Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

tư tưởng hồ chí minh về phương pháp giáo dục và sự vận dụng sáng tạo của đảng ta trong giai đoạn hiện nay tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (170.09 KB, 23 trang )

A.LỜI NÓI ĐẦU
1. Tính cấp thiết của vấn đề
Hồ Chí Minh là anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Tư
tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục đã đặt nền móng và xây dựng nền giáo dục dân
chủ mới cho nước ta. Với hệ thống những luận điểm khoa học rộng lớn, sâu sắc và
phong phú trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, trong lĩnh vực giáo dục – đào
tạo, tư tưởng của Người là một kho tàng những giá trị nhân văn cao cả, tư tưởng đó
không chỉ có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng Việt
Nam mà còn có ý nghĩa thiết thực trong sự nghiệp đào tạo nguồn nhân lực cho công
cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, phục cho quá trình đổi mới và hội
nhập hiện nay.
Để giáo dục thực sự trở thành một trong ba khâu “đột phá” của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vấn đề có ý nghĩa hết sức quan trọng là chúng ta
phải nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo
dục, vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng đó vào công cuộc đổi mới ở nước ta nói
chung, đổi mới sự nghiệp giáo dục nói riêng. Có như vậy chúng ta mới có thể đưa
sự nghiệp giáo dục và đào tạo nước ta tiến lên một bước mới, xứng đáng với vị trí là
“quốc sách hàng đầu”, góp phần quyết định đưa sự nghiệp cách mạng nước ta tới
thành công.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục bao gồm nhiều nội dung, từ các quan điểm
về giáo dục toàn diện, giáo dục là sự nghiệp của toàn dân, giáo dục là nền tảng của
phát triển kinh tế - xã hội… Trong đó nội dung cơ bản nhất của nó nhằm giáo dục
đạo lý làm người, đó là xây dựng con người toàn diện vừa “hồng” vừa “chuyên”, có
đức, có tài, có tri thức, sức khỏe, văn hóa, trình độ khoa học – kỹ thuật, phục vụ cho
sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Để chuyển tải nội dung giáo dục có hiệu quả, theo
Hồ Chí Minh, cần thiết phải có phương pháp. Phương pháp giáo dục của Bác đa
dạng, phong phú làm cho nội dung giáo dục trở nên vừa sinh động, cụ thể, vừa sâu
sắc, dễ thực hiện và dễ đi vào lòng người. Tuy Bác không viết một tác phẩm, một
bài nào chuyên về phương pháp, nhưng qua những bài viết ngắn gọn, thiết thực,
sinh động và qua quá trình hoạt động cách mạng thực tiễn của người đã toát lên
những bài học lớn có ý nghĩa về phương pháp giáo dục. Trong lĩnh vực giáo dục


1


đào tạo, theo Hồ Chí Minh: “Muốn học tập có kết quả tốt thì phải có thái độ đúng
và phương pháp đúng.
Hiện nay, trong quá trình hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa Đảng và nhà nước ta
đã quán triệt thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh
về giáo dục nói riêng. Thực tiễn, nền giáo dục Việt Nam hiện nay còn nhiều bất cập,
không mang lại hiệu quả cao trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực. Bởi đã không
hiểu rõ và thực hiện một cách nghiêm túc, đúng đắn, sáng tạo về các phương pháp
trong giáo dục theo tư tưởng của người. Chính vì vậy, mà tôi đã chọn đề tài: “tư
tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục và sự vận dụng sáng tạo của
Đảng ta trong giai đoạn hiện nay”
Tuy nhiên đây là một vấn đề rất rộng lớn mà cá nhân tôi cũng đã cố gắng nghiên
cứu tìm hiểu nhưng do thời gian và trình độ nghiên cứu của tôi còn hạn hẹp. Vì vậy
bài tiểu luận của tôi không tránh khỏi những thiếu sót, sai lầm. Rất mong được nhận
được sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo cũng như của bạn đọc. Tôi xin chân thành
cảm ơn!
2. Mục tiêu và nhiêm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài làm rõ sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh và phương pháp giáo dục của
Người.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Khái quát được quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục. Và
những tư tưởng của Người trong phương pháp giáo dục, đồng thời nêu khái quát sự
vận dụng của Đảng ta trong nhất quán thực hiện phương pháp giáo dục trong và
ngoài nhà trường.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về phương pháp giáo dục

3.2. Phạm vi nghiên cứu
Tiểu luận được nghiên cứu và trình bày trong suốt quá trình học môn các chuyên
đề tư tưởng Hồ Chí Minh.
4. Phương pháp nghiên cứu
2


Phương pháp luận: Sử dụng phương pháp chủ nghĩa duy vật biện chứng về
phương pháp giáo dục, chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Phương pháp chung: Diễn dịch, quy nạp, phương pháp phân tích tổng hợp, logiclịch sử.
Phương pháp cụ thể: lược thuật tài liệu
5. Kết cấu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo. Phần nội dung đề tài
gồm 3 chương:
Chương I: cơ sở lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
1.

Các tiền đề hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục

1.1. Nguồn gốc hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
1.2. Quá trình phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh
2.
Nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh
Chương II: phương pháp giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh
1.
Học đi đôi với hành
2.
Lý luận gắn liền với thực tiễn
3.
Học tập kết hợp với lao động sản xuất

4.
Giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo dục xã hội
5.
Kế hoạch giáo dục gắn liền với kế hoạch kinh tế
6.
Gắn giáo dục với tự giáo dục
7.
Phương pháp nêu gương trong giáo dục
8.
Phê bình và tự phê bình

3


PHẦN B: NỘI DUNG
Chương

I. Nguồn gốc và quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về

phương pháp giáo dục
1.

Các tiền đề hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục
Hồ Chí Minh – “vị anh hùng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất” không chỉ được

nhân dân Việt Nam kính trọng, tin yêu mà còn được thế giới suy tôn, ca ngợi. Cuộc
đời, sự nghiệp và tư tưởng của Người gắn liền với hoàn cảnh và tiến trình lịch sử
cách mạng Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng của Người về
giáo dục nói riêng được hình thành và phát triển trên cơ sở thực tiễn xã hội cuối thế
kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Đó là thời kỳ có nhiều biến động, với những bước chuyển

biến sâu sắc trên các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Vào thế kỷ XIX, các nước đế quốc trên thế giới đã áp đặt sự thống trị trên khắp
các nước châu lục như: Á, Phi, Mỹ Latinh. Giai cấp công nhân ở các nước đế quốc,
đặc biệt là ở Anh và Pháp đang sôi động trong cuộc đấu tranh chống giai cấp và tư
sản. Để luận chứng cho vai trò, sứ mệnh của giai cấp vô sản trên toàn thế giới,
tuyên ngôn của Đảng Cộng sản do C.Mác và Ph.Ănghen soạn thảo đã ra đời. Đồng
thời, cuối thế kỷ XIX, đất nước ta bị rơi vào cảnh nô lệ lầm than dưới ách thuộc địa
của thực dân Pháp. Nhân dân Việt Nam đã liên tiếp nổi dậy chống lại ách thống trị
của thực dân Pháp dưới ngọn cờ của một số nhà yêu nước tiêu biểu nối tiếp nhau,
song đều lần lượt thất bại. Đám mây đen của chủ nghĩa thực dân vẫn bao phủ bầu
trời Việt Nam. Dân tộc Việt Nam đã bị rơi vào khủng hoảng đường lối cách mạng.
Giữa lúc đó, Hồ Chí Minh- người thanh niên trẻ tuổi yêu nước thương dân sâu
sắc đã quyết chí ra nước ngoài để học hỏi, tìm một giải pháp mới để cứu nước, giải
phóng dân tộc. Lúc này, phương Đông đã thức tỉnh. Chiến tranh thế giới thứ nhất
bùng nổ. Cách mạng tháng Mười Nga thành công, nước Nga xôviết ra đời. Quốc tế
cộng sản được thành lập. Hồ Chí Minh tiếp thu tư tưởng cách mạng của chủ nghĩa
Mác- Lênin; lựa chọn con đường cứu nước, giải phóng dân tộc là con đường cách
mạng vô sản; đứng về phía quốc tế cộng sản. Từ đó, Hồ Chí Minh càng đi sâu vào
các học thuyết cách mạng trên thế giới, xây dựng lý luận về cách mạng thuộc địa,
trước hết là lý luận cách mạng để giải phóng dân tộc Việt Nam, tổ chức và lãnh đạo
4


cách mạng Việt Nam tiến lên giành những thắng lợi vĩ đại vì độc lập của dân tộc, tự
do của toàn dân…
1.1: Nguồn gốc hình thành tư tưởng hồ Chí Minh về giáo dục
a.

Chủ nghĩa Mác-Lênin là nhân tố ảnh hưởng và tác động quyết định đến quá


trình hình thành và phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất tư tưởng
Hồ Chí Minh. Người khẳng định: “chủ nghĩa Lênin đối với chúng ta, những người
cách mạng và nhân dân Việt Nam, không những là cái “cẩm nang” thần kỳ, không
chỉ là những cái kim chỉ nam, mà còn là mặt trời soi sáng con đường chùng ta đi
đến thắng lợi cuối cùng, đi tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản”.
Đó là cơ sở hình thành thế giới quan và phương pháp luận khoa học của Hồ Chí
Minh, nhờ đó mà Nguyễn ái Quốc - Hồ Chí Minh đã có bước phát triển về chất từ
một người yêu nước trở thành một chiến sĩ cộng sản lỗi lạc, tìm ra con đường cứu
nước đúng đắn. Chính trên cơ sở của lý luận Mác-Lênin đã giúp Người tiếp thu và
chuyển hoá những nhân tố tích cực, những giá trị và tinh hoa văn hoá của dân tộc và
của nhân loại để tạo nên tư tưởng của mình phù hợp với xu thế vận động của lịch
sử. Vì vậy, trong quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh thì chủ nghĩa MácLênin có vai trò to lớn, là cơ sở, nguồn gốc chủ yếu nhất.
b. Tư tưởng Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển những giá trị truyền thống tốt
đẹp của dân tộc:
Trải qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước đã hun đúc, tạo lập cho dân
ta một nền văn hoá phong phú, đa dạng và thống nhất bền vững với những giá trị
truyền thống tốt đẹp, cao quý.
Trước hết, đó là chủ nghĩa yêu nước và ý chí kiên cường trong đấu tranh dựng nước
và giữ nước. Chủ nghĩa yêu nước là dòng chủ lưu chảy xuyên suốt trường kỳ lịch sử
Việt Nam, là chuẩn mực cao nhất trong bảng giá trị văn hóa – tinh thần việt Nam.
Mọi học thuyết đạo đức, tôn giáo từ nước ngoài du nhập vào Việt Nam đều được
tiếp nhận khúc xạ qua lăng kính của tư tưởng yêu nước đó.
Thứ hai, là tinh thần nhân nghĩa, truyền thống đoàn kết, tương thân, tương ái.
Truyền thống này cũng hình thành cùng với sự hình thành dân tộc, từ hoàn cảnh và
nhu cầu đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên và với giặc ngoại xâm. Bước sang thế
5


kỷ XX, mặc dù xã hội Việt Nam đã có sự biến đổi sâu sắc về cơ cấu giai cấp – xã

hội, nhưng truyền thống này vẫn bền vững. Hồ Chí Minh đã kế thừa, phát huy sức
mạnh của truyền thống nhân nghĩa, đoàn kết, tương thân tương ái thể hiện tập trung
trong bốn chữ “đồng” (đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh).
Thứ ba, dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống lạc quan, yêu đời. Tinh
thần lạc quan đó có cơ sở từ niềm tin vào sức mạnh của bản thân mình, tin vào sự
tất thắng của chân lý, chính nghĩa. Hồ Chí Minh là hiện thân của truyền thống lạc
quan đó.
Thứ tư, dân tộc Việt Nam là dân tộc cần cù, dũng cảm, thông minh, sáng tạo, ham
học hỏi và mở rộng cửa đón nhận tinh hoa văn hóa của nhân loại. Người việt Nam
từ xưa đã rất xa lạ với đầu óc hẹp hòi, thủ cựu, thói bài ngoại cực đoan. Trên cơ sở
giữ vững bản sắc của dân tộc, nhân dân ta đã biết chọn lọc, tiếp thu, cải biến những
cái hay, cái tốt, cái đẹp của người thành những giá trị riêng của mình. Hồ Chí Minh
là hình ảnh sinh động và trọn vẹn của truyền thống đó.
Đây là tài sản có giá trị nhất trong hành trang của Chủ tịch Hồ Chí Minh, là cơ sở
xuất phát, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, là
động lực giúp Người vượt qua mọi gian nan thử thách, hiểm nguy. Đây là nguồn
gốc, là một cơ sở quan trọng để hình thành nên tư tưởng Hồ Chí Minh.
c. Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại.
Hồ Chí Minh đã tiếp thu có chọn lọc những yếu tố tích cực của văn hoá phương
Đông và văn hóa phương Tây
Về tư tưởng và văn hóa phương Đông, Hồ Chí Minh đã tiếp thu những mặt tích cực
trong Phật giáo, như lòng vị tha, tư tưởng từ bi bác ái, tình yêu thương con người;
triết lý hành đạo giúp đời, tu thân dưỡng tính, truyền thống hiếu học…
Về Nho giáo, triết lý về hành động, nhân nghĩa, ước vọng về một xã hội bình trị,
hòa mục, về một triết lý nhân sinh, tu thân tề gia; đề cao văn hóa trung hiếu “dân vi
quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”
Tư tưởng tự do, bình đẳng, bác ái, dân chủ và phong cách dân chủ, nhân quyền của
văn hoá phương Tây. Không những thế, Người còn nghiên cứu tiếp thu tư tưởng
văn háo dân chủ và cách mạng của cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ. Đặc biết,
6



Người chịu ảnh hưởng sâu sắc về tư tưởng tự do, bình đẳng của tuyên ngôn nhân
quyền và dân quyền năm 1791 của Đại cách mạng Pháp. Về tư tưởng dân chủ của
cách mạng Mỹ, Người đã tiếp thu giá trị về quyền sống, quyền tự do và quyền mưu
cầu hạnh phúc của tuyên ngôn độc lập năm 1776, quyền của nhân dân kiểm soát
chính phủ.
Như vậy, trên con đường hoạt động cách mạng Người đã làm giàu trí tuệ của mình
bằng trí tuệ của thời đại: Đông, Tây, kim, cổ…, vừa thu hái, vừa gạn lọc, suy nghĩ
và lựa chọn, kế thừa, vận dụng, phát triển góp phần làm phong phú, tạo nên tư
tưởng của Người.
d. Những nhân tố chủ quan thuộc về phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh.
Nhân cách, phẩm chất, tài năng của Hồ Chí Minh đã tác đọng rất lớn đến sự hình
thành và phát triển tư tưởng của người. Đó là một con người sống có hoài bão, có lý
tưởng, yêu nước, thương dân, có bản lĩnh kiên định, có lòng tin vào nhân dân,
khiêm tốn, bình dị, ham học hỏi, có phương pháp biện chứng, có đầu óc thực tiễn,…
Chính nhờ vậy, Người đã khám phá sang tạo về lý luận cách mạng thuộc địa thời
đại mới, xây dựng được một hệ thống quan điểm toàn diện.
Trước hết, đó là tư duy độc lập tự chủ, sáng tạo cộng với đầu óc phê phán tinh
tường, sáng suốt trong việc nghiên cứu, tìm hiểu và vận dụng, phát huy tinh hoa văn
hoá nhân loại. Đó là sự khổ công học tập nhằm chiếm lĩnh vốn tri thức phong phú
của thời đại và kinh nghiệm hoạt động thực tiễn qua các phong trào đấu tranh cách
mạng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động quốc tế. Đó là tâm hồn, ý chí
của một nhà yêu nước, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành, một trái tim yêu nước
thương dân, thương yêu con người, sẵn sàng chịu đựng những gian khổ hy sinh vì
độc lập của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân..
Chính những phẩm chất cá nhân hiếm có đó đã quyết định việc Hồ Chí Minh tiếp
nhận, chọn lọc chuyển hoá, phát triển những tinh hoa của dân tộc và của thời đại
thành tư tưởng đặc sắc của Người.
1.2


Quá trình hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục

Tư tương Hồ Chí Minh không phải được hình thành ngay một lúc mà phải trải qua
một quá trình tìm tòi, xác lập, phát triển và hoàn thiện gắn với quá trình hoạt động
cách mạng phong phú của Người, gồm 5 giai đoạn sau:
7


a, Giai đoạn hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cách mạng( từ năm
1890 – 1911)
Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh lớn lên và sống trong nỗi đau của người dân mất nước,
được sự giáo dục của gia đình, quê hương, dân tộc về lòng yêu nước thương dân;
sớm tham gia phong trào đấu tranh chống Pháp; băn khoan trước những thất bại của
các sĩ phu yêu nước; Người quyết định ra đi tìm đường cứu nước để giúp đồng bào
thoát khỏi vòng nô lệ.
Vì vậy HCM đã sớm hình thành tư tưởng yêu nước thương dân, thiết tha bảo vệ
những giá trị của truyền thống dân tộc và được biểu hiện:
- Tham gia phong trào chống thuế ở Huế.
- Dạy học ở trường Dục Thanh Phan Thiết trong phong trào Duy Tân ở Trung kỳ.
- Hình thành tư duy phê phán con đường cứu nước của vị tiền bối Phan Bội Châu,
Phan Châu Trinh... HCM đã sớm nhận ra hạn chế của những người đi trước Người
cho rằng không thể dựa vào người nước ngoài để giải phóng tổ quốc nên Người đã
tự định ra con đường mới: phải tìm hiểu bản chất của những chữ " Tự do, bình
đẳng, bác ái" của những nước đi xâm lược nước khác.
b, Thời kỳ xác định con đường cứu nước giải phóng dân tộc ( 1911- 1920)
Tháng 7/1920 Nguyễn Ái Quốc lần đầu tiên được đọc sơ thảo lần thứ nhất luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin và Người đã tìm thấy con
đường cứu nước đúng đắn bước đầu bước chuyển về mặt tư tưởng Người tin theo
Lênin. Người đã khảo sát tìm hiểu cuộc cách mạng Pháp, cách mạng Mỹ, tham gia

Đảng xã hội Pháp, tìm hiểu Cách mạng tháng Mười Nga, học tập và đã tìm đến với
chủ nghĩa Lênin, tham dự Đại hội Tua, Tán thành quốc tế thứ 3 và Người tham gia
sáng lập Đảng Cộng Sản Pháp (12/1920)và trở thành người cộng sản Việt Nam đầu
tiên.
Như vậy, ở giai đoạn này trong tư tưởng HCM có bước ngoặt quan trọng từ giác
ngộ chủ nghĩa dân tộc tiến lên giác ngộ chủ nghĩa Mác-Lênin, từ chủ nghĩa yêu
nước truyền thống sang chủ nghĩa cộng sản, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai
cấp, từ người yêu nước đến người cộng sản.
c. Thời kỳ hình thành tư tưởng cơ bản về con đường cách mạng Việt Nam
(1921-1930)
8


Là thời kỳ hoạt động lý luận và thực tiễn sôi nổi, phong phú của Nguyễn Ái Quốc
trên những địa bàn khác nhau từ Pháp(1921- 1923), Liên Xô ( 1923- 1924), Trung
Quốc( 1924- 1927), Thái Lan( 1928- 1929)...Trong thời gian này, Người Thành lập
hội liên hiệp thuộc địa, xuất bản báo Người cùng khổ, lập nên hội Việt Nam cách
mạng thanh niên và hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức( tại Quảng Châu trung quốc)
xuất bản báo thanh niên.
Những tác phẩm như Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), năm 1927 Người viết
"Đường Kách Mệnh" xuất bản ở Quảng Châu Trung Quốc.
Những công trình trên phản ánh quan điểm của HCM:
+ Bản chất của Chủ nghĩa thực dân là: "ăn cướp và giết người" vì vậy Chủ nghĩa
thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, giai cấp công nhân, và nhân dân
lao động toàn thế giới.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường cách
mạng vô sản và là một bộ phận của cách mạng thế giới, giải phóng dân tộc phải gắn
liền với giải phóng nhân dân lao động và giải phóng giai cấp công nhân.
+ Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, và cách mạng vô sản ở chính quốc có
mối quan hệ khăng khít với nhau nhưng không phụ thuộc. Người khẳng định: Cách

mạng giải phóng dân tộc thuộc địa có thể bùng nổ và giành thắng lợi trước cách
mạng chính quốc.
+ Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc dân tộc cách mệnh nhắm đánh đuổi
bọn ngoại xâm giành thắng lợi cho dân tộc.
+ Ở một nước nông nghiệp lạc hậu như Việt Nam nông dân là một lực lương đông
đảo nhất trong xã hội bị đế quốc và phong kiến bóc lột nặng nề vì vậy cách mạng
giải phóng dân tộc muốn giành thắng lợi cần lôi cuốn nông dân đi theo và xây dựng
khối liên minh công nông làm động lực cách mạng đồng thời phải thu hút và tập
hợp rộng rãi các giai cấp và tầng lớp xã hội khác vào trận tuyến đấu tranh chung của
dân tộc.
+ Cách mạng muốn thành công trước hết phải có đảng lãnh đạo, Đảng phải theo chủ
nghĩa Mac- Lênin và phải có một đội ngũ cán bộ sẵn sàng chiến đấu vì lý tưởng của
đảng, vì lợi ích và sự tồn vong của dân tộc, vì lý tưởng giải phóng giai cấp công
nhân và nhân loại.
9


+ Cách mạng theo Hồ Chí Minh là sự nghiệp của quần chúng chứ không phải là của
một vài nguời vì vậy cần phải tập hợp, giác ngộ và từng bước tổ chức quần chúng
đấu tranh từ thấp đễn cao.
d, Thời kỳ vượt qua thử thách, kiên trì con đường đã xác định, tiến tới giành
thắng lợi đầu tiên cho cach mạng Việt Nam ( 1930- 1945)
Thắng lợi đầu tiên của cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng giải phong dân
tộc và 2/9/1945 Nguyễn Ái Quốc đã trịnh trọng đọc bản tuyên ngôn độc lập, công
bố trước đồng bào và toàn thế giới về sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa- Nhà nước của dân, do dân và vì dân.
Đầu tiên Nguyễn Ái Quốc đặt tên Đảng là Đảng cộng sản Việt Nam nhưng bị coi
là Chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi và bị thủ tiêu chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt,
điều lệ vắn tắt và chương trình tóm tắt không vì thế mà Người từ bỏ quan điểm của
mình. Hồ Chí Minh khẳng định: “tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng.

Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền
ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và cuối cùng
thực tế đã chứng minh rằng con đường của Nguyễn Ái Quốc là đúng đắn và dẫn tới
thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
e, Thời kỳ tiếp tục, bổ sung, phát triển, hoàn thiện tư tưởng về độc lập dân tộc
Chủ nghĩa xã hội (1945- 1969)
Đây là thời kỳ Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh đạo nhân dân ta vừa
tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân pháp vừa xây dựng chế độ dân chủ nhân
dân mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ.
Nước ta sau năm 1945 ở trong cảnh " ngàn cân treo sợi tóc" trong lúc này tư
tưởng của Người được vận dụng mềm dẻo Chủ nghĩa Mác- Lênin vào tình cảnh của
Việt Nam: hũ gạo cứu đói, tuần lễ vàng… Dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng trong
giai đoạn ấy nước ta vẫn tiến hành đồng thời hai chiến lược, đó là cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc ở Miền Nam và cách mạng xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Miền
Bắc. Đến 19/12/1946 Hồ CHí Minh ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến nhằm giải
phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
- Đảng cộng sản Việt Nam tuyên bố giải tán và rút vào hoạt động bí mật. Năm 1951
mới ra hoạt động công khai.
10


- Hồ Chí Minh bổ sung quan điểm về đảng cầm quyền.
- Hồ Chí Minh có tư tưởng xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân. Tư tưởng
chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện, trường kỳ kháng chiến, dựa vào sức mình
là chính.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trải qua hơn nửa thế kỷ hình thành và phát
triển. Suốt đời Hồ Chí Minh đã lựa chọn và nhất quán đi theo con đường đã chọn.
Dưới ngọn cờ tư tưởng ấy, cách mạng nước ta đã giành hết thắng lợi này đến thắng
lợi khác, mang tầm vóc thời đại. Cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân
tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là để xây dựng thành công chủ

nghĩa xã hội và ngược lại. Xây dựng chủ nghĩa xã hội thực chất là giải phóng giai
cấp, giải phóng xã hội, con người. Đó cũng chính là sản phẩm tất yếu của cách
mạng Việt Nam trong thời đại mới, là ngọn cờ thắng lợi của dân tộc Việt Nam trong
cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do, vì giải phóng dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Chương II. Phương pháp giáo dục trong tư tưởng Hồ Chí Minh
Thực tiễn hiện nay, nền giáo dục Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng
ghi nhận như: Việt Nam đã xây dựng được một hệ thống giáo dục đầy đủ các cấp
học ở mọi vùng miền, giáo dục đại học cao đẳng cũng ngày càng được mở rộng về
quy mô đào tạo, cơ sở vật chất ngày càng được nâng cấp, chương trình đào tạo dần
dần được đổi mới. Bên cạnh những thành tựu to lớn, giáo dục nước ta vẫn đang tồn
tại nhiều vấn đề đáng quan tâm: nền giáo dục nước ta chưa dựa trên nền tảng lý luận
vững chắc, chưa quán triệt thực hiện tốt các phương pháp giáo dục theo tư tưởng
của Người. Hồ Chí Minh đã cho chúng ta thấy được vai trò quan trọng của phương
pháp giáo dục. Người lấy nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn làm
nguyên tắc cơ bản cho việc xây dựng các phương pháp về giáo dục. Nó được coi
như là “kim chỉ nam” để lồng dẫn nhận thức, hành động và bồi dưỡng tinh thần yêu
nước cho tất cả mọi người. Người nhấn mạnh” học phải suy nghĩ, học phải liên hệ
với thực tế, phải có thí nghiệm và thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau”.
Xuất phát từ truyền thống giáo dục và sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa MácLênin về giáo dục vào Việt Nam. Theo Hồ Chí Minh,cần có phương pháp giáo dục
phù hợp với điều kiện giáo dục và đối tượng giáo dục. Giáo dục phải căn cứ vào
11


"trình độ văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu,
lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng". Cần có phương pháp tổ
chức giáo dục sao cho bảo đảm được sự phù hợp giữa điều kiện, hoàn cảnh giáo dục
với đối tượng giáo dục. Vì vậy Hồ Chí Minh đã đưa ra hệ thống các phương pháp
giáo dục nhằm đạt hiệu quả cao. Trong phương pháp giáo dục cũng có rất nhiều nội
dung phong phú, tuy nhiên có thể khái quát thành một số nội dung cơ bản sau:
1, phương pháp giáo dục học đi đôi với hành.

Mục đích của việc học là để hành, để tồn tại và phát triển. Phương pháp kết hợp
chặt chẽ giữa học với hành góp phần quan trọng đến sự chuyển hướng từ nền giáo
dục thực dân phong kiến sang nền giáo dục mới xã hội chủ nghĩa. Trong xã hội
phong kiến, ‘học một đường, hành một nẻo. Nay phải sử chương trình làm sao để
học thì hành được ngay”. “Hành” có nhiều nghĩa: Từ lời nói, hành vi ứng xử, đến
lao động, cao hơn là xác định phương hướng, đường

lối… cho cuộc sống. Với

phương pháp này người học có thể học trong mọi điều kiện, hoàn cảnh khác nhau.
Chính vì vậy mà Tiếng Việt có thành ngữ “học hành” – tức gắn học với hành.
Học và hành là hai khâu của quá trình nhận thức, thể hiện sự thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn. Một trong những nguyên lý của triết học Mác xít. Cả hai khâu này
bổ sung cho nhau, bản thân nó cũng là một phương pháp học: học để hành cũng là
để học.
Là một nhà giáo dục, Hồ Chí Minh nhìn thấy ý nghĩa to lớn của việc kết hợp học
với hành, nó không chỉ là sự củng cố mà còn mở ra những triển vọng mới trong việc
nhận thức thực tiễn, cải tạo thực tiễn, hình thành nhân cách con người mới. Ngay từ
năm 1947, trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Người đã nói: “Một người học
xong đại học có thể gọi là có tri thức… Song công việc thực tế y không biết gì cả.
Thế là y chỉ có tri thức một nửa. Tri thức của y là tri thức học sách, chưa phải tri
thức hoàn toàn; Y muốn thành người tri thức hoàn toàn phải đem tri thức đó áp
dụng vào thực tế”.
Người thường xuyên nhắc nhở: “học để hành, học với hành phải đi đôi với nhau.
Học mà không hành thì học vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy”
và “học để hành ngày càng tốt hơn”. Người khuyên học sinh không nên học gạo,
học vẹt. Ngày 21/10/1964, nói chuyện với cán bộ giảng dạy và sinh viên trường Đại
12



học sư phạm Hà Nội, Bác nói: “Các cháu học sinh không nên học gạo, không nên
học vẹt… học phải suy nghĩ, học phải liên hệ với thực tế, phải có thí nghiệm và
thực hành. Học với hành phải kết hợp với nhau”. Học đi đôi với hành là một nguyên
tắc vàng ngọc của phép sư phạm. Thực hiện nguyên tắc này thì cùng một lúc sẽ
hình thành cả tri thức lẫn kỹ năng. Và như vậy, hành sẽ trở thành một hình thức
chính của học, quá trình học sẽ diễn ra trong quá trình hành.
2., phương pháp giáo dục lý luận gắn liền với thực tiễn.
Về nội hàm của khái niệm lý luận và thực tiễn, Hồ Chí Minh khẳng đinh: “lý
luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về
tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử” và thực tiễn là sự tồn tại khách
quan của thế giới vật chất, của hoạt động con người, thậm chí là cả sự vận dụng lý
luận.
Một trong những phương pháp luận có tính nguyên tắc trong tư tưởng giáo dục
Hồ Chí Minh, đó là nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Đây cũng chính
là một trong những yếu tố góp phần làm cho tư tưởng của Người có sức sống
trương tồn và sức mạnh cải tạo vĩ đại. Nhưng đặc biệt hơn, nguyên tắc có ý nghĩa
phương pháp luận đó trở thành triết lý sống hết sức bình dị và vô cúng sâu sắc của
Người. Đó là, Người nói: “Thống nhất giữ lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc
căn bản của chủ nghĩa Mác – Lê nin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thực
hành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”.
Người chỉ rõ, nếu kém lý luận, coi khinh lý luận hoặc lý luận suông, không liên hệ
với thực tiễn sẽ dẫn đến căn bệnh chủ quan duy ý chí, “Lý luận như cái kim chỉ
nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận
thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”. Học là để vận dụng vào thực tiễn, học để hành.
Nếu học mà không hành, không áp dụng vào thực tế “thì khác nào một cái hòm
đựng sách, xem sách nhiều để mà lòe, để làm ra vẻ ta đây”. Người ví, “lý luận cũng
như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không
bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên”. Với Hồ Chí Minh, sự thống nhất
giữa lý luận và thực tiễn không chỉ là một nguyên lý, một quy luật nhận thức mà
còn là quy luật hình thành nhân cách con người.

3. phương pháp giáo dục học tập kết hợp với lao động sản xuất.
13


Phương pháp giáo dục trong tư tương Hồ chí Minh không chỉ có sự găn kết giữa
lý luận và thực tiễn mà còn là phương pháp học phải gắn liền với sản xuất. Phương
pháp này là hạt nhân của toàn bộ nguyên lý giáo dục mácxít, là phương pháp quan
trọng nhất để hình thành con người toàn diện.
Nhà trường của chế độ cũ chỉ đào tạo ra những con người mọt sách, coi khinh lao
động, tách rời lao động trí óc với lao động chân tay. Tuy nhiên, nền giáo dục xã hội
chủ nghĩa nhằm đào tạo ra những người giỏi về văn hóa, khoa học, trình độ chuyên
môn,tay nghề,…Nhưng những tri thức đó không phải là tri thức suông, giáo điều
trong sách vở. Vì thế, sự kết hợp giữa lao động sản xuất với học tập không chỉ trang
bị cho người học những kiến thức cơ bản mà còn đào tạo cho họ trở thành những
con người phải vừa lao động trí óc, vừa lao động chân tay. Hồ Chí Minh dạy: “Lao
động chân tay cũng phải có văn hóa, mà người lao động trí óc cũng phải làm được
lao động chân tay. Nếu lao động trí óc không làm được lao động chân tay và lao
động chân tay không có trí óc thì đó là người bán thân bất toại”. Cho nên cần phải
tăng cường mạnh mẽ hơn nữa giáo dục lao động trong nhà trường. Bởi vì, “sản xuất
là nền tảng của thực hành, sản xuất còn là nguồn gốc của sự phát triển xã hội loài
người”.
Trong chế độ xã hội chủ nghĩa, lao động vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ, vừa
là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mỗi người. Cho nên ngay từ khi còn ngồi trên
ghế nhà trường, học sinh phải “học tập kết hợp với lao động”. Thông qua kết hợp
học tập với lao động, nhà trường xã hội chủ nghĩa giáo dục thái độ đối với lao động
như: tôn trọng người lao động, yêu lao động, cần cù lao động, kỷ luật lao động và
cả động cơ lao động vì mình, vì xã hội cho học sinh. Tuy nhiên, kết hợp với lao
động là phải kết hợp một cách đúng mức phù hợp với đối tượng, lứa tuổi và chương
trình đào tạo.
4. phương pháp giáo dục nhà trường kết hợp với giáo dục gia đình và giáo

dục xã hội.
Đây là một định hướng lớn trong phương pháp giáo dục. Bởi Người quan niệm,
giáo dục đào tạo là “công việc chung của gia đình, nhà trường và xã hội”. Ngay từ
rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chủ trương gắn nhà trường với xã hội. Nhân ngày
khai trường đầu tiên của nước Việt Nam mới, Người khuyên học sinh: “Ngoài giờ
14


học ở trường tham gia vào các hội cứu quốc để tập luyện thêm cho quen với đời
sống chiến sĩ và để giúp đỡ một vài việc nhẹ nhàng trong cuộc phòng thủ đất nước”.
Đặc biệt, đối với giáo dục thanh niên, Bác cũng huấn thị: “Giáo dục thanh niên
không thể tách rời mà phải liên hệ chặt chẽ với những cuộc đấu tranh của xã hội…
phải liên hệ vào dư luận xã hội”. Trong hoạt động giáo dục, giáo dục trong nhà
trường giữ vai trò quan trọng đặc biệt, song theo Hồ Chí Minh “giáo dục trong nhà
trường chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để
giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù
tốt mấy, nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không
hoàn toàn”. Bởi vì, ở môi trường xã hội, đời sống gia đình là một trong những nhân
tố cơ bản quyết định đến việc hình thành bản chất, nhân cách con người.
Trong thư gửi Đại hội giáo dục toàn quốc tháng 7-1951, Chủ tịch Hồ Chí Minh
viết: “ Đại hội nên chú ý làm thế nào cho việc giáo dục lien kết với đời sống nhân
dân, với công cuộc kháng chiến và kiến quốc của dân tộc. Làm thế nào để phối hợp
việc giáo dục của trường học với việc tuyên truyền và giáo dục chính trị chung của
nhân dân”Đối với mỗi người, Người quy thành trách nhiệm trong việc hỗ trợ giáo
dục, Người nói: Mỗi chúng ta đều phải nhận trách nhiệm góp phần vào việc giáo
dục. Do đó cần phải liên hệ chặt chẽ việc giáo dục giữa nhà trường với gia đình và
xã hội, giữa nhà trường với các đoàn thể, trước hết là đoàn thể thanh niên.
5. phương pháp giáo dục kế hoạch giáo dục phải gắn liền với kế hoạch kinh tế,
Đây là nguyên tắc để xây dựng và phát triển ngành giáo dục. Giáo dục và kinh tế
tạo cơ sở hạ tầng của chủ nghĩa xã hội song bản thân giáo dục chỉ có hiệu quả khi

nó gắn liền với kinh tế, với các chương trình kinh tế của Đảng và Nhà nước.
Ngay sau khi miền Bắc được giải phóng hoàn toàn, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Kinh
tế có kế hoạch, giáo dục cũng phải có kế hoạch. Kế hoạch giáo dục phải gắn liền
với kế hoạch kinh tế, giáo dục phải cung cấp cán bộ cho kinh tế. Kinh tế tiến bộ thì
giáo dục mới tiến bộ được. Nếu kinh tế không phát triển thì giáo dục cũng không
phát triển được. Giáo dục không phát triển thì không đủ cán bộ giúp cho kinh tế
phát triển. Hai việc đó liên quan mật thiết với nhau. Giáo dục có khó khăn, giáo dục
phải khắc phục. Kinh tế có khó khăn thì kinh tế phải khắc phục. Chúng ta đồng tâm
15


hiệp lực khắc phục khó khăn thì kinh tế cũng thành công, giáo dục cũng thành
công”.
Đánh giá vai trò tích cực của giáo dục với kinh tế, Người chỉ rõ: “Không có giáo
dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế”. Song Người cũng dè
chừng, tâm lý nóng vội muốn đẩy nhanh sự phát triển của giáo dục quá với hoàn
cảnh và điều kiện thực tế: “Kháng chiến phải mấy năm, vội không được. Giáo dục
cũng phải theo hoàn cảnh, điều kiện. Phải ra sức làm nhưng làm vội không được.
Từ đây ra cửa thì thứ nhất là bước thứ nhất, thứ hai mới đến bước thứ hai, rồi thứ ba
mới là bước thứ ba, vội thì ngã. Làm phải có kế hoạch, có từng bước”. Gắn giáo dục
với kinh tế với đời sống của nhân dân là một nguyên tắc bất di bất dịch trong tư
tưởng giáo dục Hồ Chí Minh. Ngay trong Di chúc, Người cũng căn dặn: Cần sửa
đổi giáo dục cho phù hợp với hoàn cảnh mới của nhân dân, phù hợp với hoàn cảnh
kinh tế của đất nước.
6. phương pháp giáo dục gắn giáo dục với tự giáo dục.
Vai trò và tác dụng của vấn đè tự giáo dục đối với sự hình thành, phát triển nhân
cách của con người có tầm quan trọng đặc biệt. Tự giáo dục là khả năng trong sự
phát triển của mỗi cá nhân và ý thức bản thân, về tự điều chỉnh là nhưng tiền đề
quan trọng đầu tiên, dẫn tới tự giáo dục ở mỗi con người
Trong tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh, Người để lại những chỉ dẫn rất quý báu

về vấn đề tự học, tự đào tạo. Năm 1947, trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Hồ
Chí Minh chỉ rõ: “Lấy tự học làm cốt, do thảo luận và chỉ đạo giúp vào”. Để làm
được như vậy phải “Sắp xếp thời gian và bài học… phải cho khéo, phải có mạch lạc
với nhau mà không xung đột với nhau”.
Sau này, khi nói về Công tác huấn luyện và học tập (1950), Hồ Chí Minh lại nhấn
mạnh “Phải nâng cao và hướng dẫn việc tự học”.Tự học chính là sự nỗ lực của
chính bản thân người học song phải học có kế hoạch, có môi trường, có sự quản lý
chỉ đạo về nội dung. Trong điều kiện như vậy quá trình học tập sẽ là một quá trình
tự học.
Cuộc đời Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương lớn về quá trình tự học – tự đào
tạo. Người đến với chủ nghĩa cộng sản bằng một quá trình tự học. Tới dự đại hội
VII Quốc tế cộng sản (1935) với bí danh là Lin, khi khai lý lịch trả lời câu hỏi:
16


Trình độ học vấn (tiểu học, trung học, đại học), Người ghi: Anh, Pháp, Trung Quốc,
Ý, Đức, Nga. Năm 1959, nói chuyện với sinh viên đại học tại Băng Đung
(Inđônêxia) về tự học, Người kể: “Tôi sẽ nói vài lời với các bạn. Khi còn trẻ tôi
không có dịp đến trường học. Tôi đã đi du lịch và để làm việc đó là trường đại học
của tôi. Trường học ấy đã dạy cho tôi khoa học xã hội… khoa học quân sự… lịch
sử… chính trị…”.
Hồ Chí Minh luôn luôn nhắc nhở mọi người là phải thường xuyên tự học tập “học
hỏi là một việc phải tiếp tục suốt đời. Suốt đời phải gắn công tác lý luận với thực
tiễn. Không ai có thể tự cho mình đã biết đủ rồi, đã biết hết rồi. Thế giới ngày càng
đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta tiếp tục học và hành để
tiến bộ kịp nhân dân”.
Ngày nay trong công cuộc đổi mới, các quan điểm của Hồ Chí Minh về giáo dục
nói chung, phương châm phương pháp giáo dục nói riêng vẫn giữ nguyên giá trị, là
“khuôn vàng, thước ngọc”, là kim chỉ nam cho nền giáo dục Việt Nam trên con
đường đổi mới sự nghiệp giáo dục của Đảng và Nhà nước ta hiện nay.

7. phương pháp giáo dục nêu gương
Với phương pháp giáo dục kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Bác rất
quan tâm chú ý đến việc làm nêu gương của mọi người. Người quan niệm nêu
gương là phương pháp giáo dục cơ bản vừa mang tình khoa học và vừa mang tính
thực tiễn. Làm gương là một trong những cách thức giáo dục mang lại hiệu quả cao
bởi tính thiết thực, sinh động và cụ thể. Hồ Chí Minh cho rằng: “Lấy gương người
tốt, việc tốt để hàng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây
dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống
mới”. Hồ Chí Minh luôn quan tâm, khơi dậy và chăm chút những phần tốt, mặt tốt
ở mỗi thanh niên. Đồng thời, Người còn nhắc nhở thanh niên luôn luôn trân trọng,
lắng nghe, tìm hiểu, suy ngẫm các gương tốt, ý hay của nhân dân. Người nói; “Dân
rất thong minh. Quần chúng kinh nghiệm, sang kiến rất nhiều. Chỉ cần mình có biết
học hay biết lợi dụng mà thôi”. Để giáo dục thanh niên trở thành những con người
có ích cho xã hội, Hồ Chí Minh còn đòi hỏi người lớn tuổi phải là tấm gương và có
trách nhiệm dìu dắt, giúp đỡ thanh niên: “Các đồng chí già là rất quý, là gương bền
bỉ đấu tranh, bồi dưỡng, đào tạo them các đồng chí trẻ. Đồng chí già phải giúp đỡ
đồng chí trẻ tiến bộ”. Tư tưởng này được thể hiện xuyên suốt trong thời kỳ đấu
tranh và giai đoạn xây dựng đất nước.
Nêu gương trước hết là một yêu cầu đối với cán bộ, đảng viên và những người
đứng đầu các cơ quan Đảng, Nhà nước, các tổ chức đoàn thể xã hội. Chủ tịch Hồ
Chí Minh cho rằng, việc nêu gương đạo đức của cán bộ, đảng viên có tác dụng giáo
17


dục quần chúng rất cao. Người thường xuyên nhắc nhở và yêu cầu mỗi cán bộ, đảng
viên “Tự mình phải chính trước, mới giúp được người khác chính”. Ngược lại, sự
thiếu rèn luyện, tu dưỡng, đặc biệt là sự thoái hóa, biến chất đạo đức của một bộ
phận cán bộ, đảng viên sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hành vi đạo đức, lối sống ý thức kỷ
luật, pháp luật của quần chúng. Người chỉ rõ, người Việt Nam cũng như các dân tộc
phương Đông khác vốn rất “giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống còn

có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Đồng thời, phải khắc phục mọi
biểu hiện của tư tưởng tự mãn, chủ quan, dừng lại, hoặc chỉ dựa vào những truyền
thống đã có để khuếch trương chủ thành tích.
Trong giáo dục, phương pháp làm gương đòi hỏi các nhà giáo phải có đạo đức,
trình độ khoa học phải phù hợp, phải yêu nghề, yêu trò như con,… tất cả những
phẩm chất đó trở thành cơ sở, động lực cho việc tiếp thu của người học. cho nên
nhà giáo phải ra sức học tập, nghiên cứu, tìm tòi, phấn đấu vươn lên không ngừng,
đó chính là tấm gương cho người học. Với ý nghĩa đó, làm gương không chỉ là
phương pháp giáo dục mà còn thể hiện nhiệm vụ, trách nhiệm của một nhà giáo đối
với học trò.
8. phương pháp giáo dục phê bình và tự phê bình
Tự phê bình và phê bình là vũ khí sắc bén, là động lực bên trong giúp cho mỗi
chúng ta phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, không ngừng vươn lên hoàn
thiện về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống. Trong di chúc để lại cho Đảng, cho
nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: "Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi
đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần,
kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảmg ta thật trong sạch, phải xứng
đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Vậy làm
thế nào để Đảng ta có được điều đó? Bác đã chỉ ra : "Trong Đảng thực hành dân
chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình". Ở Hồ Chí
Minh, tự phê bình và phê bình đã trở thành một nguyên tắc không thể thiếu trong
phong cách lãnh đạo của Người. Dù ở cương vị lãnh đạo cao nhất, Người vẫn thực
hành tự phê bình và phê bình một cách nghiêm túc, nêu tấm gương sáng về đức tính
trung thực, thẳng thắn, về thái độ và phương pháp phê bình cho cán bộ, đảng viên
noi theo.
18


Trong tình hình mới, khi lợi ích cá nhân ngày càng được tôn trọng và bảo đảm, nhất
là khi đảng viên được phép làm kinh tế tư nhân, và quyền lợi vật chất luôn gắn liền

với trách nhiệm, nghĩa vụ của cán bộ, công chức nói chung, thì công tác tự phê bình
và phê bình càng phải được quán triệt và thực hiện nghiêm túc. Bởi vì, do lợi ích và
uy tín cá nhân mà không ít cán bộ, đảng viên rất có thể dấu giếm khuyết điểm của
mình. Đồng thời, khi phê bình, góp ý về những khuyết điểm của đồng chí, đồng
nghiệp mình thì lại có thể xuê xoa, “hòa cả làng”, vì sợ họ cũng sẽ động chạm đến
lợi ích và uy tín chính trị của mình. Điều đó rất có nguy cơ dẫn đến chủ nghĩa cơ
hội, chủ nghĩa “bè phái” trong các tổ chức đảng và do vậy, làm giảm sút sức chiến
đấu của Đảng. Vì vậy, đòi hỏi mỗi chúng ta dù ở bất kỳ vị trí công tác nào cũng
phải nêu cao tính chiến đấu tự phê bình và phê bình, mỗi người cần tự giác, thẳng
thắn, có tâm trong sáng, tấm long bao dung và tình đồng chí đồng nghiệp yêu
thương nhau.
Trong sinh hoạt tự phê bình và phê bình, mỗi thành viên của tổ chức cần phải giữ
đúng thái độ trung thực, mực thước, luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc, của tập
thể lên trên lợi ích cá nhân. Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: Muốn làm cho người ta
bắt chước thì tự mình phải “chính” trước đã; phải khắc phục triệt để các căn bệnh
hình thức, thành tích, địa phương chủ nghĩa, cục bộ, bè phái... Phải hết sức tránh
những biểu hiện dễ mắc phải trong sinh hoạt là, khi tiến hành tự phê bình và phê
bình thì “không nói trước mặt”, nhanh chóng “nhất trí theo chủ tọa”, nhưng lại luôn
“hục hặc sau lưng”, dẫn đến nội bộ xảy ra tình trạng “bằng mặt không bằng lòng”,
hiềm khích, nghi kỵ nhau, ngày càng trở nên mất đoàn kết.
Trong phê bình còn thiếu dân chủ, cấp dưới không dám thẳng thắn phê bình cấp
trên. Cấp trên có nơi không lắng nghe ý kiến phê bình của quần chúng. thậm chí còn
trù úm, trả thù, coi đó là luận điệu của kẻ xấu. Trong nhân dân và cán bộ có câu
nói :"Đấu tranh rồi tránh đâu”. Những điều đó làm cho việc phê bình và tự phê bình
không được đến nơi đến chốn, có khi biến thành một việc hình thức.
Trong bản Di chúc của mình, Bác căn dặn :"Trong Đảng thực hành dân chủ rộng
rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng
cố và phát triển sự đoàn kết thống nhất của Đảng, phải có tình đồng chí thương yêu
lẫn nhau". Bác căn dặn chúng ta :"Đạo đức cách mạng không phải trên trời rơi
19



xuống, nó do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố cũng
như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong".
“Làm theo” trong thực hiện nêu gương khi tiến hành tự phê bình và phê bình cũng
phải có phương pháp để bảo đảm tính khách quan, khoa học, phù hợp và hiệu quả.
Theo tư tưởng Hồ Chí Minh, phương pháp đó là: Tự phê bình và phê bình phải từ
trên xuống; các cấp ủy, cấp lãnh đạo, quản lý phải thường xuyên nêu gương tự phê
bình và phê bình cho cấp dưới và quần chúng noi theo; phải trân trọng lắng nghe và
tiếp thu những ý kiến đóng góp của cấp dưới, kể cả những ý kiến trái ngược nhau, ý
kiến của những người ngoài Đảng, của các tổ chức chính trị - xã hội và quần chúng
nhân dân.
Tự phê bình và phê bình là biện pháp quan trọng nâng cao trí tuệ, phát hiện và giải
quyết những mâu thuẫn trong Đảng và nhân dân, là quy luật sinh tồn và phát triển
trong mỗi chúng ta. Tự phê bình và phê bình đòi hỏi phải có tính cương trực và tính
nguyên tắc cao, phải đảm bảo tăng cường sự đoàn kết thống nhất giữa con người
với con người, tăng cường được mối quan hệ chặt chẽ giữa đảng và quần chúng.
Chủ tich Hồ Chí Minh đã tiếp thu, nghiên cứu, vận dụng và bổ sung sáng tạo quan
điểm của Mác, Ăngghen, Lênin về vấn đề tự phê bình và phê bình một cách hết sức
cụ thể và độc đáo. Chính vì vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh được vận dụng sâu sắc vào
lãnh đạo cách mạng nước ta đi đến thành công, xứng đáng và làm tròn vai trò lãnh
tụ chính trị của giai cấp và của dân tộc.

20


C: KẾT LUẬN
Suốt mấy chục năm qua, tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào
tạo nói chung và phương pháp giáo dục nói riêng luôn soi sáng sự nghiệp
trồng người ở nước ta. Nhận thức sâu sắc về vai trò của giáo dục, Hồ Chí Minh

đã gắn bó cả cuộc đời mình với việc chăm lo, mở mang và xây dựng một nền giáo
dục mới, nền giáo dục xã hội chủ nghĩa - một nền giáo dục mà mọi người đều có cơ
hội phát huy khả năng sáng tạo, mọi người đều được học hành, không phân biệt giai
cấp, tuổi tác, trình độ, giới tính... . Hơn 50 năm qua, tư tưởng Hồ Chí Minh về
phương châm, chiến lược, mục đích, nội dung, phương pháp giáo dục - đào tạo con
người luôn soi sáng sự nghiệp trồng người ở Việt NamTư tưởng của chủ tịch Hồ
Chí Minh không chỉ là cơ sở lý luận cho việc xác định chiến lược đào tạo
con người, chủ trương, đường lối chỉ đạo phát triển nền giáo dục Việt Nam
của Đảng ta qua các thời kỳ cách mạng, mà còn là những bài học, những kinh
nghiệm thực tiễn về giáo dục hết sức quý báu, sinh động, thiết thực và hiệu quả
đối với người làm công tác giáo dục nói riêng, ngành giáo dục nói chung
trong thời kỳ hiện nay

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995.
2. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 9, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995.
3. Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội 1995
4. Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt
Nam, NXB chính trị quốc gia, HN,2001.
5. đảng cộng sản việt nam (1997), nghị quyết hội nghị lần thứ hai, ban chấp
hành trung ương Đảng khóa VIII, nxb chính trị quốc gia, hà nội.
6 . đ ả n g cộ n g s ả n vi ệ t n a m ( 1 9 9 6 ) , vă n ki ệ n đ ạ i hộ i đ ạ i b i ể u
t o à n q u ố c l ầ n thứ VIII, nxb. chính trị quốc gia, hà nội.
7 . đ ả n g cộ n g s ả n vi ệ t n a m ( 2 0 0 6 ) , vă n ki ệ n đ ạ i hộ i đ ạ i b i ể u
t o à n q u ố c l ầ n thứ X, NXB chính trị quốc gia, hà nội


22


MỤC LỤC

23



×