: Nguồn gốc của sự phát triển là những mẫu thuẫn
nằm trong bản thân sự vật. Chính quá trình liên tục giải quyết các mâu thuẫn bên trong bản
thân sự dẫn đến sự phát triển tự thân của mọi sự vật trong thế giới.

Phát triển là một phạm trù triết học dùng để chỉ quá trình vận động tiến lên từ thấp đến cao, từ đơn
giản đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn của sự vật.

b) Tính chất của sự phát triển


Triết học duy vật biện chứng khẳng định, phát triển có tính khách quan, tính phổ biến và tính đa

dạng phong phú.
 Tính khách quan: Phát triển là tiến trình khách quan, không phụ thuộc vào ý thức của con người.
Nguồn gốc của sự phát triển nằm ngay trong bản thân sự vật (là quá trình giải quyết liên tục
những mâu thuẫn nảy sinh trong sự tồn tại và vận động của sự vật)
 Tính phổ biến: Phát triển diễn ra ở mọi lĩnh vực tự nhiên, xã hội và tư duy; ở bất cứ sự vật, hiện
tượng nào của thế giới khách quan.
 Tính đa dạng phong phú: Phát triển là khuynh hướng chung của mọi sự vật, mọi hiện tượng,
song mỗi sự sật, mỗi hiện tượng lại có quá trình phát triển không giống nhau. Sự vật tồn tại ở
không gian, thời gian khác nhau; trong điều kiện, hoàn cảnh khác nhau sẽ phát triển không
giống nhau.

c) Ý nghĩa phương pháp luận


Trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn chúng ta phải tôn trọng quan điểm phát triển.
Quan điểm phát triển đòi hỏi:
 Khi nhận thức hay giải quyết một vấn đề nào đó phải đặt vấn đề đó trong trạng thái vận động,
phát triển của chính nó. Phải nắm bắt cả những cái đang tồn tại lẫn những cái đã hay sẽ tồn tại
của sự vật; Phải tìm hiểu cả những biến đổi tiến lên lẫn những biến đổi thụt lùi để thấy được
khuynh hướng biến đổi chung của sự vật.
 Phải biết phân chia quá trình phát triển của sự vật ấy thành những giai đoạn và tìm ra những
phương pháp nhận thức và những phương thức tác động phù hợp nhằm thúc đẩy sự vật phát
triển nhanh hơn hoặc chậm hơn sao cho phù hợp với mục đích và lợi ích con người.



Khi tuân theo quan điểm phát triển, chúng ta sẽ khắc phục được quan điểm giáo điều, tư tưởng
bảo thủ, trì trệ, đầu óc định kiến,…



12

III. CÁC QUY LUẬT CƠ BẢN CỦA PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT
III.1. NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA QUY LUẬT CHUYỂN HÓA TỪ NHỮNG
SỰ THAY ĐỔI VỀ LƯỢNG THÀNH NHỮNG SỰ THAY ĐỔI VỀ CHẤT VÀ NGƯỢC LẠI
a) Khái niệm chất và lượng


Khái niệm chất
 Chất là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định khách quan vốn có của sự vật, đặc trưng
cho sự vật là nó và phân biệt nó với sự vật khác nó. Chất là sự thống nhất hữu cơ của những
thuộc tính cơ bản làm nên sự vật, để sự vật là nó chứ không phải là những cái khác nó.
-

Thuộc tính của sự vật là những tính chất, những trạng thái, những yếu tố, kết cấu tạo thành
sự vật,… Đó là những cái vốn có của sự vật, quy định sự hình thành, tồn tại trong sự vận
động và sự phát triển của sự vật; Chỉ khi nào chúng thay đổi hay mất đi thì sự vật mới thay
đổi hay mất đi.

-

Chất của sự vật được biểu hiện qua những thuộc tính của nó. Nhưng không phải bất kỳ
thuộc tính nào cũng biểu hiện chất của sự vật. Thuộc tính của sự vật có thuộc tính cơ bản và
thuộc tính không cơ bản. Những thuộc tính cơ bản được tổng hợp lại tạo thành chất của sự
vật.

-

Chất của sự vật không những được quy định bởi chất của những yếu tố tạo thành mà còn bởi
phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành, nghĩa là bởi kết cấu của sự vật. Vì vậy sự

thay đổi vể chất của sự vật phụ thuộc cả vào sự thay đổi các yếu tố cấu thành sự vật lẫn sự
thay đổi phương thức liên kết giữa các yếu tố ấy.

 Chất và sự vật có mối quan hệ chặt chẽ, không tách rời nhau. Trong hiện thực khách quan
không thể tồn tại sự vật không có chất và không thể có chất nằm ngoài sự vật. Chất gắn liền với
lượng của sự vật.


Khái niệm lượng
 Lượng là phạm trù triết học dùng để chỉ tính quy định vốn có của sự vật về mặt số lượng, quy
mô, trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển cũng như các thuộc tính của sự vật.



-

Lượng là cái vốn có của sự vật, song lượng chưa làm cho sự vật là nó, chưa làm cho nó khác
với những cái khác. Lượng tồn tại cùng với chất của sự vật và cũng có tính khách quan như
chất của sự vật.

-

Lượng của sự vật biểu thị kích thước dài hay ngắn, số lượng nhiều hay ít, quy mô lớn hay
nhỏ, trình độ cao hay thấp, nhịp điệu nhanh hay chậm,… .

Bất cứ sự vật nào cũng là sự thống nhất hữu cơ giữa chất và lượng. Dù sự phân biệt chất và
lượng của sự vật chỉ mang tính tương đối nhưng chúng tồn tại khách quan, phổ biến, đa đạng và
thống nhất với nhau. Chỉ có sự vật có chất và lượng mới tồn tại.

b) Mối quan hệ giữa sự thay đổi về lượng và sự thay đổi về chất



Những thay đổi về lượng sẽ dẫn đến những thay đổi về chất
 Sự vận động của sự vật bắt đầu bằng sự thay đổi về lượng. Lượng thay đổi trong một khoảng
giới hạn nhất định, nhưng chất của sự vật vẫn chưa thay đổi cơ bản. Khi lượng của sự vật được
tích lũy vượt quá điểm của khoảng giới hạn nhất định đó thì chất của sự vật sẽ thay đổi căn bản.
Chất cũ sẽ mất đi, chất mới thay thế chất cũ. Khoảng giới hạn đó gọi là độ. Điểm giới hạn đó
gọi là điểm nút. Sự thay đổi chất một cách căn bản gọi là bước nhảy.
 Độ là phạm trù triết học dùng để chỉ khoảng giới hạn trong đó sự thay đổi về lượng của sự vật


13

chưa làm thay đổi căn bản chất của sự vật ấy.
 Điểm nút là phạm trù triết học dùng để chỉ điểm giới hạn mà tại đó sự thay đổi về lượng đã đủ
làm thay đổi về chất của sự vật.
 Bước nhảy là phạm trù triết học dùng để chỉ sự chuyển hóa về chất của sự vật do sự thay đổi về
lượng của sự vật trước đó gây nên.



-

Bước nhảy là sự kết thúc một giai đoạn phát triển của sự vật và là điểm khởi đầu của một
giai đoạn phát triển mới.

-

Nó là sự gián đoạn trong quá trình vận động và phát triển liên tục của sự vật.


Những thay đổi về chất dẫn đến những thay đổi về lượng
 Chất mới của sự vật ra đời sẽ tác động trở lại lượng của sự vật: Làm thay đổi kết cấu, quy mô,
trình độ, nhịp điệu của sự vận động và phát triển của sự vật.



Phương thức vận động, phát triển của sự vật trong thế giới
 Sự thay đổi về lượng của sự vật sẽ dẫn tới sự thay đổi về chất của nó; và ngược lại, sự thay đổi
về chất của sự vật sẽ dẫn đến sự thay đổi về lượng của nó; đó là phương thức vận động, phát
triển của sự vật trong thế giới.
 Phát triển vừa mang tính liên tục vừ mang tính gián đoạn.



Các hình thức cơ bản của bước nhảy: Bước nhảy tồn tại khách quan, phổ biến và đa dạng phong
phú với những hình thức rất khác nhau.
 Căn cứ vào nhịp điệu, bước nhảy được chia thành:
-

Bước nhảy đột biến: Bước nhảy được thực hiện trong một thời gian rất ngắn làm thay đổi
chất của toàn bộ kết cấu cơ bản của sự vật.

-

Bước nhảy dần dần: Bước nhảy được thực hiền từ từ, từng bước bằng cách tích lũy dần dần
những nhân tố của chất mới và những nhân tố của chất cũ dần dần mất đi.

 Căn cứ vào quy mô, bước nhảy được chia thành:
-


Bước nhảy toàn bộ: Bước nhảy làm thay đổi chất của toàn bộ các mặt, các yếu tố cấu thành
sự vật.

-

Bước nhảy cục bộ: Bước nhảy làm thay đổi chất của một trong những mặt, yếu tố riêng lẻ
của sự vật.

 Căn cứ vào lĩnh vực, bước nhảy được chia thành:



-

Bước nhảy trong tự nhiên: Bước nhảy xảy ra trong giới tự nhiên.

-

Bước nhảy trong xã hội: Bước nhảy xảy ra trong xã hội; bước nhảy này lại được chia thành
bước nhảy có tính chất cách mạng và bước nhảy có tính tiến hóa.

-

Bước nhảy trong tư duy: Bước nhảy xảy ra trong lĩnh vực tư tưởng, nhận thức của con
người.

Tóm tắt nội dung của quy luật: Mọi sự vật đều là sự thống nhất giữa lượng và chất trong một giới
hạn độ nhất định; Sự thay đổi dần dần về lượng tới điểm nút, vượt qua độ sẽ dẫn đến sự thay đổi về
chất của sự vật thông qua bước nhảy; Bước nhảy xảy ra làm cho chất cũ mất đi chất mới ra đời, sự
vật cũ tiêu vong sự vật mới xuất hiện. Chất mới ra đời sẽ tác động trở lại làm xuất hiện lượng mới

tương ứng với chất mới cao hơn…Quá trình tác động đó diễn ra liên tục làm cho sự vật không
ngừng vận động, phát triển.

c) Ý nghĩa phương pháp luận


14



Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, chúng ta:
 Phải biết từng bước tích lũy về lượng để làm biến đổi về chất. Cần tránh tư tưởng chủ quan, duy
ý chí, “tả khuynh”, nôn nóng, “đốt cháy giai đoạn” để thực hiện những bước nhảy liên tục.
 Khi đã tích lũy đủ về số lượng phải có quyết tâm để tiến hành bước nhảy, phải kịp thời chuyển
những sự thay đổi về lượng thành những thay đổi về chất, từ những thay đổi mang tính chất tiến
hóa sang những thay đổi mang tính chất cách mạng. Cần khắc phục được tư tưởng bảo thủ, trì
trệ, “hữu khuynh” thường được biểu hiện ở chỗ coi sự phát triển chỉ là sự thay đổi đơn thuần về
lượng.
 Phải biết vận dụng linh hoạt các hình thức của bước nhảy, trên cơ sở phân tích đúng đắn những
điều kiện khách quan và những nhân tố chủ quan, tùy theo từng trường hợp cụ thể, từng điều
kiện cụ thế hay quan hệ cụ thể.
 Phải nắm được phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật để thấu hiểu sự vật và biết
cách tác động vào phương thức liên kết giữa các yếu tố tạo thành sự vật để làm thay đổi bản
thân sự vật.

III.2. NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA QUY LUÂT THỐNG NHẤT VÀ ĐẤU
TRANH CỦA CÁC MẶT ĐỐI LẬP
a) Khái niệm các mặt đối lập, sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, mâu thuẫn biện chứng



Các mặt đối lập
 Các mặt đối lập là những mặt có những đặc điểm, những thuộc tính, những tính quy định có
khuynh hướng biến đổi trái ngược nhau.
 Các mặt đối lập tồn tại khách quan, phổ biến và đa dạng.



Sự thống nhất của các mặt đối lập
 Sự thống nhất của các mặt đối lập là sự nương tựa vào nhau, không tách rời nhau giữa các mặt
đối lập, sự tồn tại của mặt này phải lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề.
 Các mặt đối lập tồn tại không tách rời nhau. Nhờ những yếu tố giống nhau mà chúng “đồng
nhất” trong sự vật. Do có sự “đồng nhất” của các mặt đối lập mà trong sự triển khai của mâu
thuẫn đến một lúc nào đó, các mặt đối lập có thể chuyển hóa lẫn nhau.



Đấu tranh của các mặt đối lập
 Đấu tranh của các mặt đối lập là sự tác động qua lại theo xu hướng bài trừ và phủ định lẫn nhau.
 Hình thức đấu tranh của các mặt đối lập hết sức phong phú, đa dạng; bởi vì nó phụ thuộc vào
tính chất, mối quan hệ giữa các mặt đối lập; phụ thuộc điều kiện cụ thể của bản thân sự vật.



Mâu thuẫn biện chứng
 Mâu thuẫn biện chứng là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
 Mâu thuẫn biện chứng tồn tại khách quan, phổ biến và đa dạng.

b) Mâu thuẫn biện chứng là nguồn gốc của sự vận động, phát triển



Trong mâu thuẫn biện chứng, sự thống nhất mang tính tương đối, nó gắn liền với sự đứng im, ổn
định tạm thời của sự vật; còn sự đấu tranh mang tính tuyệt đối, nó gắn liền với sự vận động và phát
triển của sự vật. Chính sự đấu tranh của các mặt đối lập làm cho các mặt đối lập thay đổi đưa đến sự
phát triển của mâu thuẫn.



Mâu thuẫn biện chứng trải qua ba giai đoạn: hình thành, hiện hữu và giải quyết:


15

 Mâu thuẫn biện chứng hình thành khi xuất sự khác nhau ngày càng căn bản theo khuynh hướng
trái ngược nhau dẫn đến sự đối lập nhau.
 Mâu thuẫn biện chứng hiện hữu khi các mặt đối lập nhau vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau
 Mâu thuẫn biện chứng được giải quyết khi hai mặt đối lập xung đột gay gắt và hội đủ điều kiện
để chúng chuyển hóa lẫn nhau. Nhờ đó mà thể thống nhất cũ được thay thế bằng thể thống nhất
mới; sự vât cũ mất đi sự vật nới ra đời thay thế. (V.I.Lênin viết: “Sự phát triển là một cuộc “đấu
tranh” giữa các mặt đối lập”).


Mâu thuẫn biện chứng chính là nguồn gốc của sự vận động và sự phát triển.

c) Phân loại mâu thuẫn biện chứng


Căn cứ vào quan hệ, mâu thuẫn được phân chia thành:
 Mâu thuẫn bên trong: Mâu thuẫn trong một sự vật, sự tác động qua lại giữa các mặt, các khuynh
hướng đối lập của nó.
 Mâu thuẫn bên ngoài: Mâu thuẫn diễn ra trong mối quan hệ giữa sự vật đó với các sự vật khác.

Dù mâu thuẫn bên trong có vai trò quyết định trực tiếp đối với quá trình vận động và phát triển
của sự vật; nhưng việc các giải quyết mâu thuẫn bên trong không thể tách rời việc giải quyết các
mâu thuẫn bên ngoài.



Căn cứ vào vai trò đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong toàn bộ quá trình tồn tại của nó,
mâu thuẫn được chia thành:
 Mâu thuẫn cơ bản: Mâu thuẫn quy định bản chất và chi phối sự vận động, phát triển của sự vật
trong mọi giai đoạn tồn tại của bản thân sự vật; khi nó được giải quyết thì sự vật sẽ thay đổi căn
bản về chất.
 Mâu thuẫn không cơ bản: Mâu thuẫn không quy định bản chất của sự vật; sự xuất hiện hay
được giải quyết của nó không làm cho sự vât thay đổi căn bản về chất.



Căn cứ vào vai trò đối với sự tồn tại và phát triển của sự vật trong một giai đoạn tồn tại nhất định,
mâu thuẫn được chia thành:
 Mâu thuẫn chủ yếu: Mâu thuẫn nổi lên hàng đầu ở một giai đoạn phát triển nhất định của sự vật,
nó chi phối các mâu thuẫn khác trong giai đoạn đó. Khi mâu thuẫn chủ yếu được giải quyết, sự
phát triển của sự vật chuyển sang giai đoạn mới. Mâu thuẫn chủ yếu có thể là một hình thức
biểu hiện nổi bật của mâu thuẫn cơ bản hay là kết quả vận động tổng hợp của các mâu thuẫn cơ
bản ở một giai đoạn nhất định. Việc giải quyết mâu thuẫn chủ yếu tạo điều kiện giải quyết từng
bước mâu thuẫn cơ bản.
 Mâu thuẫn thứ yếu: Mâu thuẫn ra đời và tồn tại trong một giai đoạn phát triển nào đó của sự vật
nhưng nó không có vai trò lớn mà ngược lại bị mâu thuẫn chủ yếu chi phối. Giải quyết mâu
thuẫn thứ yếu là góp phần vào việc từng bước giải quyết mâu thuẫn chủ yếu.




Căn cứ vào lĩnh vực tồn tại, mâu thuẫn được chia thành:
 Mâu thuẫn trong tự nhiên: Mâu thuẫn tồn tại trong tự nhiên, tác động độc lập với con người.
 Mâu thuẫn trong xã hội: Mâu thuẫn tồn tại trong lĩnh vực xã hội, tác động gắn liền với lợi ích
con người. Tùy theo tính chất của các quan hệ lợi ích, người ta chia mâu thuẫn trong xã hội ra
thành: Mâu thuẫn đối kháng (mâu thuẫn giữa những giai cấp, những tập đoàn người có lợi ích
cơ bản đối lập nhau) và mâu thuẫn không đối kháng (mâu thuẫn giữ những lực lượng xã hội có
lợi ích cơ bản thống nhất với nhau, chỉ đối lập về những lợi ích không cơ bản, cục bộ, tạm thời).
 Mẫu thuẫn (biện chứng) trong tư duy là phản ánh mâu thuẫn trong hiện thực và là nguồn gốc


16

phát triển của nhận thức. Cần phân biệt mẫu thuẫn (biện chứng) trong tư duy với mâu thuẫn
lôgích (sự kết hợp hai tư tưởng trái ngược nhau lại với nhau, dắc dẫn nhận thức vào sai lầm, đưa
tư duy vào bế tắc).


Tóm tắt nội dung của quy luật: Mọi sự vật đều chứa đựng những mặt có khuynh hướng biến đổi
ngược chiều nhau gọi là những mặt đối lập. Các mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với
nhau tạo nên mâu thuẫn biện chứng. Các mâu thuẫn biện chứng khác nhau có vai trò không giống
nhau đến quá trình vận động, phát triển của sự vật. Mâu thuẫn biện chứng phát triển qua ba giai
đoạn: hình thành, hiện hữu và giải quyết. Khi mâu thuẫn biện chứng được giải quyết, sự vật biến
đổi và phát triển, cái mới ra đời thay thế cái cũ. Mâu thuẫn biện chứng là nguồn gốc, động lực của
sự vận động, phát triển. Phát triển xảy ra trong thế giới một cách tự thân.

d) Ý nghĩa phương pháp luận


Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, chúng ta:
 Phải phát hiện ra và phân loại các mâu thuẫn chi phối sự vận động, phát triển của sự vật để

nhận thức đúng bản chất sự vật; đồng thời tìm ra phương hướng và giải pháp đúng cho hoạt
động thực tiễn.
 Muốn phát hiện ra mâu thuẫn của sự vật phải tìm ra những mặt đối lập và vạch ra những mối
liên hệ, tác động qua lại (thống nhất và đấu tranh), chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng.
 Muốn sự vật phát triển phải tìm mọi cách đẩy mạnh sự đấu tranh của các mặt đối lập và tạo ra
điều kiện cần thiết để mâu thuẫn sớm được giải quyết. Khi mâu thuẫn đã chín muồi, điều kiện
khách quan đã hội đủ phải kiên quyết giải quyết mâu thuẫn. Không được điều hòa mâu thuẫn;
Không chủ quan, nóng vội trong việc giải quyết mâu thuẫn.
 Mâu thuẫn khác nhau phải có phương pháp giải quyết khác nhau. Phải tìm ra phương thức,
phương tiện và lực lượng để giải quyết mâu thuẫn một cách linh hoạt, vừa phù hợp với từng
loại mâu thuẫn, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể.

III.3. NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH
a) Khái niệm phủ định và phủ định biện chứng


Phủ định là sự thay thế sự tồn tại (sự vật) này bằng sự tồn tại (sự vật) khác trong quá trình vận
động và phát triển.



Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự thân, là mắt khâu tất yếu
trong quá trình phát triển, dẫn tới sự ra đời của cái (sự vật) mới tiến bộ hơn, được khẳng định so
với cái (sự vật) cũ lỗi thời, bị phủ định. Phủ định biện chứng mang tính khách quan và tính kế thừa.
 Tính khách quan: Phủ định biện chứng do việc giải quyết những mâu thuẫn, việc thực hiện bước
nhảy về chất xảy ra bên trong bản thân sự vật gây ra; chứ không phụ thuộc vào ý muốn chủ
quan của con người (cho dù con người có thể tác động làm cho quá trình phủ định ấy diễn ra
nhanh hay chậm hơn).
 Tính kế thừa: Phủ định biện chứng xảy ra trên cơ sở gạt bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời của cái
(sự vật) cũ, đồng thời chọn lọc, cải tạo những mặt tích cực, tiến bộ của cái (sự vật) cũ để tạo

thành cái (sự vật) mới, phù hợp với hiện thực mới. Do đó, phủ định biện chứng không chỉ phủ
định mà đồng thời nó cũng là khẳng định.

b) Khái niệm phủ định của phủ định


Phủ định của phủ định là sự xác lập lại (khẳng định lại) cái cũ (cái đã bị phủ định) nhưng ở một trình độ
cao hơn; là điểm kết thúc của chu kỳ cũ đồng thời cũng là điểm khởi đầu của chu kỳ mới trong qúa


17
trình phát triển liên tục của sự vật.

 Trong chuổi phủ định biện chứng tạo thành một chu kỳ phát triển, cái cũ bị phủ định trong lần thứ
nhất đưa đến sự ra đời của cái mới; cái mới này chứa sự tự phủ định trong mình trong lần phủ định
tiếp theo. Lần phủ định nào sau đó làm xuất hiện cái mới, nhưng trong cái mới này có lặp lại (yếu tố)
cái cũ, đã bị phủ định trong lần thứ nhất nhưng ở một trình độ cao hơn thì lần phủ định đó được

gọi là phủ định của phủ định.
 Bằng phủ định của phủ định, sự vật trải qua nhiều lần (ít nhất là 2 lần) phủ định biện chứng, nên
nó loại dần nhiều cái tiêu cực, lỗi thời; đồng thời tích lũy dần nhiều cái tích cực, tiến bộ; làm cho
cái mới sau cùng ra đời quay về với cái cũ, cái khẳng định quay trở lại với cái bị phủ định nhưng ở
một trình độ cao, tiến bộ hơn. Phủ định của phủ định vạch ra tính chu kỳ của sự phát triển.
 Thông qua các lần phủ định của phủ định, sự vật phát triển theo khuynh hướng “xoắn ốc” tiến
lên. Điều này nói lên quá trình phát triển biện chứng của sự vật mang tính kế thừa, tính lặp lại,
tính tiến lên vô tận.


Tóm tắt nội dung của quy luật: Sự vận động, phát triển của sự vật trải qua các lần phủ định biện
chứng và phủ định của phủ định. Bằng phủ định biện chứng, sự vật loại bỏ những yếu tố tiêu cực,

lỗi thời; đồng thời lưu giữ, cải tạo những yếu tố tích cực, tiến bộ của cái cũ để biến thành cái mới.
Thông qua phủ định của phủ định, sự vật đường như quay về với cái cũ nhưng ở một trình độ cao
hơn; Sự vận động, phát triển của sự vật diễn ra theo khuynh hướng “xoắn ốc” tiến lên vô tận.

c) Ý nghĩa phương pháp luận


Trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, chúng ta:
 Phải coi quá trình phát triển của sự vật không theo đường thẳng, mà diễn ra quanh co, phức
tạp (thậm chí có những bước lùi) trải qua các chu kỳ khác nhau. Đó là một cuộc đấu tranh lâu
dài, khó khăn, phức tạp giữa cái mới với cái cũ; cái mới có thể thất bại tạm thời nhưng cuối
cùng nó sẽ thắng lợi; sự vật sẽ phát triển tiến lên. Không bi quan trước sự thất bại tạm tời của
cái mới.
 Phải biết khắc phục, loại bỏ những cái tiêu cực, lỗi thời; đồng thời biết kế thừa những cái tích
cực, tiến bộ (tinh hoa) của cái cũ.
 Phải biết phát hiện cái mới để ủng hộ, bảo vệ nó; đồng thời phải nhận định đúng cái cũ để đấu
tranh, loại bỏ nó.
 Phải tránh thái độ “phủ định” sạch trơn hay “kế thừa” toàn bộ.


18

IV. BIỆN CHỨNG GIỮA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀ QUAN HỆ SẢN XUẤT
IV.1. KHÁI NIỆM VÀ KẾT CẤU CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
a) Khái niệm lực lượng sản xuất


Lực lượng sản xuất là năng lực thực tiễn cải biến giới tự nhiên của con người nhằm đáp ứng nhu
cầu đời sống của mình; là sự biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.




Lực lượng sản xuất luôn phát triển trong quá trình không ngừng sản xuất của nhân loại.

b) Kết cấu của lực lượng sản xuất


Lực lượng sản xuất là sự kết hợp người lao động với tư liệu sản xuất.
 Người lao động là con người (chủ thể) trong quá trình lao động sản xuất.
-

Người lao động là yếu tố quyết định, hàng đầu của lực lượng sản xuất.

-

Lao động là quá trình người lao động cùng với sức mạnh thể chất (trí lực) và năng lực tinh
thần - kỹ năng, kỹ xảo… (thể lực) của mình sử dụng tư liệu lao động do mình sáng tạo ra tác
động vào đối tượng lao động để sản xuất ra của cải vật chất.

 Tư liệu sản xuất bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động
-

Tư liệu lao động bao gồm công cụ lao động và phương tiện lao động. Công cụ lao động là
yếu tố cơ bản nhất, động nhất của tư liệu sản xuất; là “sức mạnh của tri thức đã được vật
chất hóa”; nó “nhân” sức mạnh của con người trong quá trình lao động sản xuất.

-

Đối tượng lao động bao gồm loại có sẳn trong tự nhiên và loại do con người làm ra. Càng
ngày đối tượng lao động do con người làm ra càng quan trọng.


 Sự vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất trong tiến trình sản xuất của nhân
loại.
-

Cùng với quá trình không ngừng tích lũy kinh nghiệm, đẩy mạnh phát minh và sáng chế kỹ
thuật là quá trình không ngừng cải tiến và hoàn thiện của công cụ lao động, không ngừng
tìm kiếm những đối tượng lao động mới. Điều này làm biến đổi toàn bộ lực lượng sản xuất
và là nguyên nhân sâu xa của mọi thay đổi trong đời sống xã hội. Trình độ phát triển của
công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân
biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.

-

Khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn trong sự phát triển của lực lượng sản xuất. Sự phát
triển của khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển.
Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi
to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành “lực lượng sản xuất trực tiếp”. Sức lao động
đặc trưng cho lao động hiện đại không còn chỉ là kinh nghiệm và thói quen của họ mà là tri
thức khoa học. Khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.

 Trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất: Ở mỗi giai đoạn lịch sử phát triển của mình, lực
lượng sản xuất có một trình độ và tính chất nhất định.
-

Trình độ lực lượng sản xuất thể hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người trong giai đoạn
lịch sử đó; nó được biểu hiện ở trình độ của công cụ lao động, trình độ, kinh nghiệm và kỹ năng
lao động của con người, trình độ tổ chức và phân công lao động xã hội, trình độ ứng dụng khoa
học vào sản xuất. Quá trình phát triển sản xuất và sự tác động của các cuộc cách mạng khoa học
– kỹ tuật / công nghệ làm cho trình độ của lực lượng sản xuất không ngừng nâng cao.


-

Gắn liền với trình độ của lực lượng sản xuất là tính chất của lực lượng sản xuất. Trong lịch
sử xã hội, lực lượng sản xuất đã phát triển từ chỗ có tính chất cá nhân (khi sản xuất dựa trên


19

công cụ thủ công, phân công lao động kém phát triển; một người lao động sử dụng tư liệu
sản xuất vẫn làm ra một sản phẩm hoàn chỉnh cho xã hội) lên tính chất xã hội hóa (khi sản
xuất đạt tới trình độ cơ khí, hiện đại, phân công lao động xã hội phát triển; nhiều người lao
động cùng sử dụng tư liệu sản xuất mới làm ra một sản phẩm hoàn chỉnh cho xã hội).
IV.2. KHÁI NIỆM VÀ KẾT CẤU CỦA QUAN HỆ SẢN XUẤT
a) Khái niệm quan hệ sản xuất


Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản
xuất xã hội).



Quan hệ sản xuất tồn tại khách quan và khá ổn định
 Quan hệ sản xuất gắn liền với con người nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá
trình sản xuất mà không phụ thuộc ý muốn chủ quan của con người.
 Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất thống nhất ba mặt của quan hệ sản xuất với
nhau tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động, phát triển không
ngừng của lực lượng sản xuất.

b) Kết cấu của quan hệ sản xuất



Quan hệ sản xuất gồm ba mặt thống nhất với nhau: Quan hệ về sở hữu đối với tư liệu sản xuất,
quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất và quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra.
 Quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, cơ bản (quyết định các quan hệ sản xuất
còn lại) và chi phối các quan hệ xã hội khác. Có hai loại hình sỡ hữu cơ bản về tư liệu sản xuất:
-

Sở hữu tư nhân: Tư liệu sản xuất tập trung vào trong tay một số ít người, còn đại đa số
không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất; do đó, quan hệ giữa người với người trong sản xuất
vật chất và trong đời sống xã hội là quan hệ thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột.

-

Sở hữu công cộng: Tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của mỗi cộng đồng; nhờ đó, quan
hệ giữa nguời với người trong cộng đồng là quan hệ bình đẳng, hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau.

 Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến việc tổ chức, điều khiển quá trình sản
xuất. Nó có thể thúc đẩy hoặc kiềm hãm quá trình sản xuất. Dù quan hệ tổ chức và quản lí sản
xuất do quan hệ sở hữu quyết định và phải thích ứng với quan hệ sở hữu; nhưng có trường hợp,
quan hệ tổ chức và quản lí không thích ứng với quan hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu.
 Quan hệ về phân phối sản phẩm sản xuất ra tác động đến thái độ của con người trong lao động
sản suất (do kích thích trực tiếp đến lợi ích của con người) nên nó có thể thúc đẩy hoặc kiềm
hãm sản xuất phát triển; mặc dù do quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản
lý sản xuất chi phối.
IV.3. NỘI DUNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA
LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT
a) Phương thức sản xuất và sự vận động của phương thức sản xuất



Phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện quá trình sản xuất vật chất ở những giai
đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người; là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất ở một trình
độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng. Mỗi xã hội được đặc trưng bằng một phương thức sản
xuất nhất định.



Sự vận động của phương thức sản xuất là do sự tác động qua lại lẫn nhau một cách biện chứng
giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, tức do quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất


20

với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất chi phối.
b) Sự vận động, phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất quyết định và làm thay đổi quan hệ
sản xuất cho phù hợp với nó





Khi một phương thức sản xuất mới ra đời thì quan hệ sản xuất thường phù hợp với trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất. Khi đó, quan hệ sản xuất là “hình thức phát triển” của lực lượng sản
xuất. Trong trạng thái này, tất cả các mặt của quan hệ sản xuất đều “tạo địa bàn đầy đủ” cho lực
lượng sản xuất phát triển (tạọ điều kiện sử dụng và kết hợp một cách tối ưu giữa người lao động
với tư liệu sản xuất) và do đó lực lượng sản xuất có cơ sở để phát triển hết khả năng của nó.



Khuynh hướng chung của sản xuất vật chất là không ngừng phát triển; Sự phát triển đó xét đến

cùng là bắt nguồn từ sự biến đổi và phát triển của lực lượng sản xuất (trước hết là công cụ lao
động). Lực lượng sản xuất phát triển đến một trình độ nhất định làm cho quan hệ sản xuất từ chỗ
phù hợp trở thành không phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, trở thành “xiềng xích”
kìm hãm lực lượng sản xuất phát triển.



Yêu cầu khách quan của sự phát triển lực lượng sản xuất tất yếu dẫn đến thay đổi quan hệ sản xuất
cũ bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy
lực lượng sản xuất tiếp tục phát triển. Điều này làm cho phương thức sản xuất cũ mất đi, phương
thức sản xuất mới ra đời thay thế.

Nhưng rồi quan hệ sản xuất mới này cũng sẽ không còn phù hợp với lực lượng sản xuất đã phát triển
hơn nữa, sự thay thế phương thức sản xuất một lần nữa lại diễn ra.

c) Quan hệ sản xuất có tính độc lập tương đối và tác động trở lại sự phát triển của lực lượng sản xuất


Quan hệ sản xuất quy định mục đích của sản xuất, tác động đến thái độ của con người trong lao
động sản xuất, đến tổ chức phân công lao động xã hội, đến phát triển và ứng dụng khoa học và
công nghệ, v.v. và do đó tác động đến sự phát triển của lực lượng sản xuất.
 Quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là động lực thúc đẩy
lực lượng sản xuất phát triển.
 Quan hệ sản xuất không phù hợp (lỗi thời, lạc hậu hoặc “tiên tiến” hơn một cách giả tạo) so với
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất sẽ kìm hãm sự phát triển của lực lượng sản xuất.
-

Theo quy luật chung, lực lượng sản xuất cuối cùng phải phát triểnkhi đó, quan hệ sản xuất
cũ sẽ được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất để thúc đẩy sản xuất phát triển.


-

Tuy nhiên, việc giải quyết mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất phải
thông qua nhận thức và hoạt động cải tạo xã hội của con người, trong xã hội có giai cấp phải
thông qua đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội.

d) Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ
bản nhất và phổ biến trong xã hội


Cơ bản: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất đã làm
thay đổi phương thức sản xuất. Phương thức sản xuất thay đổi làm thay đổi mọi mặt đời sống xã hội.



Phổ biến: Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất làm
thay thế các phương thức sản xuất của xã hội loài người từ thấp đến cao: Từ chế độ công xã
nguyên thủy, qua chế độ chiếm hữu nô lệ, chế độ phong kiến, chế độ tư bản chủ nghĩa và đến xã
hội cộng sản tương lai là do sự tác động của hệ thống các quy luật xã hội, trong đó quy luật quan
hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là cơ bản.


21

V. BIỆN CHỨNG CỦA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
V.1. KHÁI NIỆM VÀ KẾT CẤU CỦA CƠ SỞ HẠ TẦNG
a) Khái niệm cơ sở hạ tầng



Cơ sở hạ tầng là toàn bộ những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất
định. Cơ sở hạ tầng là trật tự kinh tế của đời sống xã hội, là nền tảng của kiến trúc thượng tầng
nói riêng, của xã hội nói chung.

b) Kết cấu của cơ sở hạ tầng


Cơ sở hạ tầng của một xã hội cụ thể bao gồm ba nhóm quan hệ sản xuất thống nhất với nhau:
-

Quan hệ sản xuất thống trị,

-

Quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ,

-

Quan hệ sản xuất mầm mống của xã hội tương lai.



Trong cơ sở hạ tầng, quan hệ sản xuất thống trị giữ vai trò chủ đạo chi phối các quan hệ sản xuất
khác và quy định đặc trưng, xu hướng chung của đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, quan hệ sản
xuất tàn dư và quan hệ sản xuất mầm mống cũng có vai trò nhất định.



Xét trong nội bộ phương thức sản xuất thì quan hệ sản xuất là hình thức phát triển của lực lượng
sản xuất, nhưng xét trong tổng thể các quan hệ xã hội thì các quan hệ sản xuất “hợp thành” cơ sở

kinh tế của xã hội, tức là cơ sở hiện thực, trên đó hình thành nên kiến trúc thượng tầng tương ứng.

V.2. KHÁI NIỆM VÀ KẾT CẤU CỦA KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
a) Khái niệm kiến trúc thượng tầng


Kiến trúc thượng tầng là toàn bộ những tư tưởng, quan điểm về chính trị, về pháp quyền, về triết
học, về đạo đức, về tôn giáo, về nghệ thuật, v.v. cùng với những thiết chế xã hội tương ứng như
nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội, v.v. được hình thành trên cơ sở hạ tầng và
phản ánh cơ sở hạ tầng nhất định.

b) Kết cấu của kiến trúc thượng tầng


Kiến trúc thượng tầng bao gồm hai nhóm yếu tố:
 Những tư tưởng, quan điểm về chính trị, về pháp quyền, về triết học, về đạo đức, về tôn giáo,
về nghệ thuật, v.v.
 Những thiết chế xã hội tương ứng như nhà nước, đảng phái, giáo hội, các đoàn thể xã hội, v.v.
được hình thành trên cơ sở hạ tầng và phản ánh cơ sở hạ tầng nhất định.





Mỗi yếu tố của kiến trúc thượng tầng có đặc điểm, quy luật vận động, phát triển riêng, nhưng
chúng liên hệ, tác động qua lại lẫn nhau và đều hình thành trên cơ sở hạ tầng; song, mỗi yếu tố
khác nhau có quan hệ khác nhau đối với cơ sở hạ tầng:
-

Các yếu tố có quan hệ trực tiếp như chính trị, pháp luật,…


-

Các yếu tố có quan hệ gián tiếp như triết học, tôn giáo, nghệ thuật,…

Trong xã hội có giai cấp, kiến trúc thượng tầng mang tính giai cấp, trong đó, nhà nước có vai trò đặc
biệt quan trọng: Nhà nước tiêu biểu cho chế độ chính trị của một xã hội nhất định; nhờ có nhà nước,
giai cấp thống trị mới thực hiện được sự thống trị của mình về tất cả các mặt của đời sống xã hội.

V.3. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ KIẾN TRÚC THƯỢNG TẦNG
a) Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng


22



Mỗi cơ sở hạ tầng sẽ hình thành nên một kiến trúc thượng tầng tương ứng có những tính chất do
cơ sở hạ tầng quyết định
 Tất cả các yếu tố của kiến trúc thượng tầng như nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo, v.v.
đều trực tiếp hay gián tiếp phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng, do cơ sở hạ tầng quyết định.
 Các mâu thuẫn trong kinh tế, xét đến cùng, quyết định các mâu thuẫn trong chính trị tư tưởng;
 Trong xã hội có giai cấp, giai cấp nào thống trị về kinh tế thì cũng chiếm địa vị thống trị về mặt
chính trị và đời sống tinh thần của xã hội; cuộc đấu tranh giai cấp về chính trị tư tưởng là biểu
hiện của những đối kháng trong đời sống kinh tế.



Trong một hình thái kinh tế - xã hội hay giữa các hình thái kinh tế - xã hội, khi cơ sở hạ tầng thay
đổi thì sớm hay muộn, kiến trúc thượng tầng cũng thay đổi theo.

 Sự phát triển của lực lượng sản xuất làm thay đổi quan hệ sản xuất, tức là trực tiếp làm thay đổi
cơ sở hạ tầng và thông qua đó làm thay đổi kiến trúc thượng tầng.
 Sự thay đổi cơ sở hạ tầng dẫn đến làm thay đổi kiến trúc thượng tầng; nhưng thay đổi của kiến
trúc thượng tầng diễn ra rất phức tạp:
-

Có những yếu tố của kiến trúc thượng tầng thay đổi nhanh chóng cùng với sự thay đổi của
cơ sở hạ tầng như chính trị, pháp luật, v.v.

-

Có những yều tố thay đổi chậm như tôn giáo, nghệ thuật, v.v. hoặc có những yếu tố vẫn
được kế thừa trong xã hội mới.

 Trong xã hội có giai cấp, sự thay đổi của kiến trúc thượng tầng phải thông qua đấu tranh giai
cấp và cách mạng xã hội.
b) Tác động trở lại của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng


Toàn bộ kiến trúc thượng tầng, cũng như các yếu tố cấu thành nó đều có tính độc lập tương đối
trong quá trình vận động phát triển; do đó, chúng tác động mạnh mẽ đến cơ sở hạ tầng; tuy nhiên,
mỗi yếu tố khác nhau có vai trò, có cách thức và khuynh hướng tác động khác nhau.
 Nhà nước là yếu tố có tác động mạnh nhất đối với cơ sở hạ tầng; vì nó là bộ máy bạo lực tập
trung của giai cấp thống trị về kinh tế.
 Các yếu tố khác của kiến trúc thượng tầng như triết học, đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, v.v. cũng
đều tác động đến cơ sở hạ tầng nhưng chúng đều bị nhà nước, pháp luật chi phối.



Chức năng xã hội cơ bản của kiến trúc thượng tầng thống trị là:

 Xây dựng, bảo vệ và phát triển cơ sở hạ tầng đã sinh ra nó,
 Chống lại mọi nguy cơ làm suy yếu hoặc phá hoại chế độ kinh tế đó.



Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng diễn ra theo hai hướng.
 Nếu phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì kiến trúc thượng tầng là động lực thúc đẩy
kinh tế - xã hội phát triển mạnh mẽ.
 Nếu không phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan thì kiến trúc thượng tầng sẽ kìm hãm
phát triển kinh tế - triển xã hội. Tuy nhiên, sự kìm hảm này chỉ mang tính tạm thời; bởi vì kiến
trúc thượng tầng cũ nhất định sẽ được thay thế bằng kiến trúc thượng tầng mới để thúc đẩy kinh
tế tiếp tục phát triển.



Kiến trúc thượng tầng có tác động mạnh mẽ đối với sự phát triển kinh tế, nhưng không làm thay
đổi được tiến trình phát triển khách quan của xã hội; Bởi vì, xét đến cùng, nhân tố kinh tế đóng
vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng.


23

VI. BIỆN CHỨNG CỦA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI
VI.1. KHÁI NIỆM VÀ KẾT CẤU CỦA TỒN TẠI XÃ HỘI
a) Khái niệm và kết cấu của tồn tại xã hội


Tồn tại xã hội là toàn bộ phương thức và những điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội.

b) Kết cấu của tồn tại xã hội



Tồn tại xã hội được tạo thành từ các yếu tố: Phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên –
hoàn cảnh địa lý, điều kiện dân số; trong đó phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất.

VI.2. KHÁI NIỆM VÀ KẾT CẤU CỦA Ý THỨC XÃ HỘI
a) Khái niệm của ý thức xã hội


Ý thức xã hội là lĩnh vực tinh thần của đời sống xã hội, bao gồm tòan bộ những quan điểm, tư
tưởng cùng những tình cảm, tâm trạng… của những cộng đồng người, nảy sinh từ tồn tại xã hội và
phản ánh tồn tại xã hội trong những giai đoạn phát triển nhất định.



Ý thức xã hội và ý thức cá nhân tồn tại trong mối liên hệ biện chứng với nhau; đó là mối quan hệ
giữa cái chung và cái riêng.

b) Kết cấu của ý thức xã hội: Ý thức xã hội có cấu trúc rất phức tạp.


Theo nội dung và lĩnh vực phản ánh ý thức xã hội bao gồm các hình thái khác nhau như:
 ý thức chính trị,
 ý thức pháp quyền,
 ý thức đạo đức,
 ý thức tôn giáo,
 ý thức thẩm mỹ,
 triết học,…




Theo trình độ phản ánh ý thức xã hội được chia thành:
 ý thức xã hội thông thường
 ý thức lý luận.

c) Ý thức thông thường và ý thức lý luận


Ý thức xã hội thông thường
 Ý thức xã hội thông thường là toàn bộ những tri thức, những quan niệm… của con người trong
một cộng đồng người nhất định, được hình thành một cách trực tiếp từ hoạt động thực tiễn
hằng ngày, chưa được hệ thống hóa, khái quát hóa thành lý luận. Trong ý thức xã hội thông
thường, tâm lý xã hội là một bộ phận rất quan trọng.
 Ý thức xã hội thông thường phản ánh sinh động, trực tiếp nhiều mặt cuộc sống hằng ngày của
con người và thường xuyên chi phối cuộc sống đó.
 Ý thức thông thường tuy là trình độ thấp so với ý thức lý luận, nhưng những tri thức kinh
nghiệm phong phú đó có thể trở thành tiền đề quan trọng cho sự hình thành ý thức lý luận (các
lý thuyết xã hội).



Ý thức lý luận
 Ý thức lý luận là những tư tưởng, quan điểm đã được hệ thống hóa, khái quát hóa thành các
học thuyết xã hội, được trình bày dưới dạng những khái niệm, phạm trù, quy luật. Trong ý


24

thức lý luận, hệ tư tưởng là một bộ phận rất quan trọng.
 Ý thức lý luận (lý luận khoa học) có khả năng phản ánh hiện thực khách quan một cách khái

quát, sâu sắc và chính xác, vạch ra các mối liên hệ bản chất của các sự vật và hiện tượng.


Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng Dù cùng bắt nguồn từ tồn tại xã hội và cùng phản ánh tồn tại xã hội
nhưng tâm lý xã hội và hệ tư tưởng là hai trình độ, hai phương thức khác nhau của ý thức xã hội,
có mối quan hệ tác động lẫn nhau.
 Tâm lý xã hội
-

Tâm lý xã hội là khái niệm dùng để chỉ tình cảm, ước muốn, tâm trạng, tập quán, thói
quen… của một cộng đồng người (một bộ phận xã hội hoặc của toàn bộ xã hội) được hình
thành dưới sự ảnh hưởng trực tiếp của đời sống hàng ngày của họ và phản ánh đời sống
đó.

-

Tâm lý xã hội phản ánh một cách trực tiếp, tự phát, bề ngoài phương thức và điều kiện
sinh sống hàng ngày của con người. Nó mang nặng tính kinh nghiệm, chứa đầy những yếu
tố tình cảm và có vai trò quan trọng trong sự phát triển của ý thức xã hội.

 Hệ tư tưởng
-

Hệ tư tưởng là khái niệm dùng để chỉ một hệ thống các tư tưởng, quan điểm của một cộng
đồng người (giai cấp, …) phản ánh các mối quan hệ vật chất của xã hội và vạch ra cách
thức duy trì hay cải tạo xã hội dựa trên lợi ích sống còn của cộng đồng mình. Có hệ tư
tưởng khoa học (phản ánh chính xác, khách quan các mối quan hệ vật chất của xã hội) và
hệ tư tưởng không khoa học (phản ánh xuyên tạc các mối quan hệ vật chất của xã hội).

-


Hệ tư tưởng phản ánh một cách gián tiếp, tự giác, những mối quan hệ bên trong của
phương thức và điều kiện sinh sống (tức tồn tại xã hội) hàng ngày của con người. Nó
mang tính lý luận và chứa đầy những yếu tố lý trí, có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của
ý thức xã hội.

 Quan hệ giữa tâm lý xã hội và hệ tư tưởng
-

Nhờ tâm lý xã hội tạo điều kiện thuận lợi mà hệ tư tưởng của giai cấp xâm nhập vào đời
sống tinh thần của các thành viên giai cấp; Nhờ mối liên hệ chặt chẽ với tâm lý xã hội, với
thực tiễn cuộc sống sinh động mà hệ tư tưởng, lý luận (đặc biệt là các tư tưởng cách mạng,
khoa học tiến bộ) bớt xơ cứng, ít sai lầm.

-

Nhờ hệ tư tưởng (lý luận) khoa học, cách mạng mà tâm lý xã hội gia tăng yếu tố trí tuệ,
phát triển theo chiều hướng đúng đắn, lành mạnh có lợi cho tiến bộ xã hội. Tuy nhiên, hệ
tư tưởng phản khoa học, phản động củng cố những yếu tố tiêu cực, bảo thủ, cổ hữu của
tâm lý xã hội, kìm hãm xã hội phát triển.

-

Dù có liên hệ với tâm lý xã hội nhưng hệ tư tưởng không ra đời trực tiếp từ tâm lý xã hội,
không phải là sự biểu hiện trực tiếp của tâm lý xã hội. Bởi vì, bất kỳ hệ tư tưởng xã hội
nào khi phản ánh các mối quan hệ đương thời thì đồng thời cũng kế thừa những học thuyết
xã hội, những tư tưởng và quan điểm đã tồn tại trước đó. Như vậy, hệ tư tưởng xã hội liên
hệ hữu cơ với tâm lý xã hội, chịu sự tác động của tâm lý xã hội, nhưng nó không phải đơn
giản là sự “cô đặc” của tâm lý xã hội.


VI.3. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG CỦA TỒN TẠI XÃ HỘI VÀ Ý THỨC XÃ HỘI
a) Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội


Quan niệm duy tâm về lịch sử cho rằng, ý thức xã hội quyết định tồn tại xã hội:


25

 Nguồn gốc của những tư tưởng, tâm lý (ý thức) xã hội nằm trong bản thân ý thức xã hội, tức
trong đầu óc của con người mà không phải trong hiện thực vật chất.
 Cái tinh thần, tư tưởng là nguồn gốc của mọi hiện tượng xã hội, quyết định sự tồn tại và phát
triển xã hội. Để tìm hiểu sự biến đổi của một thời đại nào đó phải căn cứ vào ý thức của thời đại
đó để vạch ra nguồn gốc, làm sáng rõ nguyên nhân của sự biến đổi đó. Lịch sử ra đời, tồn tại và
phát triển của các hình thái ý thức xã hội hoàn toàn tách rời cơ sở kinh tế - xã hội, tức tách rời
khỏi tồn tại xã hội


Quan niệm duy vật về lịch sử cho rằng, tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, nhưng đó không
phải là một sự quyết định đơn giản, trực tiếp:
 Tồn tại xã hội quyết định nội dung của ý thức xã hội: Ý thức xã hội chỉ là sự phản ánh của tồn
tại xã hội.
 Tồn tại xã hội quyết định hình thức thể hiện của ý thức xã hội: Ý thức xã hội tồn tại trong tồn tại
xã hội, thông qua tồn tại xã hội, và luôn phụ thuộc vào tồn tại xã hội.
 Tồn tại xã hội quyết định nguồn gốc, nguyên nhân của ý thức xã hội: Mỗi khi tồn tại xã hội
(phương thức sản xuất,..) biến đổi thì ý thức (tâm lý, tư tưởng và lý luận xã hội: những quan
điểm về chính trị, pháp quyền, triết học, đạo đức, văn hóa, nghệ thuật, v.v.) sớm muộn sẽ biến
đổi theo. Những thời kì lịch sử khác nhau có những lý luận, quan điểm, tư tưởng xã hội khác
nhau là do những điều kiện khác nhau của đời sống vật chất quyết định.
 Tồn tại xã hội quyết định vai trò và tác dụng của ý thức xã hội: Ý thức xã hội chỉ có vai trò và

tác dụng trong đời sống xã hội khi và chỉ khi nó thậm nhập được vào tồn tại xã hội và tác động
thông qua tồn tại xã hội, tức thông qua và nhờ vào hoạt động thực tiễn (có ý thức) của con
người.
 Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội một cách không đơn giản, trực tiếp: Thông thường, tồn
tại xã hội quyết định ý thức xã hội phải thông qua các khâu trung gian; hơn nữa, không phải bất
cứ tư tưởng (quan niệm, lý luận) nào của ý thức xã hội cũng phản ánh rõ ràng, trực tiếp những
quan hệ kinh tế của thời đại, mà chỉ khi nào xét đến cùng thì chúng ta mới thấy rõ những mối
quan hệ kinh tế được phản ánh bằng cách này hay cách khác trong các tư tưởng ấy. Bởi vì ý
thức xã hội có tính độc lập tương đối.

b) Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội: Ý thức xã hội không phụ thuộc một cách máy móc vào tồn
tại xã hội; nó có tính độc lập tương đối. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội được biểu hiện như
sau:


Ý thức xã hội thường lạc hậu so với tồn tại xã hội: Xã hội cũ đã mất đi, thậm chí từ lâu, nhưng ý
thức xã hội do nó sinh ra vẫn tồn tại dai dẳng (truyền thống, tập quán, thói quen,... ). Ý thức xã hội
thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội là do ba nguyên nhân sau đây:
 Do sự tác động mạnh mẽ, thường xuyên và trực tiếp của hoạt động thực tiễn mà tồn tại xã hội
biến đổi nhanh mà ý thức xã hội phản ảnh không kịp và trở nên lạc hậu; hơn nữa, ý thức xã hội
là cái phản ánh tồn tại xã hội nên nói chung nó chỉ biến đổi sau khi có sự biến đổi của tồn tại xã
hội.
 Do sức mạnh của thói quen, truyền thống, tập quán cũng như do tính lạc hậu, bảo thủ của một số
hình thái ý thức xã hội.
 Do các lực lượng xã hội phản tiến bộ thường lưu giữ và truyền bá những tư tưởng cũ, lạc hậu
nhằm chống lại các lực lượng xã hội tiến bộ.



Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xả hội: Trong những điều kiện nhất định, các tư tưởng của



×