Tải bản đầy đủ (.docx) (92 trang)

Mối quan hệ giữa mực nước biển theo từng năm tại các trạm nghiệm triều

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (750.57 KB, 92 trang )

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH VẼ

1


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CIAT- International Center for Tropical
Agriculture
CIESIN - Center for International Earth
Science Information Network
CYM
IFPRI - The International Food Policy
Research Institute
IPCC - Intergovernmental Panel on
Climate Change
MR
MSL
NASA - National Aeronautics and
Space Administration
NOAA - National Oceanic and
Atmospheric Administration
UNDP - United Nations Development
Programme
UNU-IHDP

Trung tâm Quốc tế về Nông nghiệp Nhiệt


đới.
Trung tâm quốc tế Mạng thông tin về
Khoa học Trái đất
giản đồ triều kí (máy Stevens)
Viện Nghiên cứu Chính sách Lương thực
Quốc tế
Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu
Dao động dư
Mực nước biển trung bình
Cơ quan Hàng không và Không gian
Quốc gia Hoa Kì
Cơ quan Quản lý Hải dương và Khí quyển
quốc gia
Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc
Chương
trình
nhân
Internation
Ngân hàng Thế giới

WBGDP

DANH MỤC BẢNG

2

Dimensions


DANH MỤC HÌNH


3


LỜI NÓI ĐẦU
Việt Nam có 3.260 km bờ biển với 28/64 tỉnh, thành phố có biển. Kinh tế biển
đã trở thành một yếu tố quan trọng không thể thiếu trong chiến lược kinh tế đất
nước. Biến đổi khí hậu sẽ tác động mạnh mẽ đến đời sống con người, song đối với
một nước có đường bờ biển dài và hai đồng bằng châu thổ lớn thì mối đe doạ do
biến đổi khí hậu và nước biển dâng cao sẽ thực sự nghiêm trọng. Các vùng ven biển
Việt Nam sẽ phải chịu ảnh hưởng nhiều nhất do biến đổi khí hậu gây ra như bão, lũ
lụt, xói lở bờ biển và xâm nhập mặn…Đó cũng là nguyên nhân làm chậm tốc độ
tăng trưởng kinh tế của khu vực, tăng tỷ lệ nghèo khổ và làm giảm khả năng ứng
phó đối với các thiên tai do biến đổi khí hậu gây ra.
Trong những năm gần đây, khái niệm về nước biển dâng và biến đổi khí hậu
không còn xa lạ ở Việt Nam. Theo Công ước Khung của Liên hợp Quốc về Biến
đổi Khí hậu (United Nations Framework Convention on Climate Change) định
nghĩa “biến đổi khí hậu là sự thay đổi của khí hậu mà hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp
do tác động của hoạt động con người dẫn đến thay đổi thành phần khí quyển toàn
cầu và ngoài ra là những biến thiên tự nhiên của khí hậu được quan sát trên một chu
kỳ thời gian dài".
Trong khuôn khổ đề tài này, ta tập trung nghiên cứu dao động của mực nước
biển tại 18 trạm nghiệm triều trên lãnh thổ Việt Nam theo số liệu quan trắc nhiều
năm (từ 01/1994 đến 06 /2014). Để hiểu rõ hơn về tình trạng thủy triều trong nước,
nguyên nhân gây ra thủy triều và cách xác định mực nước biển…
Kết cấu đồ án gồm 3 chương:
- Chương I: Thủy triều.
- Chương II: Quan trắc mực nước biển.
- chương III: Mối quan hệ giữa mực nước biển theo từng năm tại các trạm
nghiệm triều.

Trong suốt thời gian từ khi bắt đầu học tập ở giảng đường đại học đến nay, em
đã nhận được rất nhiều sự quan tâm, giúp đỡ của quý Thầy Cô, gia đình và bạn bè.
Với lòng biết ơn sâu sắc nhất, em xin gửi đến quý Thầy Cô ở Khoa Trắc địa bản đồ
– Trường Đại Học Tài nguyên và môi trường Hà Nội đã cùng với tri thức và tâm
huyết của mình để truyền đạt vốn kiến thức quý báu cho chúng em trong suốt thời
4


gian học tập tại trường.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới PGS. TS Vy Quốc Hải đã tận tình chỉ
bảo và giúp đỡ em trong quá trình thực hiện đồ án này.
Do kiến thức còn hạn hẹp nên không tránh khỏi những thiếu sót trong cách
hiểu, cách trình bày. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý thầy cô.
Em xin chân thành cảm ơn!
CHƯƠNG 1.THỦY TRIỀU
1.1. Mực nước biển trung bình và nguyên nhân gây ra dao động của mực nước
biển
1.1.1. Khái niệm mực nước biển trung bình
- Mực nước biển: Vị trí mực nước tự do của mặt Đại dương thế giới ở vị trí đã
cho, tại thời điểm nào đó, tức là độ sâu thực tế của biển tại vị trí cụ thể, tại thời
điểm xác định.
Lực chính tác dụng lên các phần tử nước của đại dương và biển là trọng lực,
nó luôn đưa các phần tử trở lại vị trí cân bằng.
- Mực nước trung bình của biển: Là giá trị nhận được sau khi lấy trung bình
các giá trị quan trắc mực nước trong một khoảng thời gian dài nhất định.
Thời gian quan trắc để xác định mực nước trung bình nhiều năm, phụ thuộc
vào những đặc điểm của chế độ mực nước của biển nghiên cứu và phụ thuộc vào
các đòi hỏi thực tiễn.
Tùy theo khoảng thời gian quan trắc, người ta phân biệt mực nước : trung bình
ngày, trung bình tháng, trung bình năm, trung bình nhiều năm.

1.1.2. Cơ sở khoa học và những ảnh hưởng của sự thay đổi mực nước biển
Do những hoạt động khác nhau của con người, nồng độ CO 2 và các khí nhà
kính khác tích luỹ trong khí quyển của Trái đất và gây ra nóng lên toàn cầu. Mực
nước biển dâng cao là một trong những tác động có quy mô lớn nhất do hậu quả của
nóng lên toàn cầu. Các yếu tố góp phần khiến mực nước biển dâng cao trong thế kỷ
20-21 là:
- Sự dãn nở nhiệt do lớp bề mặt đại dương nóng lên.

5


- Sự bổ sung nước cho các đại dương do các vùng có băng tuyết tan chảy, như
ở Hymalaya, Alaska,… và các mũ băng ở vùng cực, như Nam Cực và Greenland.
- Sự trao đổi nước với các nguồn trên lục địa như nước ngầm, các tầng ngậm
nước, các đập nước, hồ chứa…

Hình 1.1. Cơ sở khung đánh giá Tính tổn thương và tác động của sự dâng cao
nước biển đối với vùng ven biển
Cả hai hệ thống này đều được đặc trưng bởi các mức ảnh hưởng (tiếp xúc),
tính nhạy cảm và khả năng thích ứng trước mực nước biển dâng cao và các thay đổi
khác liên quan đến khí hậu và các áp lực không liên quan đến khí hậu.Tính nhạy
cảm và khả năng thích ứng kết hợp với mức độ tiếp xúc sẽ xác định tính dễ tổn
thương của mỗi hệ thống.
Mức tiếp xúc được xác định là tính chất và mức độ, mà một hệ thống khi tiếp
xúc với các thay đổi về khí hậu như nước biển dâng.
6


Tính nhạy cảm, là mức độ mà một hệ thống khi bị ảnh hưởng, hoặc bị ảnh
hưởng nghiêm trọng hoặc hưởng lại từ sự thay đổi khí hậu.

Khả năng tự thích ứng,biểu hiện là các phản ứng tự nhiên thích ứng trước mực
nước biển dâng cao. Các quá trình thích ứng tự nhiên thường bị giảm nhẹ, hoặc
ngừng lại bởi các áp lực do con người.
Khả năng thích ứng theo kế hoạch có thể giúp giảm thiểu tính tổn thương bằng rất nhiều
giải pháp. Sự tương tác giữa các hệ thống tự nhiên và kinh tế xã hội ở các vùng ven biển diễn
ra rất phức tạp. Do vậy, các hình thức thích ứng và điều chỉnh trong mỗi hệ thống và giữa hai
hệ thống thường nhằm giảm cường độ của các tác động tiềm tàng khi các tác động này xảy ra.
Nhờ đó, các tác động thực thường bớt nghiêm trọng hơn so với tác động tiềm tàng được dự
báo ban đầu.
1.2. Khái niệm về thủy triều
1.2.1. Khái niệm
Thủy triều là hiện tượng dao động của mực nước biển và đại dương có chu kỳ,
dưới tác dụng của lực hấp dẫn vũ trụ từ mặt trăng và mặt trời.
* Một số thuật ngữ quan trọng

-

Nước lớn: là mực nước cực đại khi nước dâng.

-

Nước ròng: là mực nước cực tiểu khi nước xuống.

-

Chu kỳ triều (T) là khoảng thời gian giữa hai lần liên tiếp của mực nước lớn
hoặc mực nước ròng. Tùy thuộc vào đại lượng của chu kỳ
Độ cao thủy triều (H) là độ cao mực nước trên số “0” độ sâu, còn gọi là hiệu

-


chính độ sâu; phản ánh mực nước biển thực tế tại thời điểm quan trắc.
Biên độ triều (B) là khoảng cách thẳng đứng giữa mực nước lớn và nước

-

ròng kế tiếp. Biên độ triều còn được gọi là độ lớn triều.
-

Thời gian nước lớn làthời điểm nước lên cao nhất.

-

Thời gian nước đứng là khoảng thời gian mà thủy triều ở độ cao xác định
không thay đổi.
Nguyệt khoảng là khoảng thời gian giữa thời điểm mặt trăng lên cao nhất

-

qua kinh tuyến địa phương đến thời điểm đạt nước lớn gần nhất.

7


8


1.2.2. Ảnh hưởng của các yếu tố khác nhau đến các đại lượng (biên độ) và đặc
điểm của thủy triều
Ngoài yếu tố thiên văn, còn tồn tại những yếu tố khác ảnh hưởng đến đại

lượng và đặc điểm thủy triều là: đặc tính bờ biển, kích thước của bể nước, độ sâu
biển, sự hiện diện các hòn đảo…. Trên các phần sâu và rộng của đại dương, đại
lượng thủy triều gần với lý thuyết và bằng 1m. Trong khi đó, quan sát được những
đại lượng khác nhau hoàn toàn ở các bờ của lục địa và đặc biệt ở các eo biển chật và
dài, ở đó biên độ có thể đạt tới 12m. Biên độ triều cực đại (18m), quan sát thấy ở eo
biển Fanđi, trên bờ Bắc Mỹ. Biên độ lớn bất thường đó là do eo Fanđi quá dài, lại
hẹp, kèm theo bề rộng và chiều sâu giảm xuống từ từ.
Ảnh hưởng của vùng biển nông gần như thường xuyên đến bán nhật triều dẫn
đến sự phá vỡ đối xứng của thời gian nước lớn và nước ròng, tức là khoảng thời
gian nước dâng đạt cực đại và nước rút đạt cực tiểu không bằng nhau.
Hướng gió ngược với hướng truyền của sóng triều, làm giảm tốc độ lan
truyền của nó. Ngược lại, hướng gió theo chiều truyền sóng triều, làm tăng tốc độ
truyền và tăng cả biên độ triều. Gió dữ, gió mạnh có thể thay đổi thời điểm đạt nước
lớn và nước ròng, ảnh hưởng đặc biệt lớn là gió ổn định trong một hướng.



nh 1.2.Hướng gió và biên độ triều

1.3. Nguyên nhân gây ra thủy triều và các chế độ thủy triều
1.3.1. Nguyên nhân gây ra thủy triều
Hiện tượng thủy triều xảy ra do lực hấp dẫn vũ trụ của mặt trăng và mặt trời.
Các lực này gọi là lực thủy triều. Để cho đơn giản, trước tiên, chúng ta cho rằng chỉ
có lực thủy triều do mặt trăng gây nên đối với các thành phần của trái đất.
9


Cũng như mọi hành tinh khác, lực hấp dẫn mặt trăng kéo về mình các phần tử
vật chất của trái đất, khoảng cách đến tâm mặt trăng của các phần tử càng


Hình 1.3. Sơ đồ lực tạo thủy triều của mặt trăng, trái đất hình cầu
Lớn thì lực càng giảm.Nói chính xác hơn, lực hấp dẫn (ký hiệu H) tỷ lệ thuận
với tích của khối lượng mặt trăng và phần tử nước đang xét và tỷ lệ nghịch với bình
phương khoảng cách từ tâm mặt trăng đến phần tử đó. Như thế, đại lượng của lực
hấp dẫn không bằng nhau đối với các phần tử ở các khoảng cách khác nhau.
Hơn nữa, hướng của lực hấp dẫn không song song với nhau, mà có chiều đến tâm
mặt trăng từ phía các vị trí khác nhau của các phần tử.
Ngoài lực hấp dẫn của mặt trăng, còn có lực ly tâm, tác dụng lên từng phần tử
vật chất. Lực ly tâm (ký hiệu L), được tạo thành do sự quay của hệ hai thiên thể trái
đất – Mặt trăng xung quanh tâm hấp dẫn chung của chúng. Các tính toán cho biết,
tâm hấp dẫn chung ở trong trái đất, cách tâm của nó một khoảng bằng 0,73 lần bán
kính trái đất. Mặt trăng hoàn thành một vòng quay quanh hấp dẫn chung, với thời
gian đúng bằng một tháng âm lịch (trung bình bằng 29,5 ngày đêm).

10


Người ta đã chứng minh được rằng, lực ly tâm tác dụng lên từng phần tử của
trái đất, với đại lượng như nhau và nằm trong hướng mặt phẳng kinh tuyến người
quan sát, về phía mặt trăng.
Mỗi phần tử nước, chịu tác dụng một lúc hai lực là lực hấp dẫn của mặt trăng
(H) và lực ly tâm (L).Tổng hợp véc - tơ của hai lực đó ở từng điểm một (A, A’, B,
B’, C, C’, T và X) gọi là lực thủy triều (F).Cho rằng Đại dương thế giới bao phủ địa
cầu một lớp nước có độ dày như nhau. Vị trí mặt trăng trên sơ đồ không những nằm
ở mặt phẳng người quan sát, mà còn nằm trên mặt phẳng xích đạo, tức là có xích vĩ
(δ) bằng 0o.
Từ sơ đồ trên ta thấy ở vùng nước gần điểm A và A’ hướng lực thủy triều
thẳng đứng về tâm trái đất, làm cho mực nước thấp đi; ở các điểm G (vị trí gần tâm
mặt trăng nhất) và X (xa mặt trăng nhất) – Trong hướng mặt phẳng kinh tuyến, từ
tâm trái đất ra ngoài, kéo nước ra hai phía của kinh tuyến, dẫn đến sự dâng cao của

mực nước, tức là tiến tới nước lớn; tại các điểm B, B’ và C, C’ đối xứng với nhau
qua kinh tuyến – Hướng tiếp tuyến vói mặt cầu nước.
Dưới tác dụng của các lực thủy triều, toàn bộ mặt Đại dương thế giới có dạng
elipxoit triều.Mỗi một nửa của elipxoit như là một sóng triều.

Hình 1.4.Elipxoit triều khi xích vĩ mặt trăng bằng 0o
Các điểm nước lớn (G và X) và chân sóng ở các điểm nước ròng (A và A’).
Do sự quay hàng ngày của trái đất, sóng triều không ngừng chạy trên mặt cầu từ tây
sang đông, mực cao và mực thấp lần lượt qua tầng kinh tuyến.

11


Ngoài mặt trăng, mặt trời cũng tạo ra lực triều trên trái đất. Sơ đồ hình thành
lực thủy triều do mặt trời, cũng tương tự như mặt trăng. Tuy nhiên do mặt trời ở xa
trái đất hơn mặt trăng đến 390 lần, mặc dầu khối lượng của nó lớn hơn mặt trăng là
30 triệu lần, thì lực thủy triều của mặt trời vẫn nhỏ hơn lực thủy triều của mặt trăng
đến 2,17 lần.
Cả hai hệ thống lực thủy triều hoàn toàn không phụ thuộc vào nhau, nhưng
trong tự nhiên chúng lại tiếp hợp với nhau, thực tế quan sát thấy có thủy triều tổng
hợp mặt trăng – Mặt trời. Vị trí tương hỗ giữa trái đất, mặt trăng và mặt trời không
ngừng biến đổi và lực thủy triều của chúng cũng thay đổi.Chúng có thể kết hợp với
nhau, làm thủy triều mạnh thêm, nhưng ở các vị trí khác, lại triệt tiêu nhau làm thủy
triều yếu đi. Điều đó ảnh hưởng đến đặc điểm và đại lượng thủy triều quan sát được
và thể hiện rõ những thay đổi của chúng.
1.3.2. Các chế độ thủy triều
- Nhật triều là trong một ngày đêm trăng (24h50’) có 1 lần nước lên và 1 lần
nước xuống. Vùng biển nước ta có chế độ nhật triều như khu vực Hòn Gai, Đồ Sơn
và Hòn Dấu.
- Bán nhật triều là trong một ngày đêm trăng có 2 lần nước lên và 2 lần nước

xuống. Nước ta có vùng biển phía đông Nam Bộ đặc trưng loại triều này.
- Tạp triều là hỗn hợp cả 2 loại triều nói trên như vùng biển miền Trung.
1.3.3. Tác động của thủy triềutới môi trường và xã hội
Đối với nước ta, các tác động của biến đổi khí hậu ban đầu có thể nhận thấy
được thông qua những thay đổi về khí hậu theo mùa ở các vùng miền khác nhau;
lượng mưa và mùa mưa cũng sẽ thay đổi... Tuy nhiên, thách thức lớn nhất lại là khi
mực nước biển dâng cao. Dải ven biển thuộc vùng Đồng bằng sông Cửu Long và
Đồng bằng sông Hồng - Thái Bình, hai vùng kinh tế trọng điểm của cả nước, mật độ
dân cư cao và tập trung, địa hình bằng phẳng và thấp (80% diện tích Đồng bằng
sông Cửu Long và 30% diện tích Đồng bằng sông Hồng có độ cao dưới 2,5m so với
mặt nước biển). Những ảnh hưởng đầu tiên là gia tăng nguy cơ xâm nhập mặn, tình
trạng ngập lụt trong mùa mưa bão, xói lở bờ biển, phá vỡ các hệ thống đê biển, hồ

12


chứa nước và nhấn chìm những cánh đồng lúa ở vùng đồng bằng ven biển, gây tổn
hại nhiều hơn đối với các khu vực đất ngập nước, rạn san hô, các hệ sinh thái và
những ảnh hưởng quan trọng khác đến đời sống của người dân. Năm 2003, trong
báo cáo "Thông báo đầu tiên của Việt Nam cho Công ước khung của Liên Hợp
Quốc về Biến đổi khí hậu", Bộ Tài nguyên & Môi trường đã ước tính, mực nước
biển ở Việt Nam có thể dâng thêm 33,3 cm vào năm 2050 và dâng 45 cm vào năm
2070 (theo kịch bản cao).
1.3.3.1. Nguy cơ thiếu nước ngọt và xâm nhập mặn
Việt Nam có hai vùng châu thổ rộng lớn là châu thổ lớn là sông Hồng ở phía
Bắc - diện tích 17.000 km2) và châu thổ sông Cửu Long (Mê Kông) - diện tích gần
35.000 km2 ở phía Nam, trong đó vùng châu thổ sông Cửu Long chịu ảnh hưởng
mạnh mẽ của chế độ thuỷ triều.
Thủy triều trong sông ở Đồng bằng sông Cửu Long là do từ biển truyền vào.
Tính từ biển Đông thủy triều truyền vào hạ lưu châu thổ qua các sông lớn như: sông

Tiền, sông Hậu hoặc các sông nhỏ như: Gành Hào, Bồ Đề… Từ vịnh Thái Lan thuỷ
triều truyền vào đồng bằng sông Cửu Long qua các sông Cái Lớn, Bảy Háp, Đông
Cung, Ông Đốc, Cửa Lớn… Sự xâm nhập mặn do ảnh hưởng triều biển Tây ít hơn
so với triều biển Đông. Vùng Đồng Tháp Mười chịu ảnh hưởng chủ yếu là triều
biển Đông. Tại khu vực này, do lòng sông hẹp và nông hơn nhiều so với biển, kết
hợp với ảnh hưởng của nước thượng nguồn chảy xuôi, cùng với ảnh hưởng khác
nên khi truyền triều vào sóng biển bị biến dạng, chính lượng nước thượng nguồn đã
làm giảm sự ảnh hưởng của mặn vào sâu đất liền. Do vậy, ảnh hưởng của thuỷ triều
đối với đồng bằng sông Cửu Long diễn biến theo mùa rõ rệt – mặn cao nhất đạt ở
mùa kiệt. Mùa lũ nước sông từ thượng nguồn đổ về đã đẩy lùi phạm vi hoạt động
của các sóng triều ra biển, mùa này sự xâm nhập mặn vào nội đồng là thấp nhất.
Ngược lại, trong mùa khô lượng nước thượng nguồn về ít, sóng triều lấn át truyền
sâu vào nội đồng. Mặn ảnh hưởng vào nội đồng là lớn nhất.
Đồng bằng sông Cửu Long có hệ thống kênh rạch chằng chịt, ăn thông ra biển
với các con sông lớn: sông Tiền, sông Hậu chảy qua đồng bằng đổ ra biển bằng chín

13


cửa có độ rộng từ vài trăm mét đến vài km. Sông Vàm Cỏ Đông và sông Vàm Cỏ
Tây (qua Đồng Tháp Mười) đổ ra biển. Những điều kiện về địa hình, địa lý tự nhiên
như vậy tạo điều kiện thuận lợi cho sự truyền triều –xâm nhập mặn sâu vào nội
đồng. Ngoài yếu tố địa hình, địa lý tự nhiên, gió chướng (hoạt động từ tháng 11 đến
tháng 4 năm sau, mạnh nhất vào tháng 2 và tháng 3), gió mùa Tây Nam, lượng mưa,
lượng nước thượng nguồn từ sông Mê Kông và cả các hoạt động của con người góp
phần đến gia tăng sự xâm nhập mặn vào nội đồng.
Những hậu quả của quá trình xâm nhập mặn sâu vào nội đồng:
Gây hạn nói chung với phạm vi ngày càng rộng hơn, trước hết là cho lúa đông

-


xuân bởi vì không thể lấy nước ở kênh rạch để tưới.
Nước mặn tràn lên đồng ruộng sẽ làm chết hàng loạt trên những cánh đồng

-

ruộng lớn. Thậm chí ngay cả khi độ mặn còn thấp hơn 1% cũng có thể làm giảm
năng suất cây trồng, hoa màu, cây ăn trái và nuôi trồng thủy sản. Nước mặn tràn
vào các ao, đìa nuôi thủy sản nước ngọt, sẽ làm giảm năng suất hoặc thất thu hoàn
toàn. Ngay cả đối với ao nuôi tôm nước mặn, nếu độ mặn cao quá cũng làm giảm
năng suất tôm.
Gây khó khăn trong cấp nước sinh hoạt: ở các vùng dân cư, nước ngọt trên các

-

sông rạch là nguồn nước sinh hoạt duy nhất, khi nước mặn xâm nhập sẽ gây ra thiếu
nước sạch.
Khô hạn kéo dài, ít mưa cũng góp phần làm xâm nhập mặn sâu hơn. Năm
2005, tình trạng xâm nhập mặn sớm, xâm nhập sâu, độ mặn cao và thời gian duy trì
dài xảy ra phổ biến ở làm các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Trên sông Tiền, sông
Hàm Luông, sông Cổ Chiên mức độ nhập mặn đã tiến sâu vào phạm vi 60–80 km.
Còn trên tuyến sông Hậu, nhập mặn cũng vào sâu 60–70 km. Riêng các dòng sông
chính như Vàm Cỏ Tây, Vàm Cỏ Đông độ mặn đã xâm nhập sâu tới mức kỷ lục
120-140km. Tại Long An, thiệt hại lên tới 16 tỷ đồng, 14.693 ha mía của tỉnh giảm
năng suất từ 5–10%; 1.093 hecta lúa ở huyện Đức Hòa đã chết trắng, do bị nhiễm
mặn. Tỉnh Sóc Trăng thiệt hại 46 tỷ đồng do 16.500 ha bị hạn, mặn...Hậu Giang có
diện tích nhập mặn là 9.000 ha, thiệt hại 11,4 tỷ đồng. Tại các huyện Cần Đước,

14



Cần Giuộc thiếu nước ngọt đang ở mức trầm trọng, hàng nghìn hộ dân thiếu nước
sinh hoạt ở các các tỉnh Tiền Giang, Cà Mau.
Năm 2008, Viện Khoa học Thủy lợi miền Nam dự báo, tình trạng hạn - nước
mặn xâm nhập sẽ diễn biến gay gắt hơn so với cùng kỳ năm 2007. Thiếu nước sạch
cho sinh hoạt, sản xuất nước mặn ngày càng lấn sâu vào đất liền đang có xu thế diễn
ra nhiều hơn ở vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tại Cà Mau, trong tháng 3/2008,
nước mặn đã xâm nhập nghiêm trọng vào vùng ngọt của huyện U Minh. Tại một số
khu vực này, người dân đã phá các đập để đưa nước mặn vào nuôi tôm làm cho tình
hình nhiễm mặn càng trở nên nghiêm trọng. Ngoài Cà Mau, nước mặn đã và đang
tiếp tục đe dọa nghiêm trọng đến nhiều vùng khác ở Đồng bằng sông Cửu Long. Tại
TP. Rạch Giá, nước mặn đã xâm ngập sâu vào đất liền, đẩy nước ngọt trên sông Cái
Sắn và kinh Rạch Giá - Hà Tiên ra xa hơn. Các cánh đồng trồng rau màu đứng trước
nguy cơ thiếu nước tưới và phải kết thúc sớm mùa vụ. Tại Bến Tre, trên sông Cửa
Đại, nước mặn vào đến xã Phú Thuận, huyện Bình Đại cách biển 30km tại xã Tân
Lợi Thạnh, huyện Giồng Trôm độ mặn đo được đã trên 4‰. Theo dự báo của ngành
khí tượng thủy văn, Đồng bằng sông Cửu Long, trong năm 2008, tình hình xâm
nhập mặn sẽ diễn biến phức tạp và nước mặn có khả năng xâm nhập vào đất liền
50- 60 km.
Đối với hạ lưu sông Sài Gòn - Đồng Nai, nguy cơ nhiễm mặn có ý nghĩa quan
trọng bởi hệ thống sông này cung cấp nước cho sinh hoạt và sản xuất cho một vùng
kinh tế năng động và thành phố đông dân nhất Việt Nam. Nước mặn xâm nhập sâu
kết hợp suy giảm nguồn nước ở hạ lưu đã gây ảnh hưởng lớn đến cấp nước sinh
hoạt và sản xuất ở nhiều vùng thuộc Nam Bộ và miền Trung.
Tại một số khu vực ở ven biển miền Trung, việc sử dụng nước ngầm để điều
chỉnh độ mặn trong các vùng nuôi tôm rộng lớn cũng như sử dụng lãng phí nước
trong sinh hoạt đã dẫn đến sự suy giảm nghiêm trọng nguồn nước ngầm. Đối với
một số khu vực ở miền Bắc, nguy cơ ngập khi nước biển dâng cao không lớn so với
miền Trung và miền Nam, song các tầng nước ngầm cũng có thể bị nhiễm mặn, quá


15


trình này đặc biệt quan trọng với các dạng địa tầng đá vôi bởi sự xâm thực nước
mặn sẽ trở nên rộng và sâu hơn.
Đối với khu vực ven biển Đồng bằng sông Hồng, tưới tiêu mang tính chất thuỷ
lợi vùng triều. Về mùa mưa, nước ngọt xuống gần cửa sông, khi thuỷ triều lên rất
thuận lợi cho việc lấy nước tưới. Mùa khô, lưu lượng và mực nước sông giảm, nước
mặn lấn sâu vào nội địa. Sau cơn bão số 7 cách đây 3 năm, Thanh Hoá và Nam
Định đang phải đối mặt với tình trạng 7.600 ha đất nhiễm mặn. Dưới đây là số liệu
khảo sát của Viện Khoa học Thuỷ lợi Việt Nam, đỉnh mặn lớn nhất ở các sông 4
sông lớn đại diện cho hệ thống sông Hồng và sông Thái Bình gồm sông Đáy, sông
Ninh Cơ, sông Hồng, sông Trà Lý tháng 12/2007.
Bảng 1.1. Độ mặn tại một số điểm trên 4 hệ thống sông lớnvùng Đồng bằng sông Hồng
Tên

Trạm

Khoảng cách đến

Ngày có độ mặn

Sđỉnh max

sông

khảo sát
Đ3
Đ2
Đ1

NC3
NC2
NC1
H3
H2
H1
TL3
TL2
TL1

cửa sông
10
22
32
10
22
32
10
22
30
10
22
32

lớn nhất
25/12
26/12
26/12
26/12
26/12

25/12
26/12
25/12
26/12
26/12
26/12
25/12

(‰)
16,45
0,75
0,12
26,70
3,75
0,48
19,35
1,15
0,12
21,63
1,61
0,15

Đáy

Ninh Cơ
Hồng
Trà Lý

Một ảnh hưởng lớn khác là triều cường dâng cao tại vùng Đồng bằng sông
Cửu Long. Ngập do triều cường tại Tp.Hồ Chí Minh diễn ra ngày càng trầm trọng

do quá trình đô thị hóa phát triển nhanh, cộng với mực nước biển có xu hướng ngày
càng dâng cao. Từ năm 1990 đến nay, chỉ số mực nước triều tại 7 trạm đo ở Tp.Hồ
Chí Minh liên tục tăng lên. Trong khi đó, hầu hết các dự án chống ngập mà Tp.Hồ

16


Chí Minh đang thực hiện đều không tính đến việc chống ngập do triều cường. Theo
số liệu từ Đài Khí tượng thủy văn Nam Bộ, đợt triều cường cuối tháng 10/2007 trên
thực tế cao hơn mức dự báo. Đỉnh triều trong hai ngày 27-28/10/2007 đã lên đến
1,48-1,50m, cao kỷ lục lần đầu tiên trong vòng 48 năm qua. Triều cường làm nhiều
tuyến đê bị vỡ, thiệt hại hàng chục ha diện tích mặt nước thả cá, nuôi tôm sú và
hàng trăm hécta cây cảnh, cây nông nghiệp, thủy hải sản, nhiều tuyến đường bị
ngập sâu.
1.3.3.2. Bão và nước dâng do do bão
Việt Nam có lịch sử lâu dài đối phó với thiên tai và có nhiều biện pháp ứng
phó khi có thiên tai xảy ra. Tuy nhiên, trong những năm gần đây từ 2001 cho đến
nay, do biến đổi khí hậu thời tiết có những diễn biến thất thường, thiên tai xảy ra
dồn dập, cường độ ác liệt hơn.
Bão là hiện tượng thời tiết nguy hiểm bậc nhất ở Việt Nam.Hàng năm có gần
10 cơn bão hoạt động trên biển Đông, trong đó có khoảng 3-5 cơn bão ảnh hưởng
trực tiếp đến Việt Nam gây ra những thiệt hại lớn về người và của.Năm 2006 là năm
điển hình về tần suất bão đổ bộ vào Việt Nam. Nhiều cơn bão xuất hiện với cường
độ mạnh và có hướng di chuyển tương đối phức tạp. Những vùng chịu ảnh hưởng
nhiều nhất của bão là các tỉnh ven biển miền Bắc và miền Trung.
Bão thường kết hợp với hiện tượng nước dâng do bão, tạo thành gió và sóng
do gió. Gió bão mạnh sẽ tạo ra sóng lớn và sóng này làm tăng cao mực nước biển
nhiều hơn tác dụng của gió tại vùng ven bờ. Trong thời gian 30 năm qua, người ta
ghi nhận được có một nửa số trong số các cơn bão đổ bộ vào Việt Nam đã làm dâng
cao mực nước trên 1 mét và có 11% số cơn bão làm dâng cao mực nước biển trên 2

mét. Một số trường hợp rất đặc biệt, bão có thể tạo thành nước dâng cao đến vài
mét. Ở một số vùng ven biển, nguồn cung cấp bùn cát thông thường giảm và hệ quả
là bão thường tạo nên sóng và làm cho đường bờ biển hạ thấp đi một cách nhanh
chóng, làm cho nước dâng do bão gây ra xâm nhập sâu hơn vào đất liền.

17


Bảng 1.2. Tỉnh bị ngập nước nặng nhất theo kịch bản nước biển dâng 1m
Tỉnh

Tổng diện tích

Diện tích bị ngập

(km2)
2.257
4.389
2.234
3.259
2.003
1.508
2.475
2.397
6.224
3.062
29.827

(km2)
1.131

2.169
1.021
1.425
862
606
962
783
1.757
758
11.474

Bến Tre
Long An
Trà Vinh
Sóc Trăng
TP.Hồ Chí Minh
Vĩnh long
Bạc Liêu
Tiền Giang
Kiên Giang
Cần Thơ
Tổng cộng

% bị ngập
50.1
49,4
45,7
43,7
43,0
39,7

38,9
32,7
28,2
24,7
38,6

Cơn bão số 9 có tên quốc tế là Durian đổ bộ vào đất liền nước ta từ sáng
04/12/2006. Theo thống kê sau hơn một ngày tàn phá tại vùng biển và đất liền Nam
Trung bộ Việt Nam, cơn bão đã cướp đi sinh mạng và làm mất tích trên 70 người,
hàng nghìn người bị thương cùng hàng trăm tàu thuyền bị nhấn chìm, hàng nghìn
công trình dân dụng bị tốc mái, sập đổ, hư hỏng nặng. Nước dâng do bão Durian
gây ra lớn, khoảng 0,3-0,7m.
Bão số 6 (Xangsane) đổ bộ vào Đà Nẵng tháng 9/2007 là một trong những cơn
bão mạnh nhất trong khoảng 20 năm qua. Bão đã làm mực nước dâng trên diện
rộng, dọc khu vực ven biển từ Quảng Bình đến Đà Nẵng, đặc biệt là ở khu vực ven
biển Thừa Thiên Huế.Tại Thừa Thiên-Huế (khu vực Vĩnh Tuy) mức nước dâng cao
tới 2,18m, tại Quảng Bình-Quảng Trị (Lệ Thuỷ-Triệu Phong) là 1,78m.
Nước biển dâng cao ngoài ảnh hưởng của bão còn do nguyên nhân sóng thần.
Hiện nay, Việt Nam vẫn chưa có hệ thống quan trắc sóng thần nên chưa ghi nhận
được thông tin nào về sóng thần ở vùng biển nước ta. Khu vực biển Đông nằm kế
cận với hai đới động đất mạnh trên thế giới là vành đại động đất Thái Bình Dương
và Địa Trung Hải xuyên Á. Tuy nhiên, dải ven biển nước ta nằm khác xa với nguồn
18


gây sóng thần. Với khoảng cách 1.200km từ vùng nguồn tới ven biển Nam Trung
Bộ và xa hơn nữa đối với các vùng dân cư thuộc đồng bằng sông Hồng và thì thời
gian truyền sóng thần đủ để giảm thiểu tốn thất và người và tài sản.
Trong khoảng thời gian từ 1627 đến 1994, tại khu vực Biển Đông và lân cận
đã xảy ra 73 trận động đất có kèm theo sóng thần. Theo các kết quả điều tra của các

nhà khoa học Việt Nam và dựa vào phân tích chi tiết về các trận động đất xảy ra
trên Biển Đông, các cơn bão và điều kiện thời tiết cho thấy rằng trong hầu hết các
trường hợp, sóng thần mà người dân ghi nhận trong thời gian vài chục năm gần đây
đều bị nhầm lẫn với nước dâng do bão hoặc sóng ngắn. Tuy nhiên, các nhà khoa
học Việt Nam cũng đã tiến hành đánh giá về khả năng và cảnh báo nguy cơ xảy ra
sóng thần trên bờ biển Việt Nam và đề ra biện pháp ứng phó nhằm giảm thiệt hại.
Gần đây nhất, vào ngày 26 tháng 12 năm 2004, một trận động đất lớn thứ tư kể từ
năm 1900 đã xảy ra ngoài khơi đảo Sumatra, Inđônêxia. Trận động đất được đánh
giá là có cường độ hơn 9,0 độ Rích te đã gây ra một dải đứt gẫy dài tới 1.200km và
tạo ra sóng thần có độ cao hơn 12m tại nhiều khu vực. Trận sóng thần này không
gây hậu quả gì đối với lãnh thổ nước ta nhưng những tài liệu thu thập được đã cho
thấy nhiều vùng xuất hiện hiện tượng triều giả (hiện tượng dao động của mặt nước
các hồ, sông, cảng biển gần kín khi thì dồn về bên này hoặc bên kia của bờ hồ mỗi
khi có động đất lớn kèm theo sóng thần). Mực nước hồ tại khu vực Thác Cạn dâng
lên khoảng 30cm, sau đó lại hạ xuống.Ngoài ra, hiện tượng trên còn xảy ra tạo
nhiều hồ nước ở bán đảo Cà Mau.
1.3.3.3. Nguy cơ xói lở
Hầu hết bờ biển nước ta đang bị xói lở với cường độ từ vài mét tới hàng chục
mét mỗi năm và có xu hướng gia tăng mạnh trong một thập niên gần đây. Xu hướng
dâng lên của mực nước biển trong những năm gần đây cũng góp phần gây ra sụt lở
mạnh hơn. Sự tăng dòng chảy sông cũng là một nguyên nhân gây xói lở, nhưng
thường chỉ xảy ra vào mùa mưa và chỉ ảnh hưởng ngắn hạn.

19


Ngoài các nguyên nhân do tự nhiên, tác động của con người trong việc làm
tăng thiệt hại do xói lở cũng khá rõ ràng. Bờ biển nước ta dài hơn 3.000 km, song
chỉ có 2.800 km đê biển, trong đó có 1.400 km đê trực tiếp với biển và khoảng
1.400 km đê cửa sông. Tuy nhiên, hệ thống đê ở nước ta hầu hết đê được đắp bằng

đất (như đê lấn biến, ngăn mặn), do dân tự xây dựng hoặc đê bêtông cốt thép do nhà
nước xây dựng. Trong số trên có nhiều đoạn đê đã yếu, hoặc xây dựng bằng các vật
liệu có chất lượng kém và sử dụng các biện pháp xây dựng thủ công không phù
hợp.Điều này dẫn tới các đoạn đê đó thường bị mối, đe doạ sạt lở và thẩm thấu qua
chân công trình. Dọc theo các đồng bằng ven biển miền Trung, hệ thống đê biển
được xây dựng để bảo vệ cho người dân địa phương chống lại các hiện tượng bất
thường như bão. Những hệ thống này có vai trò thiết yếu đối với nền nông nghiệp.
Vì lý do nào đó mà các con đê này không ngăn được nước biển tràn vào hoặc bị vỡ
thì ruộng đồng sẽ bị nước biển làm cho nhiễm mặn và không thể gieo trồng được
trong nhiều năm. Tại nhiều tuyến đê, rừng ngập mặn còn bị phá huỷ để nuôi tôm,
chặt cây lấy gỗ, hoặc tàn phá do chất độc hóa học, người dân lấn chiếm mặt đê để
làm vườn, xây nhà.Chính các hoạt động này đã góp phần tạo điều kiện cho các hoạt
động xói lở bờ biển diễn ra mạnh mẽ hơn.
Bảng 1.3.Các kịch bản nước biển dâng cao ở Việt Nam

Kịch bản nước biển dâng cao ở Việt Nam (cm) so với năm 1990

Kịch bản phát thải

A1

2010

202

203

204

0


0

0

2050

206

207

208

209

0

0

0

0

2100

Thấp

1,3

2,2


3,2

4,6

6,3

8,5

10,9

13,4

15,9

18,3

TB

3,0

4,8

7,1

10,0

13,7

18,2


23,2

28,6

34,1

39,7

F1
Cao

20


A2

A1

Cao

4,9

8,1

12,0

16,8

22,9


30,5

39,1

48,5

58,2

68,0

Thấp

1,3

2,2

3,2

4,2

5,6

7,1

8,7

10,6

12,7


14,9

TB

3,1

5,0

7,1

9,6

12,5

15,7

19,4

23,6

28,1

33,1

Cao

5,1

8,4


12,0

16,3

21,2

26,8

33,3

40,6

48,6

57,3

Thấp

1,2

2,2

3,2

4,6

6,1

7,6


9,3

10,8

12,2

13,5

TB

2,9

4,8

7,1

10,0

13,3

16,8

20,6

24,3

28,0

31,5


Cao

4,9

8,1

12,0

16,8

22,4

28,6

33,3

42,1

48,9

55,5

Thấp

1,3

2,3

3,3


4,4

5,6

6,8

8,1

9,4

10,7

12,0

TB

3,1

5,1

7,5

10,0

12,8

15,8

18,8


22,0

25,3

28,8

Cao

5,1

8,5

12,6

17,1

22,0

27,3

33,0

38,8

48,0

51,3

Thấp


1,2

2,0

3,1

4,4

5,7

7,1

8,4

9,5

10,5

11,5

TB

2,9

4,6

6,9

9,6


12,7

15,9

19,0

22,2

25,1

27,9

B
Trun
g
bình

B2

A1
T
Cao

9

B1

21


Cao

4,9

7,8

11,5

16,2

21,5

27,1

33,0

38,8

44,6

50,0

Thấp

1,3

2,3

3,5


4,6

5,9

7,1

8,1

9,4

10,0

10,6

TB

3,1

5,2

7,7

10,5

13,4

16,3

19,2


21,9

24,6

26,9


Cao

5,1

8,7

13,0

17,8

23,0

8,5

33,7

39,4

44,2

49,1

Đối với châu thổ sông Hồng, trước khi đạt đến trạng thái hiện nay, châu thổ

này được bồi tụ trong một vịnh khá kín và có thuỷ triều biến độ lớn. Trên bình diện
chung, châu thổ sông Hồng do sông thống trị, vai trò của thuỷ triều ở vị trí thứ hai
và sông ở vị trí thứ ba. Gần một thế kỷ qua, châu thổ sông Hồng bồi lấn ra biển
trung bình 28m/năm, có nơi 100-120m/năm như ở cửa Ba Lạt và cửa Đáy. Tuy
nhiên, khoảng một phần năm chiều dài bờ châu thổ sông Hồng đang bị xói lở mạnh,
tiêu biểu là đoạn Hải Hậu dài 17 km bị xói lở với tốc độ 10-15m/năm trong nhiều
năm qua.
Môi trường ven bờ châu thổ sông Cửu Long có triều thống trị, độ lớn triều
trung bình 2,5m, cực đại 3m và độ cao sóng trung bình 0,9m. Tốc độ bồi lấn của
châu thổ khoảng 45m/năm trước 2500 năm và 20-30m/năm sau 2500 năm. Tại mũi
Cà Mau, tốc độ lấn biển tới 150m/năm.Tuy nhiên, trong những năm gần gây, các
nhà nghiên cứu môi trường Việt Nam cảnh báo, mũi Cà Mau - nơi vẫn được xem là
có tốc độ lấn ra biển nhanh nhất nước ta đã và đang có biểu hiện bị xói lở khá
mạnh. Tại khu du lịch Đồi Dương ở TP. Phan Thiết, tỉnh Bình Thuận, nhiều năm
nay cũng đã xảy ra tình trạng xói lở liên tục với tốc độ khoảng 10m/năm, đoạn Bồ
Đề bị xói lở với tốc độ 30-50m/năm trên chiều dài 36km trong nhiều năm.
Hiện tượng ngập úng ở vùng châu thổ mở rộng vào mùa mưa lũ, các dòng
sông tăng cường xâm thực ngang, gây sạt lở lớn ở các vùng dân cư tập trung hai bờ
trên nhiều khu vực từ Bắc vào Nam. Ở các vùng ven biển đã thấy rõ hiện tượng
vùng ngập triều cửa sông mở rộng hình phếu trên diện rộng, nhất là ở hạ du các hệ
thống sông nghèo phù sa như cáchệ thống sông Thái Bình, Bạch Đằng, ven biển
Hải Phòng, Quảng Ninh và hệ thống sông Đồng Nai ởvùng ven biển Bà Rịa-Vũng
Tàu và Tp.Hồ Chí Minh. Tại trạm Vũng Tàu, các nhà khoa học tính toán rằng, trong
22


khoảng 50 năm qua, mực nước biển đã dâng lên 160 mm. Đây là nguyên nhân quan
trọng khiến nhiều nơi tại Tp. Hồ Chí Minh bị ngập nước khi triều cường, vừa làm
cho mức độ xói lở bờ biển mạnh hơn. Xu hướng này sẽ còn tiếp tục với phạm vi
rộng hơn trong những năm tới.

Theo báo cáo của Viện Khoa học thủy lợi miền Nam trình bày tại Hội nghị
đánh giá về thực trạng đê biển từ Quảng Ngãi đến Kiên Giang do Bộ Nông nghiệp
và Phát triển Nông thôn tổ chức ngày 24/3/2008: Bờ biển từ tỉnh Quảng Ngãi đến
Bình Thuận hiện bị sóng biển xâm thực khá mạnh, nhiều khu vực có tốc độ sạt lở
bờ biển từ 15-30m/năm. Dải ven biển Đông từ Bà Rịa - Vũng Tàu đến mũi Cà Mau
cũng có một số đoạn bị sạt lở làm cho thảm rừng ngập mặn nhiều nơi bị thu hẹp
dần, thậm chí có đoạn không còn rừng phòng hộ. Trong khi đó, hệ thống đê biển để
bảo vệ đất liền lại đang xuống cấp nghiêm trọng. Còn trên các tuyến đê biển của
miền bắc từ năm 2005 đến nay, đã có tới 165 vị trí sạt lở có chiều dài 252 km. Tình
trạng sạt lở trong thời gian qua đang đe dọa trực tiếp đến an toàn đê điều, các khu
vực thành phố, thị xã và các khu tập trung dân cư...
1.3.3.5. Đa dạng sinh học và hệ sinh thái.
Đối với nước ta, mực nước biển dâng sẽ làm mất đi một vùng đất thấp rộng
lớn/các hệ sinh thái đất ngập nước của các đồng bằng lớn nhất cả nước.Đây cũng là
nơi sinh sống của các cộng đồng dân cư lâu đời (hiện có tỷ lệ đói nghèo cao), vùng
có tiềm năng sản xuất nông nghiệp lớn nhất và các sinh cảnh tự nhiên của nhiều loài
bản địa bao gồm cả các khu bảo tồn thiên nhiên, sinh quyển.
Từ lâu ở Đồng bằng sông Cửu Long đã hình thành và phát triển các hệ sinh
thái tự nhiênrừng Tràm U Minh, hệ sinh thái rừng ngập mặn ven biển, hệ sinh thái
nông nghiệp. Tại đây có nhiều khu bảo tồn thiên nhiên, vườn chim, sân chim... rất
hấp dẫn cho du lịch sinh thái. Đặc biệt, hệ sinh thái rừng ngập mặn ở các tỉnh Cà
Mau, Kiên Giang, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh, Bến Tre... Ngoài vai trò sản xuất
nông nghiệp và thuỷ sản, các vùng đất ngập nước còn đóng vai trò quan trọng trong
thiên nhiên và môi trường như lọc nước thải, điều hoà dòng chảy (giảm lũ lụt và
hạn hán), điều hoà khí hậu địa phương, chống xói lở bờ biển (do hệ thống rễ chằng
23


chịt, có tác dụng giảm năng lượng sóng), ổn định mức nước ngầm cho những vùng
sản xuất nông nghiệp, tích luỹ nước ngầm, là nơi trú chân của nhiều loài chim di cư

quý hiếm, là nơi giải trí, du lịch rất giá trị… Các vùng này đã và đang đóng vai trò
quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế và xã hội.Kết quả nghiên cứu năm
2007 cho thấy, trong cơn bão lớn năm 2005, một số rừng ngập mặn được trồng có
các thành phần khác nhau có tác dụng làm giảm sóng bão kết hợp với triều cường,
bảo vệ đê biển và bờ biển rất có hiệu quả. Cơn bão số 2 (31/12/2005) với sức gió
cấp 10 (89 - 102 km/h) đã phá vỡ đê bằng bê tông kiên cố Cát Hải (Hải Phòng),
nhưng tuyến đê làm bằng đất ở xã Bằng La, huyện Đồ Sơn nhờ có rừng ngập mặn
bảo vệ nên vẫn an toàn. Năng lượng sóng khi vượt qua rừng đã làm giảm 77 - 83%
vào các thời điểm khác nhau trong ngày mưa bão.Cũng tại khu vực này, khi cơn bão
số 7 (27/9/2005) với sức gió cấp 12 (118 - 133 km/h) năng lượng sóng đã giảm từ
85 - 87% khi xuyên qua rừng. Hệ số suy giảm sóng trong cơn bão số 7 sau khu rừng
bần là 77 - 83%.
Biến đổi khí hậu và mực nước biển dâng cao đe dọa nhiều nhất đến các hệ
sinh thái vùng ven bờ như hệ sinh thái đất ngập nước, rừng ngập mặn, cỏ biển và
rạn san hô. Mực nước biển dâng cao do biến đổi khí hậu chắc chắn sẽ tác động
mạnh đến các hệ sinh thái này do làm thay đổi thành phần của trầm tích, độ mặn
của nước và mức độ ô nhiễm. Theo đánh giá của Ngân hàng thế giới đối với các
sinh cảnh tự nhiên quan trọng ở Việt Nam, dựa trên những kịch bản nước biển dâng
trong bản đồ các sinh cảnh tự nhiên chủ chốt, cứ 1m nước biển dâng lên có thể ảnh
hưởng tới 78 (27%) sinh cảnh tự nhiên ở những mức độ nhất định, bao gồm 46
(33%) khu bảo tồn, 9 (23%) các vùng có đa dạng sinh học chủ chốt và 23 (21%)
khu vực cả bảo tồn và sinh cảnh chủ chốt. Độ lớn của những tác động tiềm tàng này
đang tăng lên từ ¼ đến 1/3 tất cả các vùng sinh cảnh tự nhiên then chốt ở Việt Nam
có thể bị tác động bởi mực nước biển dâng. Những khu vực này bao gồm phần lớn
các khu bảo tồn và đề nghị bảo tồn hiện nay của Việt Nam vì các khu bảo tồn này
thương tập trung trên các đảo và khu vực bờ biển.Thậm chí mực nước biển dâng
cao 1m cũng sẽ tác động đến hầu hết các sinh cảnh tự nhiên then chốt. Rõ ràng là đa
dạng sinh học Việt nam đang phải đối mặt với cuộc khủng hoảng khi nước biển
24



dâng. Không chỉ ở các vùng ven biển, các tác động khi nước biển dâng sẽ kéo dài từ
Đồng bằng sông Cửu Long qua Việt Nam sang tới Campuchia và đi sâu 180 km vào
đất liền. Ở miền Bắc, lớp địa tầng đá vôi ngâm nước sâu rộng khiến cho nước mặn
xâm nhập vào sâu trong đất liền như Khu bảo tồn thiên nhiên Vân Long ở Ninh
Bình và một số nơi khác.Điều đó sẽ ảnh hưởng xấu tới đa dạng sinh học, nhiều loài
có ý nghĩa kinh tế và khoa học chết hoặc di cư, mất nguồn cung cấp thực phẩm.
Việt Nam vốn nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, hàng năm phải hứng chịu
nhiều cơn bão và triều cường.Trước đây, nhờ có các dải rừng ngập mặn tự nhiên và
được trồng ở các vùng cửa sông, ven biển nên đê điều ít khi bị vỡ.Nhưng những
năm gần đây, do việc phá rừng ngập mặn để trồng lúa, nuôi tôm, cuộc sống của
cộng đồng ven biển ngày càng bị đe dọa.Theo nghiên cứu của các nhà khoa học
Việt Nam, bão và triều cường là hai trong số sáu tác động đến hệ sinh thái rừng
ngập mặn gồm nhiệt độ, lượng mưa, gió mùa đông bắc và hoạt động của con người.
Nước biển dâng cao nhất trong những ngày có mưa bão kết hợp triều cường, gây ra
thiệt hại to lớn về tài sản của cộng đồng ven biển, làm cho bờ biển bị xói lở, kể cả
những vùng có các dải rừng ngập mặn phòng hộ. Triều cường còn đưa cát vào bờ,
làm cho các loài cây ngập mặn có rễ thở trên mặt đất bị vùi lấp và chết đứng.Nước
biển dâng tạo điều kiện cho một số loài cây ngập mặn xâm lấn nội địa, giảm diện
tích sản xuất nông nghiệp (như ở Quảng Bình và miền Tây Nam Bộ).Nhiều loài
động thực vật nước ngọt biến mất và thay vào đó là các loài nước lợ.Nước biển
dâng cũng ngăn cản sự bồi tụ của các bãi triều, ngăn cản sự tái sinh tự nhiên của các
loài cây ngập mặn tiên phong như mắm, bần chua. Tại Tp.Hồ Chí Minh, trong thời
gian gần đây triều cường gây ngập nhiều khu dân cư trong đó có nguyên nhân là
hầu hết các kênh rạch có những dải dừa nước và nhiều loài cây ngập mặn khác như
bần, mắm, su trang ở các quận Nhà Bè, Phú Xuân, Bình Chánh bị chặt phá và lấp
đất để xây dựng.
Ngoài những ảnh hưởng đến suy giảm đa sinh học, nguy cơ nhấn chìm và phá
huỷ cơ sở hạ tầng và suy giảm tiềm năng du lịch ở các vùng ven biển cũng là một
vấn đề quan trọng.Hiện nay, du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn ở nước ta, với hàng

triệu người tham gia và kiếm sống nhờ du lịch. Biến đổi khí hậu mà hệ quả là nước

25


×