Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

Vai trò của yếu tố bẩm sinh di truyền đến sự hình thành và phát triển nhân cách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (68.19 KB, 12 trang )

VAI TRÒ CỦA YẾU TỐ BẨM SINH DI TRUYỀN ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH VÀ
PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
Nhân cách là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng mối quan hệ
giữa con người với con người từ những chuyện bình thường, mối
quan hệ gia đình, kết giao đến mối quan hệ xã hội, công tác, kinh
doanh. Nhân cách thể hiện qua cách ứng xử của con người đối với
người khác cũng như đối với sự việc trong cuộc sống, đồng thời
nhân cách thể hiện trình độ văn hóa, nhân tính và nguyên tắc sống
của con người. Con người là một thực thể xã hội, vì vậy chất lượng
mối quan hệ xã hội có ảnh hưởng quyết định đối với chất lượng
cuộc sống.
Nhân cách được định hình bởi hệ thống những phẩm giá thể hiện
qua các mối quan hệ của con người xuất phát từ tâm lý, tình cảm,
nhân sinh quan, nhận thức về bản thân và xã hội. Nhân cách là
đặc trưng của từng cá nhân, là bản chất thực của con người. Có
nhiều yếu tố tác động đến sự hình thành và phát triển nhân cách,
trong đó có yếu tố di truyền – bẩm sinh, yếu tố này đóng vai trò là
cái đầu tiền, cái tiền đề cho nhân cách ở mỗi người.
NỘI DUNG
I VAI TRÒ CỦA YẾU TỐ BẨM SINH DI TRUYỀN ĐẾN SỰ HÌNH THÀNH
VÀ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
1 Nhân cách
1.1 Khái niệm nhân cách


Cho đến nay có rất nhiều quan điểm, quan niệm khác nhau về
nhân cách, một số khái niệm thường gặp:
Quan điểm thứ nhất thì nhân cách là toàn bộ những thuộc tính đặc
biệt mà một cá thể có được trong hệ thống các quan hệ xã hội,
trên cơ sở hoạt động và giao lưu nhằm chiếm lĩnh các giá trị văn
hóa vật chất và tinh thần. Những thuộc tính đó bao hàm các thuộc


tính về trí tuệ, đạo đức, thẩm mỹ, vật chất.
Theo Bách khoa toàn thư Liên Xô, nhân cách được thể hiện ở hai
mặt: thứ nhất là con người với tư cách là chủ thể của các mối quan
hệ và hoạt động có ý thức, thứ hai là một hệ thống giá trị có ý
nghĩa xã hội đặc trưng cho cá thể trở thành một nhân cách.
Mặc dù các quan điểm, định nghĩa trên có khác nhau nhưng nhìn
chung có sự thống nhất khi xem xét nhân cách, đó là:
Những phẩm chất và năng lực có giá trị đối với cá nhân và xã hội
được hình thành và phát triển bằng hai con đường chủ yếu là hoạt
động và giao lưu.
Mỗi cá nhân có một nhân cách riêng bao gồm hai mặt: mặt tự
nhiên và mặt xã hội, trong đó mặt xã hội có ý nghĩa quan trọng
đặc biệt, thể hiện đặc thù về nhân cách của mỗi con người.
Nhân cách là tổng hợp những phẩm chất, năng lực không thành
bất biến của cá nhân mà nó thường xuyên vận động, biến đổi theo
chuẩn mực, giá trị xã hội.
1.2 Đặc điểm của nhân cách


Tính thống nhất của nhân cách: nhân cách là một cấu trúc tâm lý,
tức là một chỉnh thể thông nhất các thuộc tính, đặc điểm tâm lý xã
hội, thông nhất giữa phẩm chất và năng lực, giữa đức và tài.
Tính thống nhất của nhân cách còn thể hiện ở sự thống nhất giữa
ba cấp độ: cấp độ bên trong cá nhân, cấp độ liên cá nhân, cấp đọ
siêu cá nhân. Đó chính là sự thống nhất giữa tâm lý, ý thức với
hoạt động giao tiếp của nhân cách.
Thứ hai là tính ổn định của nhân cách: là những hiện tượng tâm lý
tương đối ổn định và bền vững. Nhân cách là tập hợp những thuộc
tính tâm lý tạo thành bộ mặt tâm lý xã hội của cá nhân, phần nào
nói lên bản chất xã hội của họ. Vì thế các đặc điểm nhân cách

cũng như cấu trúc nhân cách khó hình thành và cũng khó mất đi
Thứ ba: tính tích cực của nhân cách được biểu hiện trước tiên ở
việc xác định một cách tự giác mục đích hoạt động, tiếp đó là sự
chủ động tự giác thực hiện các hoạt động, giao tiếp nhằm hiện
thực hóa mục đích. Ở đây, nhân cách bộc lộ khả năng tự điều
chỉnh và chịu sự điều chỉnh của xã hội, đâu cũng là biểu hiện tích
cực của nhân cách.
Tùy theo mức độ và loại hình hoạt động mà mục đích của nó được
nhân cách xác định là nhận thức hay cải tạo thế giới, nhận thức
hay cải tạo chính bản thân mình. Giá trị đích thực của nhân cách,
chức năng xã hội và cốt cách làm người của cá nhân thể hiện rõ
nét tính tích cực của nhân cách. Tính tích cực của nhân cách cũng
biểu hiện rõ trong quá trình thỏa mãm các nhu cầu của nó. Không
chỉ thỏa mãn với các đối tượng có sẵn, con người luôn luôn tạo ra


các đối tượng mới, các phương thức thỏa mãn mới những nhu cầu
ngày càng cao của họ. Quá trình đó luôn là quá trình hoạt động có
mục đích tự giác, trong đó con người làm chủ được những hình
thức hoạt động của mình.
Thứ tư là tính giao lưu của nhân cách. Nhân cách chỉ có thể hình
thành, phát triển, tồn tại và thể hiện trong hoạt động và trong mối
quan hệ giao lưu với những nhân cách khác. Nhu cầu giao lưu
(giao tiếp) được xem như là một nhu cầu bẩm sinh của con người.
Thông qua quan hệ giao tiếp với người khác, con người gia nhập
các quan hệ xã hội, lĩnh hội các chuẩn mực đạo đức và hệ thống
giá trị xã hội. Đồng thời, cũng qua giao tiếp mà con người được
đánh giá, được nhìn nhận theo quan hệ xã hội. Điều quan trọng là
qua giao tiếp, con người đóng góp các giá tị nhân cách của mình
cho người khác, cho xã hội.

1.3 Sự phát triển nhân cách
Con người từ khi mới sinh ra chưa có sự định hình về nhân cách.
Dần dần theo thời gian, tác động của quá trình sống, tất yếu mỗi
con người phải hoạt động, giao lưu thông qua học tập, lao động,
vui chơi, giải trí… ngày càng tích lũy được những kinh nghiệm mà
nhân loại tích lũy được trong các loại hoạt động, từ đó biến thành
vốn sống của cá nhân. Đó chính là quá trình hình thành và phát
triển nhân cách của con người. Sự phát triển đó được biểu hiện
qua các dấu hiệu sau: sự phát triển về mặt thể chất (tăng trưởng
về chiều cao, trọng lượng, cơ bắp, sự hoàn thiện các chức năng
giác quan; sự phát triển về mặt tâm lý thể hiện sự biến đổi cơ bản
trong quá trình nhận thức, xúc cảm, tình cảm, nhu cầu, ý chí…; sự
phát triển về mặt xã hội thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử trong


các mối quan hệ vơi người xung quanh, ở tính tích cực nhận thức
tham gia vào các hoạt động cải biến, phát triển xã hội.
Như vậy, sự phát triển nhân cách là một quá trình cải biến toàn bộ
các sức mạnh về vật chất và tinh thần cả về lượng và chất; có tính
đến đặc điểm của mỗi lứa tuổi. Sự tăng trưởng về lượng và sự biến
đổi về chất không chỉ diễn ra đối với các mặt thể chất, tâm lý và
xã hội do quá trình hoạt động, giao lưu trong cuộc sống cá nhân ,
do tác động của hiện thực xung quanh và còn diễn ra với cả những
mầm mống, dấu hiệu được di truyền hay có từ khi mới sinh.
2 Yếu tố bẩm sinh – di truyền
2.1 Thế nào là yếu tố bẩm sinh – di truyền
Trong đời sống, chúng ta dễ dàng nhận thấy người châu Âu da
trắng, mắt xanh, người châu Phi da đen, tóc xoăn, người châu Á
thường da vàng, mắt nâu – đen thì con cái của họ khi mới sinh ra
giống bố mẹ. Đây là sự truyền lại từ cha mẹ đến con cái những đặc

trưng sinh học nhất định của nòi giống, được ghi lại trong chương
trình gen độc đáo bởi hệ thống gen goi là di truyền. Gen là vật
mang mã di truyền những đặc điểm sinh học của giống loài trong
quá trình tồn tại và phát triển theo con đường tiến hóa tự nhiên.
Như vậy, di truyền là sự tái tạo ở trẻ những thuộc tính sinh học
nhất định ghi lại trong cấu trúc gen. Di truyền những đặc trưng
sinh học của cha mẹ truyền lại cho con cái không phải chỉ biểu
hiện một cách hiện hữu khi đứa bé đó mới sinh ra mà có thể có
những mầm mống, tư chất sau một thời gian mới bộc lộ thành dấu
hiệu của một số năng khiếu như: hôi họa, thơ ca, toán học…hoặc
thiểu năng trong một số lĩnh vực của cuộc sống.


Bẩm sinh là những thuộc tính, những dặc điểm sinh học có ngay
khi đứa trẻ mới sinh.
3 Vai trò của yếu tố bẩm sinh di truyền đến sự hình thành và phát
triển nhân cách.
Theo quan niệm của dân gian, mỗi người sinh ra đều thừa hưởng
những tố chất về thể chất cũng như nhân cách của cha mẹ, vì thế
từ xa xưa các cụ đã có câu “con nhà tông không giống lông cũng
giống cánh”, ta thường thấy ở những gia đình có cha mẹ là người
tài giỏi, con cái của họ cũng tài giỏi. Có thể nói ngày từ xưa, cha
ông ta đã nhìn ra vai trò của yếu tố bẩm sinh – di truyền trong sự
phát triển nhân cách của con người. Ngày nay, điều đó đã được
khoa học chứng minh. Vào thời cận đại, Mác đã nói “Con người là
một thực thể sinh học – xã hội”, về sự tồn tại, con người bỏ xa thế
giới động vật trong sự tiến hóa nhưng như vậy không có nghĩa là
con người đã lột bỏ hết cái gọi là tự nhiên – sinh học. Khi nói đến
mặt sinh học, nó vẫn luôn tồn tại hiện hữu trong mỗi cá nhân
giống như cơ thể con người là một thực thể sinh học, có cấu tạo và

hoạt động theo những quy luật để nó có thể thống nhất và hòa
nhập với tự nhiên các thực thể khác, con người chỉ bị nhịp sống xã
hội làm quên đi cái tự nhiên – sinh học trong con người.
Và vì khác với động vật, con người luôn tồn tại trong một xã hội
nên con người tồn tại mặt xã hội nhưng ta không thể phủ nhận vai
trò của các yếu tố sinh học tác động đến cuộc sống của chúng ta.
Một cơ thể hoàn hảo là sự kết hợp giữa yếu tố xã hội và yếu tố
sinh học, con người là thực thể hòa quyện giữa hai yếu tố, thiếu
yếu tố xã hội, con người sẽ không khác gì các loại động vật khác,


thiếu yếu tố sinh học, con người không thể tồn tại như một thực
thể sống. Vấn đề này đã được tranh cãi suốt thời gian dài trước sự
phát triển của khoa học, đặc biệt là sinh vật học và khoa học xã
hội nhân văn với các quan điểm khác nhau.
Theo “chủ nghĩa sinh vật học xã hội” dựa trên quan niệm của chủ
nghĩa tự nhiên khi cho rằng “tất cả những gì của con người do bẩm
sinh mà có, không thể bị thay đổi do các điều kiện xã hội”, theo họ
“sự phát triển của bộ não, sự chuyên trách của bộ não, tốc độ và
tính khuynh hướng của quá trình giáo dục con người được hình
thành trên trái đất, chủ yếu bằng con đường di truyền.”
Những người theo chủ nghĩa xã hội lại nhận định rằng, các hành vi
của con người đều do tư tưởng, ý thức xã hội tạo nên, đồng thời họ
phủ nhận mối liên hệ khách quan giữa hành vi con người với
những điều kiện vật chất của sản xuất và tái sản xuất con người
với tự nhiên.
Như ta đã nói ở trên thì quan điểm của triết học Macxit cho rằng,
trong con người, yếu tố sinh học và xã hội không đối lập mà thống
nhất nhau. Điều này đã được khoa học ngày nay chứng minh là
đúng.

Như vậy, có thể khẳng định yếu tố bẩm sinh – di truyền đóng vai
trò quan trọng, nó đóng vai trò như là tiền đề vật chất cho sự phát
triển nhân cách cá nhân. Trong quá trình sống, con người còn chịu
tác động bởi nhiều yếu tố khác và chúng tác động đến sự hình
thành nhân cách mỗi người. Tuy vậy, các yếu tố đó chỉ đóng vai trò
phát triển thêm chứ không có tính quyết định.


Sức sống, năng lực tiềm tàng ở mỗi người là khác nhau, nó có vai
trò như là nguồn năng lượng cực kì quan trọng cho sự phát triển
của cá nhân, chi phối và để lại dấu ấn rõ nét trong nhân cách con
người, một ví dụ như sau: hai đứa trẻ cùng sinh ra trong cùng một
khoảng thời gian, với điều kiện gia đình là như nhau. Tuy nhiên,
trong quá trình phát triển, đứa trẻ được sinh ra trong gia đình có
bố mẹ đều làm trong làng giải trí lại có thể nói năng nhanh nhẹn,
năng động, hoạt bát và dễ hòa đồng hơn do đó nó có nhiều bạn
bạn bè, làm quen nhanh khi môi trường sống thay đổi hơn đứa trẻ
có bố mẹ làm bác sĩ, điều đó cho thấy vai trò tiền đề vật chất của
yếu tố di truyền – bẩm sinh cho sự phát triển của trẻ.
Lý luận và thực tiễn cho thấy mầm mống, tư chất, năng khiếu để
phát triển thành năng lực, phẩm chất của cá nhân về một lĩnh vực
nào đó có trong con người từ khi mới sinh ra, mang bản chất di
truyền, kế thừa từ các thế hệ trước. Ví dụ như thiên tài Anxtanh,
Anhxtanh có mẹ - bà Pauline Koch, đã tỏ ra có óc thẩm mỹ ngoài
bản tính cần cù, tế nhị, bà hay khôi hài và yêu thích âm nhạc nên
ngoài là một thiên tài về vật lý, toán học Anhxtanh còn là một
người rất có tài vĩ cầm hay cha của Ga – li – lê là một nhà toán học
và chúng ta đều biết sau này ông cũng trở thành một nhà toán
học, nhà vật lý học nổi tiếng. Theo một nghiên cứu của Mỹ cách
đây 2 thế kỷ có một nhà bác học đã tài tên Jonathan Edwards –

nhà thần học, triết học, nhà thuyết giáo nổi tiếng trong đạo tin
lành, người ta tính được con cháu của ông hiện nay đã đến đời thứ
7, 8 trong số đó có 13 người là hiệu trưởng trường đại học, bác sĩ
có hơn 60 người, mục sư hàng trăm người, nhà văn hơn 80 người,
phó tổng thống 1 người, thượng hạ viện hơn 20 người… Có thể nói
đây là một dòng họ cực kỳ danh giá. Ngược lại, một người đàn ông
nghiện rượu tên là Marks Juke, nay con cháu ông cũng đến đời thứ


7, thứ 8 tuy nhiên số người nghèo khổ, thiếu ăn hoen 300 người,
phạm tội và tử hình 7 người, trộm cắp 63 người, tàn phế và nghiện
rượu hơn 400 người…
Thực tế đã cho thấy rằng có rất nhiều ví dụ chứng minh sự ảnh
hưởng của yếu tố di truyền – bẩm sinh đến sự phát triển của cá
nhân. Từ xưa đến nay có nhiều gia đình có cùng một ngành nghề,
nhất là trong lĩnh vực nghệ thuật như gia đình nhạc sĩ “Trần Tiến”,
hay như gia đình của Diva Thanh Lam, Hà Trần, gia đình nữ diễn
viên Lê Khanh…xuất phát từ đó mà dân gian có câu “lấy vợ xem
tong, lấy chồng xem giống”. Ngay trong việc trăm năm của con
người, như các cụ xưa khi kén rể, kén dâu thường xem xét các đời
trước đó, suy nghĩ đó vẫn còn hiện hành trong các cô gái thời hiện
đại khi kén chồng tương lai.
Cuối cùng, nhân cách tác động đến sự hình thành và phát triển
nhân cách nói riêng, sự phát triển của cá nhân nói chung. Di
truyền tạo ra sự khác biệt ở mỗi cá thể người, trước hết ở các loại
hình khí chất, các kiểu hoạt động thần kinh, sau cùng với các yếu
tố khác tạo nên những đặc điểm riêng không chỉ về mặt sinh học
mà cả về tính cách, năng lực của mỗi cá nhân. Tuy nhiên, nếu
chúng ta đề cao quá vai trò của yếu tố di truyền, phủ nhận khả
năng biến đổi bản chất con người, hạ thấp vai trò của giáo dục đến

sự hình thành nhân cách là một sai lầm vì những đứa trẻ sinh ra
mặc dù không được thừa hưởng khả năng bẩm sinh nhưng nếu
được giáo dục đúng cách ở môi trường lành mạnh thì đứa trẻ đó
hoàn toàn có thể thành đạt, ngược lại những đứa trẻ dinh ra trong
gia đình đã có truyền thống về năng khiếu, năng lực nhưng lại
không được giáo dục đúng cách thì tài năng cũng sẽ tự nhiên bị
thui chột.


Mặc dù khẳng định vai trò to lớn của yếu tố sinh học đối với sự
phát triển của cá nhân nhưng khoa học cũng khẳng định: những
đặc điếm sinh học chỉ tạo tiền đề cho sự hình thành và phát triển
nhân cách nới riêng và sự phát triển cá nhân nói chung. Do đó,
khoa học giáo dục phủ nhận quan điểm trong dân gian cho rằng
“cha mẹ sinh con, trời sinh tính”, chỉ đề cao vai trò của di truyền –
bẩm sinh.
II LIÊN HỆ THỰC TIỄN
Trong cuộc sống, có rất nhiều trường hợp cho thấy yếu tố bẩm
sinh, di truyền có ảnh hưởng đến sự hình thành và phát triển nhân
cách. Có thể lấy một ví dụ cụ thể về gia đình của NSND Trần Tiến –
NSND Lê Mai, họ là cặp vợ chồng “trai tài, gái sắc”, không chỉ có
vậy, ba cô con gái của họ - NSND Lê Mai, NSND Lê Khanh, NSND Lê
Vy, họ đều là những người thành công trong sự nghiệp nghệ thuật.
Hay như gia đình của Diva Thanh Lam, người được coi là nữ hoàng
nhạc nhẹ của Việt Nam, sinh ra trong một gia đình “con nhà nòi”,
bố là nhạc sĩ Thuận Yến, mẹ là NSUT Thanh Hương, Thanh Lam
thừa hưởng cả khiếu âm nhạc trời phú của cha và nhan sắc mặn
mà của mẹ, Thanh Lam đã sớm đi theo con đường nghệ thuật.
Thanh Lam đã đi biểu diễn từ khi còn nhỏ, khi cô đứng trên sân
khấu, giọng hát đầy truyền cảm và nội lực của cô đã giúp tất cả

những khán thính giả cũng như những người làm chuyên môn dễ
dàng nhận ra rằng đó là một giọng hát bẩm sinh. Thanh Lam kết
hôn lần thứ hai với nhạc sĩ Quốc Trung, họ đã có hai người con là
Thiện Thanh và Đăng Quang, cả hai đều được thừa hưởng năng
khiếu nghệ thuật từ gia đình nên sớm bộc lộ khả năng nghệ thuật


cua mình. Đây là gia đình cho thấy rõ nhất sự tác động của yếu tố
di truyền – bẩm sinh đến sự phát triển của cá nhân.
Trong y học, người ta biết áp dụng yếu tố bẩm sinh – di truyền vào
việc nuôi cấy thai nhi cho những cặp đôi có vợ vô sinh hoặc chồng
vô sinh, vợ k có khả năng sinh đẻ… Người ta cho nuôi cấy trong
ống nghiệm với sự kết hợp của các cặp tinh trùng – trứng mà
không phải là của bố mẹ. Việc lựa chọn tinh trùng - trứng là của
các ông bố, bà mẹ muốn có con cái với nhiều sự chọn lựa khác
nhau. Ở một số nơi, người ta có những ngân hàng tinh trùng –
trứng đã được mua hay được hiến tặng để kinh doanh do ứng dụng
vai trò của yếu tố bẩm sinh – di truyền. Việc lựa chọn tinh trùng –
trứng từ những ngân hàng đó phải mất phí, họ có đầy đủ thông tin
về người hiến tặng tinh trùng – trứng để làm chỉ tiêu cho việc xác
định giá cả.
Hiện nay, khoa học công nghệ đang phát triển mạnh mẽ, các nhà
khoa học trên thế giới đã tìm ra được phương pháp can thiệp vào
mã di truyền của hệ thống gen nhằm nâng cao kết quả chữa trị
những bệnh hiểm nghèo của con người. Song họ vô cùng lo ngại
rằng, nếu các phương pháp can thiệp vào di truyền, sinh học nhằm
mục đích chính trị thì sẽ vô cùng nguyhiểm, ngược lại với chủ
nghĩa nhân văn thì hậu quả sẽ vê cùng ghê ghớm.
Trong quá trình giáo dục thế hệ trẻ, chúng ta cần quan tâm đúng
mức yếu tố di truyền – bẩm sinh, đó là những mầm mống, tư chất

sinh học có vai trò tiền đề phát triển một số phẩm chất, năng lực
của nhân cách. Tất nhiên, nếu chúng ta quá coi nhẹ hay tuyệt đối
hóa thì cũng sẽ phạm phải sai lầm khi phân tích, so sánh, đánh giá


vị trí, vai trò, tác động của môi trường, hoàn cảnh và của giáo dục
đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách.
Thực tế đã cho thấy rằng, ở nước ta hiện nay vẫn còn khá khó
khăn, sự phân hóa giàu nghèo theo các vùng miền còn lớn. Ở
những vùng núi, có rất nhiều trẻ em, ngay từ nhỏ sinh ra đã có
những tư chất, năng khiếu bẩm sinh về âm nhạc, hội họa, thể
thao, toán học… nhưng do điều kiện, hoàn cảnh sống những đứa
trẻ đó không có đủ điều kiện, cơ hội để phát huy tài năng của
mình, do vậy những năng khiếu đó bị thui chột dần. Nếu những
đứa trẻ đó được giáo dục từ sớm, được sống trong môi trường
thuận lợi, chắc chắn các em sẽ phát huy được tài năng và trở
thành những người tài giỏi. Do đó, Nhà nước cần phải có những
biện pháp, tạo điều kiện tốt nhất cũng như phải quan tâm hơn đến
các em nhỏ ở những vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn để giúp
các em phát triển được năng khiếu của mình, để trở thành những
công dân có ích cho gia đình và xã hội.
KẾT LUẬN
Có thể thấy rằng, nhân cách con người không tự nhiên sinh ra mà
nó được hình thành và phát triển trong suốt cuộc đời của mỗi
người trong đó các yếu tố giáo dục, hoạt động, giao tiếp giữ vai trò
quyết định và tạo thành những con đường cơ bản nhất, còn yếu tố
bẩm sinh đóng vai trò là tiền đề vật chất để hình thành nhân cách.
Các yếu tố này phải được xây dựng theo một hướng nhất định
nhằm hình thành và phát triển nhân cách của mỗi người.




×