Tải bản đầy đủ (.docx) (22 trang)

tiểu luận cao học đã sửa lịch sử học thuyết kinh tế thời kỳ quá độ trình bày lý luận của lê nin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội quá trình nhận thức và vận dụng lý luận này trong việc lựa chọn con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.78 KB, 22 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
C.Mác và Ph.Ăngghen cũng dự báo trên những nét lớn về những đặc
trưng cơ bản của xã hội mới, đó là: có lực lượng sản xuất xã hội cao, chế độ
sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất được xác lập, chế độ người bóc người bị thủ
tiêu, sản xuất nhằm thỏa mãn nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội , nền
sản xuất được tiến hành theo một kế hoạch thống nhất trên phạm vi toàn xã
hội, sự phân phối sản phẩm bình đẳng, sự đối lập giữa thành thị và nông thôn,
giữa lao động trí óc và lao động chân tay bị xóa bỏ...
Để xây dựng xã hội mới có những đặc trưng như trên cần phải trải qua
hai giai đoạn: Giai đoạn thấp (giai đoạn đầu) và giai đoạn sau (giai đoạn cao).
Sau này Lênin gọi giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội và giai đoan sau là chủ
nghĩa cộng sản. C.Mác gọi giai đoạn đầu xã hội chủ nghĩa là thời kỳ quá độ
chính trị lên giai đoạn cao của xã hội cộng sản.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng toàn
diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thời kỳ này ở các nước có
trình độ phát triển kinh tế xã hội khác nhau có thể diễn ra với khoảng thời
gian dài ngắn khác nhau. Đối với những nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản
phát triển ở trình độ cao khi tiến lên xã hội chủ nghĩa thời kỳ quá độ có thể
tương đối ngắn. Những nước trải qua giai đoạn phát triển chủ nghĩa tư bản ở
trình độ trung bình, đặc biệt là những nước có nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu
thì thời kỳ quá độ tương đối khó khăn, phức tạp.
Ở nước ta thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được bắt đầu từ năm
1945 ở miền Bắc và năm 1975 trên phạm vi cả nước sau khi cuộc cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân đã hoàn toàn thắng lợi, đất nước hòa bình và thống
nhất quá độ đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Sau khi chủ nghĩa xã hội ở Đông Âu và Liên Xô sụp đổ, Đảng ta vẫn
quyết định nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản chủ nghĩa. Nước ta
tiến lên xã hội chủ nghĩa bỏ qua tư bản chủ nghĩa là tất yếu khách quan, do nó
1



phù hợp với sự phát triển chung của xã hội loài người, và trong thời đại ngày
nay, độc lập dân tộc gắn liền với xã hội chủ nghĩa do đất nước ta giành độc
lập dân tộc tất yếu phải đi lên chủ nghĩa xã hội.Đó là lý do tôi chọn đề tài
“Trình bày lý luận của Lê nin về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Quá trình nhận thức và vận dụng lý luận này trong việc lựa chọn con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta”.

2


CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA MÁC LÊNIN VỀ THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CNXH
1. Tính tất yếu của thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNXH
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan, bất cứ quốc
gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội đều phải trải qua, kể cả các nước có nền kinh
tế rất phát triển. Tất nhiên, đối với các nước có nền kinh tế phát triển, thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội có nhiều thuận lợi hơn, có thể diễn ra ngắn hơn so
với các nước đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa có nền
kinh tế lạc hậu.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kỳ cải biến cách mạng sâu
sắc, triệt để, toàn diện từ xã hội cũ thành xã hội mới: chủ nghĩa xã hội. Nó
diễn ra từ khi giai cấp vô sản giành được chính quyền bắt tay vào xây dựng xã
hội mới và kết thúc khi xây dựng thành công những cơ sở của chủ nghĩa xã
hội cả về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất, cơ sở kinh tế và kiến trúc
thượng tầng.
Tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội được quy định bởi
đặc điểm ra đời, phát triển của cách mạng vô sản và những đặc trưng kinh tế,
xã hội của chủ nghĩa xã hội. Để chuyển từ xã hội TBCN lên xã hội XHCN
cần phải trải qua một thời kỳ quá độ nhất định. Tính tất yếu của TKQĐ lên
CNXH được lý giải từ các căn cứ sau đây:

- Một là, CNTB và CNXH khác nhau về bản chất. CNTB được xây
dựng trên cơ sở chế độ tư hữu TBCN về các tư liệu sản xuất; dựa trên chế độ
áp bức và bóc lột. CNXH được xây dựng trên cơ sở chế độ công hữu về tư
liệu sản xuất chủ yếu, tồn tại dưới 2 hình thức là nhà nước và tập thể; không
còn các giai cấp đối kháng, không còn tình trạng áp bức, bóc lột. Muốn có xã
hội như vậy cần phải có một thời kỳ lịch sử nhất định.
- Hai là, CNXH được xây dựng trên nền sản xuất đại công nghiệp có
trình độ cao. Quá trình phát triển của CNTB đã tạo ra cơ sở vật chất - kỹ thuật
3


nhất định cho CNXH, nhưng muốn có cơ sở vật chất – kỹ thuật đó cần phải có
thời gian tổ chức, sắp xếp lại. Đối với những nước chưa từng trải qua quá
trình CNH tiến lên CNXH , TKQĐ cho việc xây dựng cơ sở vật chất – kỹ
thuật cho CNXH có thể kéo dài với nhiệm vụ trọng tâm của nó là tiến hành
CNH XHCN.
- Ba là, các quan hệ xã hội của CNXH không tự phát nảy sinh trong
lòng CNTB, chúng là kết quả của quá trình xây dựng và cải tạo XHCN. Sự
phát triển của CNTB dù đã ở trình độ cao cũng chỉ có thể tạo ra những điều
kiện, tiền đề cho sự hình thành các quan hệ xã hội XHCN, do vậy cũng cần
phải có thời gian nhất định để xây dựng và phát triển các quan hệ đó.
- Bốn là, công cuộc xây dựng CNXH là một công việc mới mẻ, khó
khăn và phức tạp, cần phải có thời gian để giai cấp CN từng bước làm quen
với những công việc đó.
TKQĐ lên CNXH ở các nước có trình độ phát triển kinh tế - xã hội
khác nhau có thể diễn ra với khoảng thời gian dài, ngắn khác nhau. Đối với
những nước đã trải qua CNTB phát triển ở trình độ cao thì khi tiến lên
CNXH, TKQĐ có thể tương đối ngắn. Những nước đã trải qua giai đoạn phát
triển CNTB ở mức độ trung bình, đặc biệt là những nước còn ở trình độ phát
triển tiền tư bản, có nền kinh tế lạc hậu thì TKQĐ thường kéo dài với rất

nhiều khó khăn, phức tạp. Đặc điểm và thực chất của thời kỳ quá độ từ CNTB
lên CNXH là sự tồn tại đan xen giữa những yếu tố của xã hội cũ bên cạnh
những nhân tố mới của CNXH trong mối quan hệ vừa thống nhất vừa đấu
tranh với nhau trên tất cả các lĩnh vực (kinh tế, chính trị, tư tưởng – văn hóa)
của đời sống xã hội
2. Thực chất của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã
Thực chất của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là chuyên chính vô
sản. Nghĩa là giai đoạn: giai cấp vô sản bao gồm giai cấp công nhân và quần
chúng nhân dân lao động,sau khi giành chính quyền ,sẽ tước đoạt toàn bộ tư
liệu sản xuất từ giai cấp tư sản đã bị đánh bại,không còn là giai cấp thống trị
4


và những thế lực chống phá chủ nghĩa xã hội.Xóa bỏ triệt để tàn dư phong
kiến,tích lũy cơ sở vật chất để xây dựng xã hội chủ nghĩa bằng những biện
pháp chuyên chính vô sản.Bản chất là dùng bộ máy chính quyền cưỡng bức.
Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội chính là sự khác biệt giữa học
thuyết của C. Mác và của V. Lê-nin. Có thể khẳng định thời kì quá độ không
có trong học thuyết C. Mác! Không ai có thể khẳng định được: Nếu C. Mác
sống đến thời V. Lê-nin thì ông có đồng ý luận điểm đó không? Và có đồng ý
ghép học thuyết của mình vào với học thuyết của Lê nin để gọi chung là học
thuyết Mác - Lê nin, để trở thành Chủ nghĩa Mác - Lê nin?
Theo Hồ Chí Minh: Thực chất của thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
là quá trình cải biến nền sản xuất lạc hậu thành nền sản xuất hiện đại. Thực
chất phát triển và cấu tạo nền kinh tế quốc dân cũng là cuộc đấu tranh giai cấp
gay go, phức tạp trong điều kiện mới.Khi mà nhân dân ta hình thành cơ bản
cách mạng dân tộc dân chủ,so sánh lực lượng trong nước và quốc tế đã có
những biến đổi. Điều này đòi hỏi phải áp dụng toàn diện các hình thức đấu
tranh cả về chính trị,kinh tế,tư tưởng-văn hóa,nhằm chống lại các thế lực đi
ngược lại con đường xã hội chủ nghĩa.

3.Nội dung của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Thời kỳ quá độ lên CNXH là một quá trình được tiến hành trên tất cả
các lĩnh vực của đời sống xã hội, là 1 quá trình khó khăn và phức tạp.
- Trên lĩnh vực kinh tế: thực hiện việc sắp xếp, bố trí lại các lực lượng
sản xuất hiện có của xã hội; cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản
xuất mới theo hướng tạo ra sự phát triển cân đối của nền kinh tế, bảo đảm
phục vụ ngày càng tốt đời sống nhân dân lao động. Việc sắp xếp, bố trí lại các
lực lượng sản xuất của xã hội nhất định không thể theo ý muốn nóng vội, chủ
quan mà phải tuân theo tính tất yếu khách quan của các quy luật kinh tế, đặc
biệt là quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất.

5


Đối với những nước chưa trải qua quá trình CNH TBCN, tất yếu phải
tiến hành CNH XHCN nhằm tạo ra được cơ sở vật chất – kỹ thuật của CNXH.
Nhiệm vụ trọng tâm của những nước này trong TKQĐ là phải tiến hành CNH,
HĐH nền kinh tế theo định hướng XHCN. Quá trình CNH-HĐH XHCN diễn
ra ở các nước khác nhau với những điều kiện lịch sử khác nhau có thể được
tiến hành với những nội dung cụ thể và hình thức, bước đi khác nhau. Nước ta
quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, chưa trải qua quá trình CNH TBCN,
nên trong thời gian qua, Đảng ta chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH, tạo nền
tảng để đi lên CNXH; bên cạnh đó là chủ trương phát triển kinh tế thị trường
định hướng XHCN cũng là để giải phóng sức sản xuất, tiến tới một nền sản
xuất lớn.
=> Đặc điểm kinh tế cơ bản nhất của thời kỳ quá độ là sự tồn tại nền
kinh tế nhiều thành phần và tương ứng với nó có nhiều giai cấp, tầng lớp xã
hội khác nhau nhưng vị trí, cơ cấu và tính chất của giai cấp trong xã hội đã
thay đỗi một cách sâu sắc. Sự tồn tại của cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là

khách quan và lâu dài, có lợi cho sự phát triển lực lượng sản xuất, tăng trưởng
kinh tế. Theo Lênin, mâu thuẫn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là
mâu thuẩn giữa chủ nghĩa xã hội đã giành thắng lợi nhưng còn non yếu với
chủ nghĩa tư bản đã bị đánh bại nhưng vẫn còn khả năng khôi phục. Vì vậy,
thời kỳ quá độ là thời kỳ diễn ra cuộc đấu tranh “ai thắng ai” giữa chủ nghĩa
xã hội và chủ nghĩa tư bản quyết liệt, quanh co, khúc khuỷu và phức tạp.
- Trong lĩnh vực chính trị: tiến hành cuộc đấu tranh chống lại các thế
lực thù địch chống phá sự nghiệp xây dựng CNXH; xây dựng, củng cố nhà
nước và nền dân chủ XHCN ngày càng vững mạnh, bảo đảm quyền làm chủ
trong hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội của nhân dân lao động, xây
dựng các tổ chức chính trị - xã hội thực sự là nơi thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân lao động; xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh ngang
tầm với các nhiệm vụ của mỗi thời kỳ lịch sử.

6


- Trong lĩnh vực tư tưởng – văn hóa: tuyên truyền, phổ biến những tư
tưởng khoa học và cách mạng của giai cấp công nhân trong toàn xã hội; khắc
phục những tư tưởng và tâm lý có ảnh hưởng tiêu cực đối với tiến trình xây
dựng CNXH; xây dựng nền văn hóa mới XHCN, tiếp thu giá trị tinh hoa các
nền văn hóa trên thế giới.
- Trong lĩnh vực xã hội: khắc phục những tệ nạn xã hội do xã hội cũ để
lại; từng bước khắc phục sự chênh lệch phát triển giữa các vùng miền, các tầng
lớp dân cư trong xã hội nhằm thực hiện mục tiêu bình đẳng xã hội; xây dựng
mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người theo mục tiêu lý tưởng: tự do của
người này là điều kiện, tiền đề cho sự tự do của người khác.
Tóm lại, TKQĐ lên CNXH là một thời kỳ lịch sử tất yếu trên con đường
phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Đó là thời kỳ lịch
sử có đặc điểm riêng với những nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội

đặc thù mà giai đoạn xã hội XHCN trên con đường phát triển của hình thái kinh
tế - xã hội CSCN chỉ có thể đạt được trên cơ sở hoàn thành các nội dung đó.
4. Khả năng quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa
Phân tích tính chất và đặc điểm của chủ nghĩa tư bản trong thới kỳ tự
do cạnh tranh, C.Mác và Ph. Ăngghen đã nêu ra khả năng quá độ lên chủ
nghĩa cộng sản ở các nước lạc hậu khi cách mạng vô sản ở các nước Tây Âu
giành được thắng lợi.
Khi phân tích đặc điểm của chủ nghĩa tư bản trong thời kỳ độc quyền,
phát triển ra quy luật phát triển không đều về kinh tế và chính trị của chủ
nghĩa tư bản, V.I.Lênin rút ra kết luận quan trọng về khả năng thắng lợi của
chủ nghĩa xã hội ở một số nước riêng lẻ chứ không thể thắng lợi cùng một lúc
ở tất cả cả nước. Khi chủ nghĩa xã hội thắng lợi ở một nước, thì nhân loại bắt
đầu bước vào thời đại mới- thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi
toàn thế giới. Trong điều kiện đó, các nước lạc hậu có thể quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Theo V.I.Lênin, điều kiện để
một nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là:

7


-Thứ nhất, điều kiện bên trong, có Đảng cộng sản lãnh đạo giành được
chính quyền và sử dụng chính quyền nhà nước công, nông, trí thức liên minh
làm điều kiện tiên quyết để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
-Thứ hai, điều kiện bên ngoài, có sự giúp đỡ của giai cấp vô sản của
các nước tiên tiến đã giành thắng lợi trong cách mạng vô sản.
Các nước lạc hậu có khả năng quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế
độ tư bản chủ nghĩa nhưng không phải là quá độ trực tiếp, mà phải qua con
đường gián tiếp với một loạt những bước quá độ thích hợp, thông qua “chính
sách kinh tế mới”. Chính sách kinh tế mới là con đường quá độ gián tiếp lên
chủ nghĩa xã hội, được áp dụng ở Liên Xô từ mùa xụân 1921 thay cho “chính

sách cộng sản thời chiến” được áp dụng trong nhửng năm nội chiến và can
thiệp vũ trang của chủ nghĩa đế quốc.
Nội dung cơ bản của “chính sách kinh tế mới” bao gồm:
- Dùng thuế lương thực thay cho trưng thu lương thực thừa trong
chính sách cộng sản thời chiến.
- Thiết lập quan hệ hàng hóa tiền tệ, phát triển thị trường , thương
nghiệp... thay cho Chính sách cộng sản thời chiến.
- Sử dụng nhiều thành phần kinh tế, các hình thức kinh tế quá độ,
khuyến khích phát triển kinh tế cá thể, kinh tế tư bản tư nhân thay cho sự thủ
tiêu kinh doanh tư nhân trong chính sách cộng sản thời chiến, sử dụng củ
nghĩa tư bản nhà nước , chuyển các xí nghiệp nhà nước sang chế độ hạch toán
kinh tế, chủ trương phát triển qua hệ kinh tế với các nước phương Tây để
tránh thủ vốn, kỹ thuật...
“Chính sách kinh tế” mới có ý nghĩa to lớn. Về thực tiễn, nhờ có chính
sách đó nước Nga Xôviết đã làm khôi phục nhanh chóng nền kinh tế sau
chiến tranh, khắc phục được khủng hoảng kinh tế và chính trị. Về lý luận, nó
phát triển nhận thức sâu sắc về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội.
Ở nước ta từ khi bước vào thời kỳ đổi mới, những quan điểm kinh tế
của Đảng ta đã thể hiện sự nhận thức và vận dụng “ chính sách kinh tế mới”
của V.I.Lênin phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của thời kỳ quá độ ở
nước ta.
8


CHƯƠNG 2: VẬN DỤNG CỦA VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ
ĐỘ LÊN CNXH
1-Tính tất yếu và đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một tất yếu lịch sử.

Bởi vì:
- Một là, phát triển theo con đường xã hội chủ nghĩa là phù hợp với quy
luật khách quan của lịch sử. Loài người đã phát triển qua các hình thái kinh
tế- xã hội: công xã nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ
nghĩa. Sự biến đổi của các hình thái kinh tế- xã hội là quá trình lịch sử tự
nhiên và hình thái kinh tế- xã hội sau cao hơn, tiến bộ hơn hình thái kinh tếxã hội trước nó. Sự biến đổi của các hình thái kinh tế- xã hội nói trên đều tuân
theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát
triển của lực lượng sản xuất.
Cho dù ngày nay, chủ nghĩa tư bản đang nắm nhiều ưu thế về vốn, khoa
học, công nghệ và thị trường, đang cố gắng điều chỉnh trong chừng mực nhất
định quan hệ sản xuất để thích nghi với tình hình mới, nhưng không vượt ra
khỏi những mâu thuẫn vốn có của nó, đặc biệt là mâu thuẫn giữa tính chất xã
hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất. Mâu thuẫn này không những không dịu
đi mà ngày càng phát triển gay gắt và sâu sắc. Sự phát triển mạnh mẽ của lực
lượng sản xuất và xã hội hóa lao động làm cho các tiền đề vật chất, kinh tế, xã
hội ngày càng chín muồi cho sự phủ định chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của xã
hội mới - chủ nghĩa xã hội. Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của loài
người. Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ
nghĩa xã hội.
- Hai là, phát triển theo con đường chủ nghĩa xã hội không chỉ phù hợp
với xu thế của thời đại, mà còn phù hợp với đặc điểm của cách mạng Việt
9


Nam: cách mạng dân tộc, dân chủ gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ trước hết là giải phóng dân tộc, giành độc
lập, tự do, dân chủ... đồng thời nó là tiền đề để “ làm cho nhân dân lao động
thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no, và
sống một đời hạnh phúc”, nhằm thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã

hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Vì vậy, cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa
là sự tiếp tục hợp lôgíc cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, làm cho cách mạng
dân tộc, dân chủ được thực hiện triệt để.
Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu đối với mọi quốc gia đi
lên chủ nghĩa xã hội, nhưng nó lại có đặc điểm riêng đối với mỗi quốc gia ; do
điều kiện xuất phát riêng của mỗi quốc gia quy định. Trước đây, miền Bắc
nước ta bước vào thời kỳ quá độ với “đặc điểm lớn nhất là từ một nước nông
nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn
phát triển tư bản chủ nghĩa”. Khi cả nước thống nhất cùng tiến lên chủ nghĩa
xã hội, đặc điểm trên vẫn còn tồn tại. Phân tích rõ hơn thực trạng kinh tế,
chính trị của đất nước, trong cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng cộng sản Việt Nam khẳng định: “nước ta quá
độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã hội vốn là thuộc địa,
nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước trải qua hàng chục năm
chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư thực dân phong kiến
còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại chế độ xã hội
và nền độc lập của nhân dân ta”
Như vậy, đặc điểm đặc trưng bao trùm nhất của thời kỳ quá độ ở nước
ta là bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Nhưng, thế nào là bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa? Gỉai quyết vấn đề này có ý nghĩa lớn cả về nhận thức và hoạt động
thực tiễn.
Sẽ là sai lầm và phải trả giá nếu quan niệm “bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa” theo kiểu phủ định sạch trơn, đem đối lập chủ nghĩa xã hội với chủ
nghĩa tư bản, bỏ qua cả những cái “không thể bỏ qua” như đã từng xảy ra ở
10


các nước xã hội chủ nghĩa trước đây. Vì vậy, báo cáo chính trị tại Đại hội
Đảng IX Đảng cộng sản Việt Nam đã nói rõ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là
“bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng

tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại
đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về khoa học công nghệ để
phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại”.
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa thực chất là phát triển theo con đường
“rút ngắn” quá trình lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng “rút ngắn” không phải là đốt
cháy giai đoạn, duy ý chí, coi thường quy luật, như muốn xóa bỏ nhanh sở
hữu tư nhân và các thành phần kinh tế “phi chủ nghĩa xã hội” hoặc coi nhẹ
sản xuất hàng hóa,... Trái lại, phải tôn trọng quy luật khách quan và biết vận
dụng sáng tạo vào điều kiện cụ thể của đất nước, tận dụng thời cơ và khả năng
thuận lợi để tìm ra con đường, hình thúc, bước đi thích hợp. Phát triển theo
con đường “rút ngắn” là phải biết kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã
đạt được ở chủ nghĩa tư bản không chỉ về lực lượng sản xuất mà cả về quan
hệ sản xuất, cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng, như Lênin đã nói về chủ
nghĩa xã hội ở nước Nga với kỹ thuật hiện đại trong các tơrớt của Mỹ và nghệ
thuật quản lý trong ngành đường sắt ở Đức
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng không thể thực hiện quá độ trực
tiếp lên chủ nghĩa xã hội mà phải qua con đường gián tiếp, qua việc thực hiện
hàng loạt các hình thức quá độ. Sự cần thiết khách quan và vai trò tác dụng
của hình thức kinh tế quá độ được Lênin phân tích sâu sắc trong lý luận về
chủ nghĩa tư bản nhà nước. Thực hiện các hình thức kinh tế quá độ, các khâu
trung gian... vừa có tác dụng phát triển nhanh chóng lực lượng sản xuất, vừa
cần thiết để chuyển từ các quan hệ tiền tư bản lên chủ nghĩa xã hội, nó là
hình thúc vận dụng các quy luật kinh tế phù hợp với điều kiện cụ thể.
Tóm lại, xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở
nước ta tạo ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là quá
trình rất khó khăn, phức tạp, tất yếu “phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài
11


với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất

quá độ”. Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là con
đường rút ngắn để xây dựng đất nước văn minh, hiện đại. Nhưng khả năng
tiền đề để thực hiện con đường đó như thế nào? Phân tích tình hình đất nước
và thời đại cho thấy mặc dù kinh tế còn lạc hậu, nước ta vẫn có khả năng và
tiền đề để quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Về khả năng khách quan
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang phát triển như vũ
bão và toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, mở rộng quan hệ kinh tế
quốc tế trở thành tất yếu; nó mở ra khả năng thuận lợi để khắc phục những
hạn chế của nước kém phát triển như thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, khả năng
và kinh nghiệm quản lí yếu kém ..., nhờ đó ta có thể thực hiện “ con đường rút
ngắn”.
Thời đại ngày nay, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là xu hướng khách quan
của loài người. Đi trong dòng chảy đó của lịch sử, chúng ta đã, đang và sẽ
nhận được sự đồng tình, ủng hộ ngày càng mạnh mẽ của loài người, của các
quốc gia độc lập đang đấu tranh để lựa chọn con đường phát triển tiến bộ của
mình.
Về những tiền đề chủ quan
Nước ta có nguồn lao động dồi dào với truyền thống lao động cần cù và
thông minh, trong đó đội ngũ làm khoa học, công nghệ, công nhân lành nghề
có hàng chục ngàn người ... là tiền đề rất quan trọng để tiếp thu, sử dụng các
thành tựu khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới. Nước ta có nguồn tài
nguyên đa dạng, vị trí địa lí thuận lợi và những cơ sở vật chất - kĩ thuật đã
được xây dựng là những yếu tố hết sức quan trọng để tăng trưởng kinh tế.
Những tiền đề vật chất trên tạo điều kiện thuận lợi để mở rộng hợp tác kinh tế
quốc tế, thu hút vốn đầu tư, chuyển giao công nghệ, tiếp thu kinh nghiệm
quản lí tiên tiến của các nước phát triển.

12



Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội không những phù hợp với quy luật phát
triển lịch sử mà còn phù hợp với nguyện vọng của tuyệt đại đa số nhân dân
Việt Nam đã chiến đấu, hi sinh không chỉ vì độc lập dân tộc mà còn vì cuộc
sống ấm no, hạnh phúc, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Những yêu cầu ấy chỉ có chủ nghĩa xã hội mới đáp ứng được. Quyết tâm của
nhân dân sẽ trở thành lực lượng vật chất để vượt qua khó khăn, xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, một Đảng giàu tinh thần cách mạng và sáng tạo, có đường lối đúng đắn
và gắn bó với nhân dân, có Nhà nước xã hội Chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân ngày càng được củng cố vững mạnh và khối đại đoàn kết toàn dân, đó là
những nhân tố chủ quan vô cùng quan trọng bảo đảm thắng lợi côngcuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2- Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH
2.1 Quá trình cách mạng và những bài học kinh nghiệm
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đã có nhiều cố gắng nghiên
cứu, tìm tòi, xây dựng đường lối, xác định đúng mục tiêu và phương hướng
xã hội chủ nghĩa. Nhưng Đảng đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm
quy luật khách quan: nóng vội trong cải tạo xã hội chủ nghĩa, xóa bỏ ngay nền
kinh tế nhiều thành phần; có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công
nghiệp nặng; duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao
cấp; có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương.
Công tác tư tưởng và tổ chức cán bộ phạm nhiều khuyết điểm nghiêm trọng.
Tại Đại hội lần thứ VI, Đảng đã tự phê bình và đề ra đường lối đổi mới. Đại
hội VI là cột mốc lịch sử quan trọng trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa của nhân dân ta. Công cuộc đổi mới qua hơn bốn năm đã đạt những
thành tựu bước đầu rất quan trọng. Tình hình kinh tế - xã hội có chuyển biến
tích cực, tạo thế đi lên và khẳng định con đường chúng ta đang đi là đúng.


13


Tuy nhiên khó khăn còn nhiều, đất nước chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội.
Từ thực tiến cách mạng với những thành công và khuyết điểm, sai lầm,
có thể rút ra những bài học lớn: Một là, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên suốt quá trình cách mạng nước ta. Độc
lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo
đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ
quốc vẫn là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ hữu cơ với nhau. Toàn Đảng,
toàn dân tiếp tục nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, ngọn
cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và
các thế hệ mai sau. Hai là, sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân
và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên thắng lợi lịch sử. Toàn bộ
hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chân chính của
nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân, quan
liêu, mệnh lệnh, xa rời nhân dân sẽ đưa đến những tổn thất không lường được
đối với vận mệnh của đất nước. Ba là, không ngừng củng cố, tăng cường đoàn
kết; đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc
tế. Đoàn kết là truyền thống quý báu và là bài học lớn của cách mạng nước ta
như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết. "Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,
Thành công, thành công, đại thành công!" Bốn là, kết hợp sức mạnh dân tộc
với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế.
Ngày nay, trước cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc
lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội, trước sự phát triển vũ bão của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và quá trình quốc tế hóa mạnh mẽ
nền kinh tế thế giới, càng cần phải kết hợp chặt chẽ yếu tố dân tộc với yếu tố
quốc tế, yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại để đưa đất nước tiến lên. Năm
là, sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu bảo đảm thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự

Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo và góp
14


phần phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng
làm giàu trí tuệ, bản lĩnh chính trị và năng lực tổ chức của mình để đủ sức giải
quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương
của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng
và chống được những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự
thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên.
2.2 Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đang diễn ra mạnh
mẽ, cuốn hút tất cả nước ở mức độ khác nhau. Nền sản xuất vật chất và đời
sống xã hội đang trong quá trình quốc tế hóa sâu sắc, ảnh hưởng lớn tới nhịp
độ phát triển lịch sử và cuộc sống các dân tộc. Những xu thế đó vừa tạo thời
cơ phát triển nhanh cho các nước, vừa đặt ra những thách thức gay gắt, nhất là
đối với những nước lạc hậu về kinh tế. Trong quá trình hình thành và phát
triển. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác đã đạt những thành tựu to
lớn về nhiều mặt, đã từng là chỗ dựa cho phong trào hòa bình và cách mạng
thế giới, cho phong trào hòa bình và cách mạng thế giới, cho việc đẩy lùi
nguy cơ chiến tranh hạt nhân, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh vì hòa
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Nhưng, do duy trì quá lâu
những khuyết tật của mô hình cũ của chủ nghĩa xã hội, chậm trễ trong cách
mạng khoa học và công nghệ, nhiều nước xã hội chủ nghĩa đã lâm vào khủng
hoảng trầm trọng. ở một số nước, đảng cộng sản và công nhân không còn nắm
vai trò lãnh đạo; chế độ xã hội đã thay đổi. Các thế lực đế quốc lợi dụng
những sai lầm và khó khăn đó đẩy mạnh cuộc phản kích quyết liệt nhằm xóa
bỏ các nước xã hội chủ nghĩa. Mâu thuẫn giữa chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
tư bản đang diễn ra gay gắt. Trước mắt, chủ nghĩa tư bản còn có tiềm năng
phát triển kinh tế, nhờ ứng dụng những thành tựu mới của khoa học và công

nghệ, cải tiến phương pháp quản lý, thay đổi cơ cấu sản xuất, điều chỉnh các
hình thức sở hữu và chính sách xã hội. Tuy vậy, chủ nghĩa tư bản vẫn là một
chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư
15


bản giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ
chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa ngày càng sâu sắc. Mâu thuẫn giữa các
tầng lớp nhân dân rộng rãi với giai cấp tư sản, giữa các tập đoàn tư bản độc
quyền, các công ty xuyên quốc gia, các trung tâm tư bản lớn tiếp tục phát
triển. Mâu thuẫn giữa các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển
ngày càng tăng lên. Chính sự vận động của tất cả những mâu thuẫn đó và
cuộc đấu tranh của nhân dân lao động các nước sẽ quyết định số phận của chủ
nghĩa tư bản. Các nước độc lập dân tộc và các nước đang phát triển phải tiến
hành cuộc đấu tranh rất khó khăn và phức tạp, chống nghèo nàn và lạc hậu,
chống chủ nghĩa thực dân mới dưới mọi hình thức, chống sự can thiệp và xâm
lược của chủ nghĩa đế quốc nhằm bảo vệ độc lập và chủ quyền dân tộc. Nhân
dân các nước đang đứng trước những vấn đề toàn cầu cấp bách có liên quan
đến vận mệnh loài người. Đó là giữ gìn hòa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh,
bảo vệ môi trường sống, hạn chế sự bùng nổ về dân số, phòng ngừa và đẩy lùi
những bệnh tật hiểm nghèo. Việc giải quyết những vấn đề đó đòi hỏi sự hợp
tác và tinh thần trách nhiệm cao của tất cả các dân tộc. Đặc điểm nổi bật trong
giai đoạn hiện nay của thời đại là cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc gay go,
phức tạp của nhân dân các nước vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội. Chủ nghĩa xã hội hiện đứng trước nhiều khó khăn, thử thách. Lịch
sử thế giới đang trải qua những bước quanh co; song, loài người cuối cùng
nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hóa của lịch sử.
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản, từ một xã
hội vốn là thuộc địa, nửa phong kiến, lực lượng sản xuất rất thấp. Đất nước
trải qua hàng chục năm chiến tranh, hậu quả để lại còn nặng nề. Những tàn dư

thực dân, phong kiến còn nhiều. Các thế lực thù địch thường xuyên tìm cách
phá hoại chế độ xã hội chủ nghĩa và nền độc lập dân tộc của nhân dân ta.
Nhưng chúng ta cũng có những thuận lợi: chính quyền thuộc về nhân dân,
nước nhà đi vào giai đoạn hòa bình xây dựng. Dân tộc ta là một dân tộc anh
hùng, có ý chí vươn lên mãnh liệt. Nhân dân ta có lòng yêu nước nồng nàn,
16


cần cù lao động và sáng tạo. Chúng ta đã xây dựng được một số cơ sở vật chất
ban đầu. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, cùng với xu thế
quốc tế hóa đời sống kinh tế thế giới là một thời cơ để phát triển. Quá độ lên
chủ nghĩa xã hội trong tình hình đất nước và thế giới như trên, chúng ta phải
tiếp tục nâng cao ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng vật chất và trí
tuệ của dân tộc đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi,
hình thức và biện pháp thích hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Xã
hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng làm một xã hội: - Do nhân dân
lao động làm chủ. - Có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu. - Có nền
văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. - Con người được giải phóng khỏi
áp bức, bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc
sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân. - Các
dân tộc trong nước bình đẳng, đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. - Có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Để
thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh theo con đường xã hội chủ nghĩa,
điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế - xã hội kém
phát triển, chiến thắng những lực lượng cản trở việc thực hiện mục tiêu đó,
trước hết là các thế lực thù địch chống độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, cần nắm vững
những phương hướng cơ bản sau đây:
- Một là, xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa, nhà nước của nhân dân,

do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng cộng sản lãnh đạo. Thực hiện
đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên
chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân.
-Hai là, phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo
hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là
nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của
17


chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải
thiện đời sống nhân dân.
-Ba là, phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng
bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về
hình thức sở hữu. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định
hướng xã hội chủ nghĩa, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước. Kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng
của nền kinh tế quốc dân. Thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối
theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu.
-Bốn là, tiến hành chính sách xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực tư tưởng và
văn hóa làm cho thế giới quan Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí
chỉ đạo trong đời sống tinh thần xã hội. Kế thừa và phát huy những truyền
thống văn hóa tốt đẹp của tất cả các dân tộc trong nước, tiếp thu những tinh
hoa văn hóa nhân loại, xây dựng một xã hội dân chủ, văn minh vì lợi ích chân
chính .
3-Nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong thời kì qúa độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam :
Thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội là thời kì cải biến cách mạng sâu
sắc, triệt để, toàn diện xã hội cũ thành xã hội mới. Về kinh tế, những nhiệm
vụ cơ bản là :

3.1. Phát triển lực lượng sản xuất, coi công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kì quá độ nhằm xây
dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội:.
Ngày nay, cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội phải thể hiện
được những thành tựu tiên tiến nhất của khoa học và công nghệ, đặc biệt là
công nghệ thông tin và công nghệ sinh học. Chỉ khi lực lượng sản xuất phát
triển đến trình độ cao mới tạo ra được năng suất lao động cao trong toàn bộ
nền kinh tế quốc dân, nhờ đó những mục tiêu và tính ưu việt của chủ nghĩa xã
hội mới được thực hiện ngày càng tốt hơn trên thực tế.
18


Qúa độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, khi đất
nước ta chưa có tiền đề về cơ sở vật chất - kĩ thuật của chủ nghĩa xã hội do
chủ nghĩa tư bản tạo ra; do đó phát triển lực lượng sản xuất nói chung, công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng trở thành nhiệm vụ trung tâm của suốt thời
kì quá độ. Nó có tính chất quyết định đối với thắng lợi của chủ nghĩa xã hội ở
nước ta.
Nhiệm vụ không kém phần quan trọng khác của phát triển lực lượng
sản xuất, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là phát triển nguồn
lực con người - lực lượng sản xuất cơ bản của đất nước, yếu tố cơ bản của
tăng trưởng kinh tế, tạo đội ngũ lao động có khả năng sáng tạo, tiếp thu, sử
dụng, quản lí có hiệu quả các thành tựu khoa học, công nghệ hiện đại. Vì vậy,
phải phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của con người Việt
Nam, coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và
động lực của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là “ quốc sách hàng đầu” trong
chiến lược phát triển đất nước.
3.2. Xây dựng từng bước quan hệ sản xuất mới theo đinh hướng xã
hội chủ nghiã:
Chế độ công hữu tư liệu sản xuất chủ yếu là đặc trưng của quan hệ sản

xuất xã hội chủ nghiã; nó là sản phẩm của nền kinh tế phát triển với trình độ
xã hội hoá cao, các lực lượng sản xuất hiện đại, nó sẽ chiếm ưu thế tuyệt đối
khi chủ nghĩa xã hội được xây dựng xong về cơ bản. Vì vậy, không thể nôn
nóng, vội vàng, duy ý chí trong việc xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội
chủ nghĩa. Nó chỉ được hình thành trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội
lâu dài, qua nhiều bước, nhiều hình thức từ thấp đến cao.
Như vậy, xây dựng quan hệ sản xuất mới định hướng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta phải đảm bảo các yêu cầu sau đây :
Một là, quan hệ sản xuất mới được xây dựng phải dựa trên kết quả của
sự phát triển lực lượng sản xuất, “ bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ

19


sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất
mới”.
Hai là, quan hệ sản xuất biểu hiện trên ba mặt: sở hữu tư liệu sản xuất,
tổ chức quản lí và phân phối sản phẩm, do đó, quan hệ sản xuất mới phải
được xây dựng một cách đồng bộ cả ba mặt đó.
Ba là, tiêu chuẩn căn bản để đánh giá tính đúng đắn của quan hệ sản
xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa là ở hiệu quả của nó: thúc đẩy
phát triển lực lượng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, thực hiện công
bằng xã hội.
Trong thời kì quá độ ở nước ta, tất yếu còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu,
hình thành nhiều thành phần kinh tế với những hình thức tổ chức sản xuất,
kinh doanh đa dạng, đan xen, hỗn hợp. Do đó, xây dựng quan hệ sản xuất
định hướng xã hội chủ nghĩa đồng thời phải tôn trọng và sử dụng lâu dài và
hợp lí cơ cấu kinh tế nhiều thành phần.
3.3. Mở rộng và nâng cao hiệu quả của quan hệ kinh tế quốc tế ;
Nền kinh tế nước ta không thể khép kín mà phải tích cực mở rộng và

ngày càng nâng cao hiệu quả của quan hệ kinh tế quốc tế.
Toàn cầu hoá kinh tế và cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại tạo ra
những thách thức và nguy cơ cần phải đề phòng, khắc phục; mặt khác, tạo ra
cho nước ta những cơ hội, thuận lợi cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước theo con đường “ rút ngắn”. Đó là thu hút các nguồn vốn từ bên
ngoài, nhập được các loại công nghệ hiện đại và những kinh nghiệm quản lí
tiên tiến ... nhờ đó, khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước, đẩy mạnh
tốc độ phát triển kinh tế, thu hẹp khoảng cách lạc hậu so với các nước khác.
Đó là sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Để mở rộng và nâng cao hiệu quả quan hệ kinh tế quốc tế, phải nâng
cao sức cạnh tranh quốc tế, khai thác thị trường thế giới, tối ưu hoá cơ cấu
xuất - nhập khẩu, đa dạng hoá quan hệ kinh tế với các tổ chức và các quốc gia
trong khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, phải xử lí đúng mối quan hệ giữa mở
rộng kinh tế quốc tế với độc lập tự chủ, bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia, giữ
gìn bản sắc văn hoá dân tộc với kế thừa, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại ...
20


KẾT LUẬN
Thời kỳ quá đo lên chủ nghĩa xã hội là một thời kỳ lịch sử tất yếu trên
con đường phát triển của hình thái kinh tế - xã họi cộng sản chủ nghĩa. Đó là
thời kỳ lịch sử có đặc điểm riêng với nội dung kinh tế, chính trị, văn hóa và xã
hội đặc thù mà giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa trên con đườngphát triển của
hình thái kinh tế - xã hội công sản chủ nghĩa chỉ có được trên cơ sở hoàn
thành các nội dung đó.
Đảng và nhà nước ta với mục tiêu kết thúc thời kỳ quá độ là: “Xây
dựng xong về cơ bản những cơ sở kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc
thượng tầng về chính trị và tư tưởng, văn hóa phù hợp làm cho nước ta trở
thành nước xã họi chủ nghĩa phồn vinh “. Và trong giai đoạn hiện nay, sau khi
kết thúc chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ, chúng ta bắt đầu bước vào

thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa với mục tiêu tổng quát tới
năm 2020 là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp, có cơ sở vật chất
kĩ thuật hiên đại, cơ cấu kinh tế phù hợp, hợp lý quan hệ sản xuất tiến bộ hợp
với trình độphát triển lực lượng sản xuất. Đời sống vật chất, tinh thần cao, an
ninh quốc phòng vững chắc, dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
văn minh. Để đạt được điều đó, tất cả chúng ta sẽ cùng cố gắng để có thể thực
hiện được ước mơ to lớn ấy, tìm thấy ánh sáng của nền văn minh nhân loại.

21


MỤC LỤC

22



×