Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

CÁC CHUYÊN ĐỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM LỚN MẠNH TRONG THỜI ĐẠI HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.93 KB, 11 trang )

BÀI TẬP LỚN MÔN :
CÁC CHUYÊN ĐỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
XÂY DỰNG GIAI CẤP CÔNG NHÂN VIỆT NAM LỚN MẠNH
TRONG THỜI ĐẠI HIỆN NAY
Trong tiến trình cách mạng Việt Nam, kể từ khi Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời, giai cấp công nhân Việt Nam đã tỏ rõ vai trò tiên
phong của mình trong cách mạng của dân tộc, đúng như Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã khẳng định: “Với lý luận cách mạng tiên phong và kinh nghiệm
của phong trào vô sản quốc tế, giai cấp công nhân ta đã tỏ ra là người
lãnh đạo xứng đáng nhất và đáng tin cậy nhất của nhân dân Việt Nam”.
Đảng ta đã xác định, mục tiêu phấn đấu của chúng ta đến năm
2020 là đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo
hướng hiện đại. Do vậy, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước phải được đẩy nhanh, đẩy mạnh hơn nữa. Chính điều đó đặt ra cho
giai cấp công nhân Việt Nam những đòi hỏi mới, những thử thách mới
phải vượt qua.
Sự phát triển của giai cấp công nhân hiện nay nhìn chung chưa
đáp ứng được cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá và hội nhập
kinh tế quốc tế. Chính vì vậy, chúng ta cần phải nhận thức được sự cần
thiết xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh trong thời đại
hiện nay để giúp giai cấp công nhân thấy được sứ mệnh lịch sử và khắc
phục những tồn tại yếu kém để đủ sức đảm nhiệm được sứ mệnh của
mình.
Để đi vào vấn đề này, trước hết nên hiểu rõ về khái niệm “giai cấp
công nhân”. Giai cấp công nhân là một tập đoàn xã hội ổn định, hình
1


thành và phát triển cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp
hiện đại, với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội
hóa ngày càng cao; là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong các quy


trình công nghệ, dịch vụ công nghiệp, trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia
vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các quan
hệ xã hội; đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản xuất tiên
tiến trong thời đại hiện nay.
Mác và Ăngghen đã dùng nhiều thuật ngữ khác nhau như giai cấp
vô sản, giai cấp xã hội hoàn toàn chỉ dựa vào việc bán sức lao động của
mình, lao động làm thuê ở thế kỷ XIX, giai cấp vô sản hiện đại, giai cấp
công nhân hiện đại, giai cấp công nhân đại công nghiệp... như những
cụm từ đồng nghĩa để biểu thị khái niệm giai cấp công nhân - con đẻ của
nền đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa, giai cấp đại biểu cho lực lượng
sản xuất tiên tiến, cho phương thức sản xuất hiện đại. Sau khi cách mạng
vô sản thành công, giai cấp công nhân không còn ở địa vị giai cấp bị bóc
lột nữa, mà nó đã trở thành giai cấp thống trị, giai cấp lãnh đạo cuộc đấu
tranh cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, đại biểu cho toàn thể nhân
dân lao động, làm chủ những tư liệu sản xuất cơ bản đã được công hữu
hoá.
Như chúng ta đã biết, mỗi giai cấp trong từng thời kỳ, từng xã hội
đều có những vai trò, những nhiệm vụ, những sứ mệnh nhất định, và giai
cấp công nhân cũng vậy. Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là toàn
bộ những nhiệm vụ cách mạng tất yếu mà giai cấp công nhân có thể cần
phải thực hiện nhằm thủ tiêu chế độ xã hội cũ lỗi thời, thiết lập một chế
độ xã hội mới tiến bộ hơn. Những nhiệm vụ lịch sử ấy không chỉ là phù
hợp với lợi ích của giai cấp có sứ mệnh lịch sử mà điều cơ bản còn là do
2


chính địa vị kinh tế - xã hội khách quan của giai cấp đó quy định. Cụ
thể, sứ mệnh của giai cấp công nhân là xóa bỏ chủ nghĩa tư bản, xây
dựng chủ nghĩa cộng sản – một xã hội dựa trên chế độ công hữu những
tư liệu sản xuất chủ yếu, không còn tình trạng người bóc lột người, giải

phóng giai cấp công nhân và nhân dân lao động khỏi ách áp bức bóc lột.
Giai cấp công nhân Việt Nam, mà tuyệt đại bộ phận là xuất thân từ
nông dân lao động và những tầng lớp lao động khác, nên có mối liên hệ
tự nhiên với đông đảo nhân dân lao động bị mất nước, sống nô lệ nên
cũng là điều kiện thuận lợi để giai cấp công nhân xây dựng nên khối liên
minh công nông vững chắc và khối đoàn kết dân tộc rộng rãi bảo đảm
cho sự lãnh đạo của giai cấp công nhân trong suốt quá trình cách mạng ở
nước ta.
Lịch sử Việt Nam cũng chứng minh rằng, giai cấp công nhân Việt
Nam ra đời chưa được bao lâu ngay nhưng cũng đã nhận được sự ủng hộ
của đông đảo quần chúng. Cuộc bãi công của 600 thợ nhuộm ở Chợ Lớn
năm 1922 mà Nguyễn ái Quốc coi đó mới chỉ là “do bản năng tự vệ" của
những người công nhân "không được giáo dục và tổ chức" nhưng đã là
“dấu hiệu... của thời đại". Từ năm 1928-1929 có nhiều cuộc bãi công
khác với hàng nghìn người tham gia, trong đó tiêu biểu nhất là cuộc đấu
tranh của công nhân xi măng Hải Phòng, sợi Nam Định, xe lửa Trường
Thi (Vinh), Phú Riềng (Bình Phước). Những cuộc đấu tranh như thế đã
tác động sâu sắc đến các tầng lớp khác, đặc biệt là đến giai cấp nông
dân, các tầng lớp nhân dân lao động, làm cho bọn thống trị thực dân
hoảng sợ.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ
nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước ở
3


nước ta vào đầu năm 1930 của thế kỷ XX. Đảng đã đem yếu tố tự giác
vào phong trào công nhân, làm cho phong trào cách mạng nước ta có
một bước phát triển nhảy vọt về chất. Giai cấp công nhân Việt Nam lãnh
đạo cách mạng thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt
Nam. Để có thể lãnh đạo, giai cấp công nhân phải có lực lượng, có tổ

chức tiêu biểu cho sự tự giác và bản chất giai cấp của mình. Lực lượng
đó là Đảng Cộng sản. Xét về thành phần xuất thân thì nước ta có nhiều
đảng viên không phải là công nhân. Nhưng, bất cứ đảng viên nào cũng
phải đứng trên lập trường giai cấp công nhân thể hiện ở lý tưởng, ở lý
luận Mác-Lênin và đường lối cách mạng, ở tinh thần kiên quyết cách
mạng trong cuộc đấu tranh để thực hiện sứ mệnh của giai cấp công nhân
vì lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân
tộc. Điều này được Đảng ta khẳng định rất rõ: "Đảng Cộng sản Việt
Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên
phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung
thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc".
Trong công cuộc xây dựng đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội
hiện nay, đội ngũ công nhân Việt Nam bao gồm những người lao động
chân tay và lao động trí óc hoạt động sản xuất trong nhiều ngành nghề,
nhiều doanh nghiệp, tạo thành một lực lượng giai cấp công nhân thống
nhất, đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh. Họ là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, là cơ sở xã hội chủ yếu nhất của Đảng và Nhà
nước ta, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công nhân - nông dân trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết toàn dân tộc

4


Giai cấp công nhân nước ta hiện nay có hơn 10 triệu người, chiếm
khoảng 21% dân số. Qua gần 30 năm đổi mới, đội ngũ công nhân ngày
càng tăng nhanh cả về lượng lẫn chất, hoạt động ngày càng đa dạng
trong nhiều lĩnh vực: sản xuất kinh doanh, quản lý kinh tế, phát triển văn
hóa, xã hội, giữ vị trí chủ lực xây dựng đất nước trong thời kỳ đẩy mạnh
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Về cơ cấu thành phần kinh tế, công nhân trong các doanh nghiệp
nhà nước chỉ giữ một số lượng và tỷ lệ thấp hơn (1,83 triệu, chiếm
40,8%) so với công nhân của khu vực ngoài nhà nước (2,68 triệu chiếm
59,2%). Tỷ lệ công nhân nhà nước tỷ lệ nghịch với tốc độ và quy mô đổi
mới doanh nghiệp nhà nước đang diễn ra mạnh mẽ trong mấy năm gần
đây dưới sức ép của nhu cầu nâng cao hiệu quả kinh doanh và năng lực
cạnh tranh của kinh tế quốc tế. Hậu quả tất yếu nhưng không mong
muốn của tiến trình này là hiện có hơn 150000 người vốn là công nhân
nhà nước, nay thuộc diện dư dôi, thất nghiệp.
Về cơ cấu ngành nghề, giai cấp công nhân nước ta thường làm
việc trong những ngành công nghiệp truyền thống: luyện kim, cơ khí,
điện. Trong thời kỳ đổi mới, công nhân làm trong các ngành dịch vụ
(giao thông vận tải, bưu điện, viễn thông, ngân hàng...) đã tăng lên
nhanh cùng với tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đáng chú
ý là đã xuất hiện một bộ phận mới là công nhân tri thức, những người có
tri thức và kỹ năng cao, tạo ra những sản phẩm dịch vụ có hàm lượng giá
trị chất xám cao như tư vấn, thiết kế, quản lý... Số công nhân có trình độ
cao đẳng, đại học ở nước ta chiếm trên 150000 người (khoảng 3,3%).
Xu hướng phát triển của bộ phận công nhân tri thức sẽ tăng nhanh
cùng với mức độ phát triển của kinh tế tri thức nước ta. Chính sự đa
5


dạng, phức tạp về nguồn gốc, cơ cấu, sự không đồng nhất về chất lượng
và sự phân hoá, phân tầng trong nội bộ giai cấp, giữa các bộ phận công
nhân trong các ngành nghề và thành phần kinh tế, đã làm suy yếu tính
thống nhất, sức mạnh đoàn kết và địa vị xã hội của giai cấp công nhân
hiện nay. Tuy vậy, sự xuất hiện và ngày càng lớn mạnh về số lượng và
chất lượng của bộ phận công nhân tri thức ở nước ta hiện nay là một
trong những yếu tố cơ bản tiếp tục đảm bảo cho sứ mệnh lịch sử của giai

cấp công nhân Việt Nam trong giai đoạn phát triển hiện nay.
Về kinh tế, ngoài bộ phận nhỏ công nhân trí thức có thu nhập cao,
bộ phận công nhân trong các doanh nghiệp nhà nước ở một số lĩnh vực
có tính độc quyền, có mức thu nhập khá, còn lại phần lớn công nhân
nước ta có mức thu nhập rất thấp.
Về chính trị - xã hội, công nhân chưa có địa vị bằng tầng lớp tri
thức, công chức. Trong các doanh nghiệp nhà nước, quyền lực và vai trò
của công nhân còn bị hạn chế. Trong các doanh nghiệp tư nhân và doanh
nghệp có vốn đầu tư nước ngoài, tổ chức Đảng và các tổ chức quần
chúng thiếu hụt hoặc hạn chế hoạt động , công nhân thường bị giới chủ
chèn ép, quản lý chặt chẽ; họ có rất ít khả năng đấu tranh với các ông
chủ dù chỉ nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
Trình độ học vấn và văn hoá của công nhân tuy cao hơn nông dân
nhưng lại bị thiệt thòi hơn so với nhiều giai tầng khác. Do bộ phận công
nhân nhà nước thường phải làm thêm nghề phụ để tăng thu nhập nên tác
phong công nghệp chưa cao. Công nhân trong khu vực kinh tế tư nhân,
khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có kỷ luật cao hơn song thường phải
tăng ca, làm thêm giờ để kiếm sống nên ít có thời gian và điều kiện để
học tập, phát triển bản thân. Ý thức giai cấp, ý thức Đảng trong bộ phận
6


công nhân này nói chung thấp. Công nhân tri thức cũng có xu hướng
chịu làm thuê đến khi đủ mạnh để tách ra lập tổ chức kinh doanh của
mình để trở thành ông chủ, thầy hay chuyên gia độc lập. Trong khi nhiều
trí thức, tiểu tư sản trải qua sự rèn luyện và công tác mà có bản chất giai
cấp công nhân thì nhiều người xuất thân từ công nhân khi được đề bạt
lên lãnh đạo, quản lý lại để mai một bản chất giai cấp của mình. Tỷ lệ
giai cấp công nhân trong các cấp uỷ, nhất là cấp cao, cấp Trung ương
thường không đạt như mong muốn và kế hoạch phấn đấu chủ yếu là do

chưa đáp ứng được các yêu cầu, tiêu chuẩn của cán bộ lãnh đạo thời kỳ
đổi mới của Đảng.
Cùng với sự phát triển của mình, giai cấp công nhân Việt Nam
cũng tồn taị không ít hạn chế trên nhiều phương diện :
- Thứ nhất, có thể thấy trình độ văn hoá, tay nghề thấp và không
đồng dều, mất cân đối giữa các bộ phận công nhân. Trình độ kỹ thuật,
kiến thức quản lý kinh tế, khả năng nghề nghiệp của công nhân còn thấp
so với yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
- Bên cạnh đó, bộ phận công nhân xuất thân từ nông thôn chiếm
đại đa số trong giai cấp công nhân. Họ mang theo lối suy nghĩ, tầm nhìn
của người nông dân vào trong giai cấp công nhân. Người công nhân Việt
Nam chưa được rèn luyện nhiều trong nền kinh tế công nghiệp và quan
hệ cạnh tranh, phát huy tính sáng tạo cá nhân và tập thể trong môi
trường công nghiệp và thị trường còn hạn chế.
- Vấn đề lớn nhất nổi lên trong các năm qua là, giai cấp công nhân
chưa thể đóng vai trò chủ đạo trong đời sống xã hội, nhất là trong sản
xuất, kinh doanh, phân phối. Một phần, vì người công nhân chưa có thói
quen và năng lực làm chủ, nhiều cơ quan lãnh đạo trong các nhà máy, xí
7


nghiệp và ngoài xã hội chưa tôn trọng quyền làm chủ của giai cấp công
nhân. Thậm chí, có nơi quyền dân chủ của công nhân còn bị vi phạm
nghiêm trọng. Đây là mặt yếu rất đặc trưng của giai cấp công nhân ở
những nước chưa có công nghiệp hiện đại. Tình hình làm việc ngày một
căng thẳng, lương không đủ sống, người công nhân phải vật lộn với cuộc
sống hàng ngày, phải xoay xở bằng mọi cách để tồn tại; khi người công
nhân chưa làm chủ được bản thân mình thì khó có thể làm chủ được nhà
máy, xí nghiệp và xã hội. Công nhân nước ta chưa được tôi luyện nhiều
trong môi trường kinh tế, khoa học công nghệ và cạnh tranh. Vai trò của

giai cấp công nhân trong phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội còn chưa đạt
được mức độ cần thiết.
- Một bộ phận trong giai cấp chưa có trình độ chính trị, phẩm chất
giai cấp giảm, kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp kém, thậm chí bị
thoái hoá và tha hoá nghiêm trọng về lao động, phẩm chất giai cấp và lối
sống.
Chúng ta không phủ nhận những nhược điểm của giai cấp công
nhân Việt Nam đã nêu trên, mà nguồn gốc sâu xa là ở trình độ phát triển
kinh tế chưa cao ở nước ta trong thời kỳ quá độ. Nhưng điều đó không
thể là lý do để phủ nhận sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhânViệt
Nam. Để khắc phục những nhược điểm ấy, Nghị quyết hội nghị lần 7
Ban Chấp hành Trung ương khoá VII của Đảng, gắn trực tiếp vấn đề
công nghiệp hoá, hiện đại hoá với vấn đề xây dựng, phát triển giai cấp
công nhân đã chỉ rõ phương hướng xây dựng giai cấp công nhân nước ta
trong giai đoạn hiện nay là: “ Cùng với quá trình phát triển công nghiệp
và công nghệ theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần
xây dựng giai cấp công nhân phát triển về số lượng, giác ngộ về giai cấp,
8


vững vàng về chính trị, tư tưởng, có trình độ học vấn và tay nghề cao, có
năng lực tiếp thu và sáng tạo công nghệ mới, lao động đạt năng suất,
chất lượng, hiệu quả cao, vươn lên làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình”.
Công cuộc đổi mới đem lại những thành tựu to lớn, có ý nghĩa
quan trọng. Giai cấp công nhân đang đi đầu trong việc xây dựng xã hội
mới, nhất là trong việc xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa
xã hội nhằm thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ
văn minh. Hơn lúc nào hết, giai cấp công nhân Việt Nam cần vươn lên
để xứng đáng là lực lượng trụ cột của xã hội. Phương hướng củng cố,
phát triển công nhân Việt Nam trong thời đại mới một lần nữa được Đại

hội Đảng thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đặc biệt chú trọng : “Đối
với giai cấp công nhân, coi trọng phát triển về số lượng và chất lượng,
nâng cao giác ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn và nghề nghiệp,
thực hiện “trí thức hoá công nhân”, nâng cao năng lực ứng dụng và sáng
tạo công nghệ mới, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao, xứng đáng là
lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước...”
Để thực hiện thắng lợi mục tiêu “đến năm 2020 nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”, mục tiêu xây dựng
giai cấp công nhân được Đảng ta xác định đến năm 2020 là:
- Xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh, có giác ngộ giai cấp và
bản lĩnh chính trị vững vàng; có ý thức công dân, yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội, tiêu biểu cho tinh hoa văn hoá của dân tộc; nhạy bén và
vững vàng trước những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và tình
hình trong nước; có tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết, hợp tác quốc
tế; thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua
9


đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam. Nói chung, trong các doanh
nghiệp đều có tổ chức cơ sở Đảng, công đoàn, Đoàn Thanh niên Cộng
sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam. Phương
hướng chủ đạo là:
- Chú trọng xây dựng và yêu cầu ngày càng cao với bộ phận công
nhân các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nhà nước.
- Phải đặc biệt chú ý nguồn lực con người, trí tuệ con người gắn
với tổ chức khoa học, chặt chẽ, năng động...
- Quy hoạch và đào tạo lại và đào tạo mới đội ngũ công nhân kỹ
thuật
- Tạo việc làm và sử dụng có hiệu quả trình độ và tay nghề kỹ

thuật của công nhân
- Thường xuyên củng cố, đổi mới hệ thống chính trị trong các
doanh nghiệp nhà nước, tập thể, tư nhân, các tổ chức đảng cộng sản,
chính quyền nhà nước...
Tóm lại, xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn liền với xây
dựng, phát huy sức mạnh của liên minh công - nông - trí thức dưới sự
lãnh đạo của Đảng, giữa giai cấp công nhân với tất cả các tầng lớp xã hội
trong khối đại đoàn kết toàn dân tộc - động lực chủ yếu của sự nghiệp
phát triển đất nước; đồng thời tăng cường quan hệ đoàn kết, hợp tác
quốc tế với giai cấp công nhân quốc tế.
Chiến lược xây dựng giai cấp công nhân lớn mạnh phải gắn chặt với
chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập kinh tế quốc tế. Xử lý
đúng đắn mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ,
công bằng xã hội và chăm lo xây dựng giai cấp công nhân; bảo đảm hài
10


hoà lợi ích giữa công nhân và người sử dụng lao động; không ngừng
nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của công nhân, quan tâm giải quyết
kịp thời những vấn đề bức xúc, cấp bách đặt ra với giai cấp công nhân.
Chính điều đó có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của giai cấp công
nhân. Khi giai cấp công nhân phát triển mạnh mẽ, và với tư cách giai cấp
lãnh đạo xã hội sẽ mở ra cơ hội nước ta thoát khỏi tình trạng nghèo nàn,
lạc hậu, cơ bản là nước công nghiệp vào năm 2020.

11




×