Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

Lạm phát, nguyên nhân gây lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (59.37 KB, 9 trang )

Lạm phát, nguyên nhân gây lạm phát và tình hình lạm phát ở Việt Nam
năm 2003
Mỗi nước, mỗi nền kinh tế đều có những căn bệnh vĩ mô chưa khi
nào giải quyết được một cách triệt để như thất nghiệp, lạm phát,
năng suất lao động tăng chậm, cán cân thanh toán thâm hụt triền
miên…Trong đó lạm phát là một vấn đề nổi cộm, hết sức phức tạp
đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian và trí tuệ mới có thể mong muốn
đạt được kết quả khả quan. Chống lạm phát không chỉ là việc của
các doanh nghiệp mà còn là nhiệm vụ của Chính phủ. Lạm phát
ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đến đời sống xã hội,
đặc biệt là giới lao động. Ở nước ta hiện nay, tình hình lạm phát
cũng như các giải pháp chống lạm phát, giữ vững nền kinh tế phát
triển ổn định, cân đối là vấn đề quan trọng trong phát triển kinh tế
xã hội, nâng cao đời sống nhân dân.

NỘI DUNG
I. Lạm phát và nguyên nhân gây lạm phát
1. Lạm phát
Trong một nền kinh tế, lạm phát là sự mất giá trị thị trường hay sức
mua của đồng tiền. Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm
phát là sự phá giá đồng tiền nội tệ so với các loại tiền tệ khác.
Lạm phát nói chung có thể được hiểu là việc giá cả của hàng hóa
tăng lên so với mức thời điểm trước (vật giá leo thang). Cần phải


hiểu việc tăng giá ở đây là tăng giá chung của hầu hết các hàng
hóa dịch vụ, chứ không phải tăng giá một hàng hóa cá biệt.
2. Tỉ lệ lạm phát
Tỷ lệ lạm phát (tiếng Anh: Inflation rate) là tốc độ tăng mặt bằng
giá của nền kinh tế. Nó cho thấy mức độ lạm phát của nền kinh tế.
Thông thường, người ta tính tỷ lệ lạm phát dựa vào chỉ số giá tiêu


dùng (CPI) hoặc chỉ số giảm phát GDP. Tỷ lệ lạm phát có thể được
tính cho một tháng, một quý, nửa năm hay một năm.Tỷ lệ lạm
phát là thước đo tỷ lệ giảm xuống sức mua của đồng tiền. Nó là
một biến số được sử dụng để tính toán lãi suất thực cũng như để
điểu chỉnh mức lương.
3. Nguyên nhân gây lạm phát
Khi giá trị của hàng hóa và dịch vụ tăng lên, đồng nghĩa với sức
mua của đồng tiền giảm đi. Khi đó, với cùng một lượng tiền nhưng
người tiêu thụ mua được ít hàng hóa hơn so với trước đó.
Lạm phát cũng có thể là do khối lượng tiền lưu hành trong xã hội
tăng lên khi Chính phủ không quản lí được khối lượng tiền lưu
hành, hoặc do Chính phủ phát hành thêm tiền để bù đắp thâm hụt
ngân sách. Trong khi đó, số lượng hàng hóa xã hôi sản xuất ra vẫn
không hề tăng, dẫn đến thừa tiền. Khi thừa tiền sẽ kích thích người
tiêu dùng tăng sức mua (tăng cầu) khiến giá cả tăng vọt, có khi
đưa đến siêu lạm phát.
Lạm phát cũng có thể do yếu tố bên ngoài, do dòng tiền nước
ngoài đổ vào trong nước nhiều dẫn đến thừa tiền, hoặc do giá cả


của một số mặt hàng thiết yếu nào đó trên thế giới tăng, chẳng
hạn như giá dầu thô tăng, dẫn đến các nước có nhập khẩu dầu sẽ
tăng giá điện, cước phí vận chuyển hàng hóa cũng tăng. Điện và
cước phí vận chuyển tăng là những chi phí đầu vào chủ yếu của tất
cả các ngành hàng sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, dẫn đến giá
thành sản phẩm tăng theo.
Lạm phát cũng có thể do nhiều nguyên nhân tác động khác nhau,
kể cả chính sách tăng lương của Chính phủ cũng có phần tác động
đến lạm phát, vì tăng lương, người lao động thu nhập được nhiều
tiền hơn và mạnh tay chi tiêu, mua sắm, cầu vượt cung. Ngay cả

trong trường hợp các nhà sản xuất, phân phối bản lẻ đua nhau
khuyến mãi, kích cầu làm cho thị trường tăng sức mua, tạo ra đòn
bẩy cầu tăng vượt cung, dẫn đến thị trường tự điều tiết tăng giá
góp phần gây ra lạm phát, nhất là thời điểm giáp tết.
II. Tình hình lạm phát ở Việt Nam năm 2013
Năm 2013, áp lực lạm phát trong nước được cải thiện không chỉ
bởi quyết tâm thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát theo tinh
thần Nghị quyết 01/NQ-CP và Nghị quyết 02/NQ-CP ngày 7-1-2013
của Chính phủ; bởi xu hướng giảm một số hàng hóa, nhất là giá
lúa, gạo; bởi người dân tiếp tục thắt chặt chi tiêu khi thu nhập eo
hẹp; và bởi sự tiếp tục giảm thuế nhập khẩu, mở cửa thị trường
theo cam kết trong ASEAN, WTO; giảm thuế thu nhập doanh
nghiệp và lãi suất ngân hàng, cũng như các nỗ lực giảm giá khác
của danh nghiệp.
Tuy nhiên cũng như mọi năm, CPI những tháng cuối năm 2013 chịu
nhiều áp lực truyền thống, như chu kì tăng giá cuối năm gắn với


đẩy mạnh các hoạt động kinh tế để hoàn tất hợp đồng và các dịp
lễ, tết và tổng kết của các đơn vị, tổ chức xã hội. Hơn nữa, năm
2013, chu kì truyền thống này đã xuất hiện sớm, khi mức tăng CPI
cao trở lại ngay trong tháng 7 so với thời điểm thường chỉ từ cuối
quý 3 hằng năm do chịu áp lực mưa bão, đặc biệt là do áp lực tăng
giá điện (điều chỉnh từ ngày 1-8-2013), giá than cho sản xuất điện
(20-4-2013), giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở khám
chữa bệnh của nhà nước, giá dịch vụ giáo dục ( học phí), dịch vụ
văn hóa, nhà ở…
CPI cuối năm còn chịu thêm áp lực từ sự mất cân đối thu- chi ngân
sách nhà nước các cấp, với mức bội chi trong chín tháng qua đã
lên tới con số 100 nghìn tỉ đồng; trong khi trái phiếu Chính phủ

đang khó bán so với đầu năm. Tăng trưởng và tiêu dùng kinh tế ở
dưới tiềm năng có thể tạo sức ép cao nới lỏng chính sách tiền tệ và
tài khóa, kể cả việc tăng mua ngoại tệ để cải thiện dự trữ ngoại hối
quốc gia, dẫn đến gia tăng áp lực về lạm phát tiền tệ và cầu kéo.
Ngoài ra, những căng thẳng và xung đột quân sự khu vực có thể
tạo áp lực về dự trữ và giá xăng dầu thế giới, từ đó có tác động
xấu đến giá xăng dầu trong nước và CPI cả nước cuối năm. CPI
trong nước cũng chịu áp lực lạm phát ngoại nhập, do lạm phát khu
vực và thế giới. Theo dự bão của Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) tháng 72013, lạm phát tại các nước mới nổi và đang phát triển sẽ là 6,0%
trong năm 2013 (tăng 0,1% so với dự báo tháng 4) và đạt 5,5%
trong năm 2014 (giảm 0,1% so với dự báo tháng 4).
Theo báo Dân trí số ra ngày 30/8/2013 , tại báo cáo trình Chính
phủ trong tháng 8-2013, Ủy ban Giám sát Tài chính Quốc gia
(UBGSTCQG) cho rằng, tình hình lạm phát cho đến thời điểm này


vẫn đang tiếp tục được kiểm soát ở mức thấp so với các năm
trước.
So với đầu năm, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) 8 tháng đã tăng 3,53%.
Trong đó, CPI tháng 8 tăng cao hơn tháng trước ở mức 0,83% chủ
yếu do tác động của việc điều chỉnh giá (giá xăng dầu trong tháng
7 và giá dịch vụ y tế tại Hà Nội tăng mạnh trên 60%).
Vừa rồi, nhóm thuốc và dịch vụ y tế trong cả nước có mức tăng cao
đột biến xấp xỉ 55% (dịch vụ y tế tăng 75,79%). Riêng trong mức
tăng 3,16% của CPI Hà Nội tháng 8/2013, nếu loại trừ yếu tố xăng
dầu và y tế, CPI sẽ chỉ tăng khoảng 0,5%.
Tính toán bóc tách thành phần mùa vụ, UBGSTCQG cho thấy, việc
điều chỉnh giá hàng hóa cơ bản và dịch vụ, tỷ giá và dịch vụ công
(y tế, giáo dục) là nhân tố chính chi phối lạm phát của năm nay.
Cụ thể, trong tháng 8, lạm phát so với cùng kỳ ở mức khá cao so

với các tháng trước (7,5%) nhưng lạm phát loại trừ yếu tố mùa vụ
(xăng dầu, điện, dịch vụ công) chỉ ở mức 3,43%.
Theo UBGSTCQG, nếu không có những thay đổi về giá các mặt
hàng cơ bản thì nhiều khả năng lạm phát cả năm 2013 sẽ vào
khoảng 5% (cao hơn so với mức tương ứng 4,3%) của năm 2012.
Do đó, để đạt mục tiêu CPI cả năm không vượt quá mức 7%, công
tác điều hành giá cả trong nững tháng cuối năm sẽ có tính quyết
định. UBGSTCQG khuyến nghị Chính phủ, việc điều chỉnh giá các
mặt hàng cơ bản và dịch vụ công cần có sự điều phối thống nhất,
có bước đi và lộ trình thích hợp.


Ngoài ra, Ủy ban cũng đánh giá, ở chỉ tiêu tăng trưởng GDP, việc
thực hiện mục tiêu 5,5% trong năm 2013 là một thách thức lớn,
nhiều khả năng tăng trưởng GDP cả năm 2013 chỉ ở mức 5,3%.
Như vậy, về tổng thể, có thể khẳng định CPI năm 2013 chắc chắn
là sẽ không quá 9% và sẽ giảm dần sau đó, ở mức 7% năm 2014
sẽ và giảm xuống 6,5% trong năm tiếp theo.
Thực tế theo thống kê vào thời điểm cuối năm 2013, lạm phát
được ghi nhận là mức tăng thấp nhất trong suốt 10 năm qua, với
mức tăng chỉ số tiêu dùng 6,04% so với cuối năm 2012 (6,81%).
Đó là con số được công bố tại Hội nghị trực tuyến của Chính phủ
với các địa phương diễn ra ngày 23.12.2013.
Báo cáo trước Chính phủ của Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư
(KH-ĐT) Bùi Quang Vinh cho thấy, lạm phát được kiềm chế, chỉ số
gia tăng thấp, góp phần đảm bảo kinh tế vĩ mô ổn định. Về tốc độ
tăng trưởng GDP, qua thống kê đã có sự gia tăng qua từng quý, cụ
thể, GDP cả nước ước tính tăng 5,421%, thấp hơn kế hoạch đề ra
là 5,5 % nhưng cao hơn năm 2012 (5,25%).
Đánh giá tổng quan về tình hình kinh tế-xã hội năm 2013, theo bộ

KH-ĐT, bên cạnh kết quả đạt được vẫn còn tồn tại một số yếu kém,
hạn chế như: tái cơ cấu các tổ chức tín dụng triển khai chậm và
gặp nhiều khó khăn; nợ xấu của hệ thống ngân hàng cần được xử
lý, tỷ lệ nợ xấu vẫn còn ở mức cao; thị trường chứng khoán và thị
trương bất động sản giảm mà chưa có nhiều cải thiện; tiến độ sắp
xếp, đổi mới doanh nghiệp nhà nước chậm…Đặc biệt, tăng trưởng
xuất khẩu đạt 132,2 tỷ USD, tăng 15,4% so với chỉ tiêu 10% được


giao, nhưng chủ yếu dựa vào khu vực FDI và thấp hơn 2012 (mức
18,2 %).
III. Các giải pháp kiềm chế lạm phát
Để kiềm chế lam phát một cách hiệu quả trong thời gian tới, Nhà
nước cần thực hiện những biện pháp cụ thể như sau.
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện chính sách tiền tệ linh hoạt, chính
sách tài khóa chặt chẽ. Điều hành lãi suất phù hợp với mục tiêu
kiểm soát lạm phát. Tăng dư nợ tín dụng phù hợp và bảo đảm chất
lượng tín dụng. Điều hành hiệu quả tỷ giá, thị trường ngoại hối, thị
trường vàng, bảo đảm giá trị đồng tiền Việt Nam. Đẩy mạnh xuất
khẩu, kiểm soát nhập khẩu. Tăng dự trữ ngoại hối. Thúc đẩy phát
triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán. Tăng cường quản lý
ngân sách nhà nước, tập trung chống thất thu, thực hiện triệt để
tiết kiệm, kiên quyết cắt giảm các khoản chi chưa thật cần thiết.
Tăng cường quản lý thị trường, giá cả, tiếp tục thực hiện cơ chế giá
thị trường đối với các mặt hàng, dịch vụ công thiết yếu như điện,
than, xăng dầu, nước, dịch vụ y tế... theo lộ trình phù hợp, bảo
đảm yêu cầu kiểm soát lạm phát, công khai minh bạch và có hỗ
trợ cho các đối tượng chính sách, người nghèo.
Thứ hai, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tháo gỡ khó khăn cho
doanh nghiệp. Chính phủ cũng cần có giải pháp cụ thể, giúp doanh

nghiệp chuẩn bị và nâng cao tính cạnh tranh trong môi trường kinh
doanh ngày càng cởi mở và tiệm cận với chuẩn mực quốc tế. Mặc
dù các bước cải cách doanh nghiệp nhà nước đã được thực hiện từ
nhiều năm, nhưng tốc độ còn chậm và hiệu quả còn thấp. Vì thế,
các chương trình thoái vốn đầu tư ngoài ngành, cổ phần hóa doanh


nghiệp cần phải được Chính phủ chỉ đạo thực hiện nhanh và mạnh
hơn trong năm 2014. Cùng với đó, giải quyết hiệu quả hơn vấn đề
nợ xấu, hoàn thành cơ bản việc tái cấu trúc hệ thống ngân hàng,
khơi thông dòng vốn tín dụng cho doanh nghiệp.
Thứ ba, thúc đẩy phát triển thị trường trong nước và tiếp tục khai
thác tìm kiếm mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hóa mang lại
hiệu quả cao cho nền kinh tế. Trong những năm tới, cần xác định
đầy đủ thách thức và lợi thế khi Việt Nam gia nhập Hiệp định Đối
tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) để từ đó tập
trung đầu tư phát triển mạnh những mặt hàng có lợi thế cạnh
tranh với thuế suất giảm sâu.
ThứTư, thực hiện nghiêm Chỉ thị số 30/CT-TTg ngày 26/11/2013
của Thủ tướng Chính phủ về việc thực hành tiết kiệm chống lãng
phí. Theo đó, các cơ quan quản lý cần kiểm tra và rà soát kỹ các
quy định, văn bản trước khi ban hành để tránh có lỗ hổng làm thất
thu, lọt thuế. Bên cạnh đó, phải tăng cường kiểm tra, giám sát để
kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm đối với các doanh nghiệp thực
hiện hành vi chuyển giá gây thất thu cho ngân sách nhà nước, ảnh
hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế. Thực hiện tiết kiệm chi tiêu
sao cho phù hợp với tình hình khó khăn hiện nay theo hướng ưu
tiên cho các chương trình giảm nghèo, nông thôn mới. Bội chi ngân
sách cần được kiểm soát chặt chẽ, nâng bội chi phải đi đôi với đầu
tư công hiệu quả để tránh lạm phát. Rà soát những khoản chi

thường xuyên không hợp lý, gây lãng phí. Bảo đảm tính hiệu quả
và nâng cao chất lượng các khoản chi trong đó có chi cho phúc lợi
xã hội.


Thứnăm, việc điều chỉnh giá các mặt hàng cơ bản và dịch vụ công
cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành liên quan và lộ trình
hợp lý về thời điểm tăng giá, mức tăng giá.Lạm phát rất nhạy cảm,
thường không bền vững, dễ bị phá vỡ và nếu bùng phát trở lại sẽ
rất khó kiểm soát. Do vậy, cần tập trung kiểm soát lạm phát ngay
cả khi vẫn ở mức thấp để tránh rủi ro cho những năm tới.
KẾT LUẬN
Như vậy, năm 2013 là 1 bước tiến mới trên con đường đẩy lùi lạm
phát, khắc phục tình trạng kinh tế chậm phát triển. Kinh tế ổn
định sẽ làm tiền đề cơ sở cho sự thành công của các thành tựu
trong lĩnh vực giáo dục, khoa học, chính trị…Để đảm bảo cho sự
phát triển bền vững Đảng và Nhà nước cần nghiêm túc xem xét lại
mô hình kinh tế vừa qua và sớm định hướng một mô hình mới,
cùng những thể chế hỗ trợ phù hợp, nếu không các cuộc cải cách
sẽ không có mục tiêu thực sự và Việt Nam sẽ bỏ lỡ cơ hội đi tới
tương lai bằng con đường bằng phẳng. Với những giải pháp nêu
trên, cùng với những kết quả bước đầu trong điều hành của Chính
phủ năm qua, chúng ta có thể hy vọng CPI sẽ đạt được mục tiêu
của Quốc hội đề ra trong năm 2014.



×