Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Trọng tài thương mại - một hình thức giải quyết tranh chấp thương mại ..9 điểm.doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.16 KB, 16 trang )

A. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Trong thời đại kinh tế thị trường hiện nay, khi các doanh nghiệp ngày càng có điều
kiện được thành lập với nhiều hình thức khác nhau và trong nhiều ngành nghề khác
nhau thì việc liên kết, hợp tác hay thậm chí là cạnh tranh nhau đang ngày càng trở nên
phổ biến. Bên cạnh những hợp đồng hợp tác, những giao kết “thuận buồm xuôi gió”
vẫn còn tồn tại khá nhiều những mâu thuẫn, bất đồng thậm chí vi phạm quyền lợi lẫn
nhau giữa các doanh nghiệp. Từ đó gây ra những thiệt hại cho các bên và cho cả nền
kinh tế thị trường. Tranh chấp thương mại là một hiện tượng phổ biến và thường xuyên
diễn ra trong hoạt động của nền kinh tế thị trường. Do tính chất thường xuyên cũng
như hậu quả của nó gây ra cho các chủ thể tham gia tranh chấp nói riêng và cho cả nền
kinh tế nói chung, pháp luật Việt Nam cũng đã sớm có những quan tâm nhất định đến
hoạt động này, cũng như các phương thức giải quyết nó thể hiện thông qua các quy
định cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật. Chính vì vậy, thuật ngữ “tranh chấp thương
mại” hay “tranh chấp kinh doanh” đã là thuật ngữ quen thuộc trong đời sống kinh tế xã
hội ở các nước trên thế giới và mới được sử dụng rộng rãi, phổ biến ở nước ta trong
nhiều năm gần đây.
Trọng tài thương mại là một trong bốn hình thức cơ bản để giải quyết tranh chấp
thương mại được quy định ở hầu hết các nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam. Khi
phát sinh tranh chấp, doanh nghiệp lựa chọn hình thức trọng tài thương mại sẽ có rất
nhiều ưu điểm như: doanh nghiệp được lựa chọn tổ chức trọng tài, địa điểm, ngôn ngữ,
thời gian tiến hành các hoạt động tố tụng của trọng tài. Ngoài ra, việc xét xử bằng hình
thức trọng tài còn giữ được bí mật cho các chủ thể tham gia tranh chấp, đảm bảo uy tín
của các chủ và có tính minh bạch cao trong xét xử. Và cuối cùng, quyết định của trọng
tài có giá trị chung thẩm và có hiệu lực cưỡng chế ngay. Tuy nhiên, trọng tài thương
mại vẫn là phương thức giải quyết tranh chấp chưa được phổ biến hiện nay. Tại sao
vậy?. Bài tiểu luận dưới đây xin được phân tích và giới thiệu rõ hơn về vấn đề “Trọng
tài thương mại - một hình thức giải quyết tranh chấp thương mại”.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ.
I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRỌNG TÀI THƯƠNG MẠI.
1. Khái niệm trọng tài thương mại
Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp khá phổ biến trên


thế giới, nhất là tại các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Tại Việt Nam, tuy mới
được hình thành nhưng trọng tài cũng được khuyến khích sử dụng trong một loạt các
luật như Luật Thương mại, Luật Đầu tư, Luật Doanh nghiệp, Bộ luật Hàng hải v.v …
Hiện nay, Việt Nam đã có Luật trọng tài thương mại 2010 là văn bản quy định khá chi
1
tiết về trọng tài, trình tự giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Theo đó trọng tài thương
mại “là phương thức giải quyết tranh chấp do các bên thoả thuận và được tiến hành
theo quy định của Luật này” (khoản 1 Điều 3 Luật trọng tài thương mại 2010).
Cũng giống như các phương thức giải quyết tranh chấp khác, việc giải quyết
tranh chấp bằng trọng tài cũng có một số nguyên tắc nhất định. Một trong những
nguyên tắc cơ bản của trọng tài đó là thẩm quyền được hình thành từ ý chí thoả thuận
của các bên tranh chấp. Ý chí đó thường được thể hiện dưới dạng các thoả thuận bằng
văn bản hay thoả thuận trọng tài. “Thoả thuận trọng tài là thoả thuận giữa các bên về
việc giải quyết bằng Trọng tài tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh” (khoản 2
Điều 3 Luật trọng tài thương mại).
Thoả thuận trọng tài là một thoả thuận đặc biệt bởi nó quy định việc giải quyết
tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bằng trọng tài mà thoả thuận trọng tài nằm ngay
trong chính hợp đồng đó. Thoả thuận này, trong hầu hết các trường hợp, phải được lập
bằng văn bản. Tuy nhiên, hình thức bằng văn bản có thể thể hiện dưới nhiều dạng khác
nhau, có thể được ký kết, trao đổi qua thư, telex, điện tín hay fax trao đổi giữa hai bên,
hoặc bất kì phương tiện nào khác mà chứng minh được sự tồn tại của thoả thuận đó.
2. Các hình thức trọng tài thương mại:
Trọng tài thương mại tồn tại dưới hai hình thức, đó là trọng tài vụ việc (trọng tài ad-
hoc) và trọng tài thường trực.
2.1. Trọng tài vụ việc
Trọng tài vụ việc là phương thức trọng tài do các bên tranh chấp thành lập để giải
quyết vụ tranh chấp giữa các bên và trọng tài sẽ tự chấm dứt tồn tại khi giải quyết xong
vụ tranh chấp.
Trọng tài vụ việc là hình thức trọng tài xuất hiện sớm nhất, được sử dụng rộng
rãi ở các nước trên thế giới. Pháp luật về trọng tài của các nước trên thế giới đều ghi

nhận sự tồn tại của hình thức trọng tài này. Tuy nhiên, quy định của pháp luật các nước
về hình thức trọng tài này cũng ở mức độ sâu, rộng khác nhau.
Bản chất của trọng tài vụ việc được thể hiện qua các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, trọng tài vụ việc chỉ được thành lập khi phát sinh tranh chấp và tự
chấm dứt hoạt động (tự giải thể) khi giải quyết xong tranh chấp.
Tính chất “vụ việc” hay “lâm thời” của hình thức trọng tài này thể hiện ở chỗ trọng tài
chỉ được thành lập theo thoả thuận của các bên tranh chấp để giải quyết vụ tranh chấp
cụ thể giữa các bên. Hình thức trọng tài này chỉ tồn tại và hoạt động trong thời gian
giải quyết vụ tranh chấp giữa hai bên, khi giải quyết xong vụ tranh chấp, trọng tài tự
chấm dứt hoạt động.
2
Thứ hai, trọng tài vụ việc không có trụ sở thường trực, không có bộ máy điều
hành ( vì chỉ được thành lập để giải quyết vụ tranh chấp theo sự thoả thuận của các
bên) và không có danh sách trọng tài viên riêng.
Trọng tài viên được các bên chọn hoặc được chỉ định có thể là người có tên trong hoặc
ngoài danh sách trọng tài viên của bất cứ trung tâm trọng tài nào.
Thứ ba, trọng tài vụ việc không có quy tắc tố tục dành riêng cho mình.
Trọng tài vụ việc chỉ được các bên thành lập khi phát sinh tranh chấp nên quy tắc tố
tụng để giải quyết vụ tranh chấp phải được các bên thoả thuận xây dựng. Tuy nhiên, để
tránh lãng phí thời gian cũng như công sức đầu tư vào việc xây dựng quy tắc tố tụng,
các bên tranh chấp có thể thoả thuận lựa chọn bất kì một quy tắc tố tung phổ biến nào,
mà thông thường là quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài có uy tín ở trong nước
va quốc tế.
2.2. Trọng tài thường trực
Ở các nước trên thế giới, trọng tài thường trực thường được tổ chức dưới những
hình thức đa dạng như: các trung tâm trọng tài, các hiệp hội trọng tài hay các viện
trọng tài nhưng chủ yếu và phổ biến được tổ chức dưới dạng các trung tâm trọng tài.
Theo pháp luật Việt Nam, trọng tài thường trực được tổ chức dưới dạng các trung tâm
trọng tài. Ta có định nghĩa: Trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, có tư cách
pháp nhân, có con dấu, có tài khoản riêng và có trụ sở giao dịch ổn định.

Từ khái niệm về trung tâm trọng tài trên, ta có thể đưa ra một số đặc trưng cơ bản về
hình thức trọng tài này như sau:
Thứ nhất, các trung tâm trọng tài là tổ chức phi chính phủ, không nằm trong hệ
thống cơ quan nhà nước. Thể hiện:
- Các trung tâm trọng tài được thành lập theo sáng kiến của các trọng tài viên sau
khi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép chứ không phải được thành lập
bởi Nhà nước. Do đó, nó không nằm trong hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước cũng
không thuộc hệ thống cơ quan xét xử Nhà nước.
- Hoạt động của trung tâm trọng tài theo nguyên tắc tự trang trải mà không được
cấp kinh phí hoạt động từ ngân sách Nhà nước.
- Trọng tài viên duy nhất hoặc hội đồng trọng tài không nhân danh quyền lực nhà
nước mà nhân danh người thứ ba độc lập ra phán quyết.
- Dù không được thành lập bởi Nhà nước nhưng trung tâm trọng tài vẫn luôn đặt
dưới sự quản lý và hỗ trợ của Nhà nước, thông qua các hoạt động như: ban hành các
văn bản pháp luật tạo hành lang pháp lý cho việc tổ chức và hoạt động của trung tâm
trọng tài; cấp, thay đổi, bổ sung hay thu hồi giấy phép thành lập, giấy đăng ký hoạt
động của các trung tâm trọng tài; hỗ trợ trung tâm trọng tài trong việc hủy hoặc không
hủy quyết định trọng tài, hỗ trợ trong việc cưỡng chế thi hành quyết định trọng tài...
3
Thứ hai, các trung tâm trọng tài có tư cách pháp nhân, tồn tại độc lập với nhau.
Giữa các trung tâm trọng tài không tồn tại quan hệ phụ thuộc cấp trên, cấp dưới.
Thứ ba, tổ chức và quản lý ở các trung tâm trọng tài rất đơn giản, gọn nhẹ. Cơ
cấu của trung tâm trọng tài gồm có ban điều hành và các trọng tài viên của trung tâm.
Cụ thể:
- Ban điều hành gồm có chủ tịch, một hoặc các phó chủ tịch trung tâm trọng tài và
có thể có tổng thư ký trung tâm trọng tài do chủ tịch trung tâm trọng tài cử.
- Các trọng tài viên trong danh sách trung tâm trọng tài có thể tham giai vào việc
giải quyết tranh chấp khi được chọn hoặc chỉ định.
Thứ tư, mỗi trung tâm trọng tài tự quyết định về lĩnh vực hoạt động và có quy tắc tố
tụng riêng. Thể hiện:

- Tùy theo khả năng chuyên môn của đội ngũ trọng tài viên, mỗi trung tâm trọng tài
có quyền tự xác định về lĩnh vực hoạt động của mình, đồng thời có thể mở rộng hoặc
thu hẹp phạm vi lĩnh vực hoạt động trên cơ sở sự chấp thuận của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền.
- Mỗi trung tâm trọng tài đều có điều lệ riêng, đặc biệt là quy tắc tố tụng riêng được
xây dựng căn cứ vào đặc thù về tổ chức, hoạt động của trung tâm và không trái với quy
định của pháp luật về trọng tài thương mại. Khi giải quyết tranh chấp, hội đồng trọng
tài hoặc trọng tài viên duy nhất phải tuân thủ quy tắc tố tụng này.
- Việc xây dựng quy tắc tố tụng của các trung tâm trọng tài thường dựa trên cơ sở là
một số bản quy tắc trong tài hay một số công ước quốc tế có liên quan cũng như bản
quy tắc tố tụng của một số trung tâm trọng tài quốc tế có uy tín.
Thứ năm, hoạt động xét xử của trung tâm trọng tài được tiến hành bởi các trọng tài
viên của trung tâm. Việc chọn hoặc chỉ định trọng tài viên tham gia giải quyết tranh
chấp chỉ được giới hạn trọng danh sách trọng tài viên của trung tâm. Vì vậy, hoạt động
xét xử của trung tâm trọng tài chỉ được tiến hành bởi các trọng tài viên của chính trung
tâm.
3. Các nguyên tắc giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài thương mại
3.1. Nguyên tắc thỏa thuận trọng tài
Nguyên tắc này được hiểu như sau: tranh chấp thương mại chỉ được giải quyết
tại trọng tài nếu các bên có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài đó có hiệu lực.
Theo điều 54 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003, nếu không có thỏa thuận trọng tài
hoặc thỏa thuận trọng tài vô hiệu mà hội đồng trọng tài vẫn giải quyết thì quyết định
của hội đồng sẽ bị hủy. Đây là nguyên tắc quan trọng và có tính quyết định đối với việc
có hay không áp dụng hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài. Nếu không có
nguyên tắc này thì những nguyên tắc sau cũng trở thành vô nghĩa và không cần thiết.
Chính vì vậy mà nó được đưa lên làm nguyên tắc đầu tiên và cũng là nguyên tắc cần áp
4
dụng trước tiên khi tiến hành xem xét một vụ tranh chấp bằng hình thức trọng tài
thương mại.
3.2. Nguyên tắc trọng tài viên độc lập, vô tư, khách quan

Một số tổ chức trọng tài yêu cầu trọng tài viên xác nhận bằng văn bản rằng họ
đang và sẽ độc lập với các bên và yêu cầu trọng tài viên trình bày bất kỳ sự kiện hoặc
chi tiết nào có thể khiến các bên nghi ngờ về tính độc lập của họ. Điều này cho thấy,
việc giải quyết tranh chấp một cách công bằng, tính độc lập của các trọng tài viên đối
với các bên là vấn đề được quan tâm đặc biệt. Trọng tài viên phải có đủ cách điều kiện
nhất định để đảm bảo rằng họ độc lập, vô tư, khách quan trong việc giải quyết tranh
chấp. Để trở thành một trọng tài viên của một trung tâm trọng tài, công dân Việt Nam
cần hội tụ đầy đủ những điều kiện quy định tại điều 12 Pháp lệnh trọng tài thương mại.
Khi tham gia giải quyết tranh chấp thương mại, trọng tài viên phải thật sự là người thứ
ba độc lập, vô tư, không liên quan đến các bên có tranh chấp cũng như không có bất kỳ
lợi ích nào dính dáng đến vụ tranh chấp đó. Nếu vi phạm những quy định trên, trọng tài
viên phải từ chối giải quyết vụ tranh chấp hoặc các bên có quyền yêu cầu đổi trọng tài
viên vụ tranh chấp.
Trong quá trình giải quyết tranh chấp, trọng tài viên phải căn cứ vào các tình tiết
của vụ tranh chấp, xác mình sự việc nếu thấy cần thiết và phải căn cứ vào các chứng cứ
mà mình thu thập được chứ không thể bị chi phố bởi bất kỳ tổ chức, cá nhân nào.
Không ai có quyền can thiệp, chỉ đạo vào việc giải quyết tranh chấp của trọng tài viên.
Quyết định của trọng tài viên phải đúng với sự thật khách quan.
Tại điều 54 Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003 còn quy định: Nếu trọng tài viên
không vô tư, không khách quan trong việc giải quyết tranh chấp thương mại, vi phạm
nghĩa vụ của trọng tài viên thì quyết định của hội đồng trọng tài có trọng tài viên đó sẽ
bị hủy bỏ.
3.3. Nguyên tắc trọng tài viên phải căn cứ vào pháp luật
Đây được coi là một nguyên tắc rất quan trọng trong mọi thủ tục tố tụng cũng
như giải quyết mọi vấn đề của đời sống xã hội trong điều kiện nhà nước pháp quyền.
Vì vậy, để giải quyết tranh chấp thương mại một cách công bằng, hợp lý, bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của các bên; trọng tài viên – người được các bên có tranh chấp
lựa chọn để giải quyết tranh chấp phải căn cứ theo pháp luật.
Nếu trọng tài viên không căn cứ vào pháp luật, nhận hối lộ hoặc có hành vi vi
phạm đạo đức trọng tài viên thì các bên có quyền yêu cầu thay đổi trọng tài. Tư tưởng

chỉ đạo đối với trọng tài viên là pháp luật, chỉ có căn cứ vào pháp luật, trọng tài viên
mới giải quyết được các tranh chấp một cách vô tư, khách quan. Có như vậy mới được
các nhà kinh doanh tín nhiệm.
5
3.4. Nguyên tắc trọng tài viên phải tôn trọng sự thỏa thuận của các bên
Các bên tranh chấp có quyền thỏa thuận với nhau về nhiều vấn đề liên quan đến thủ tục
giải quyết tranh chấp mà trọng tài viên phải tôn trọng, nếu không sẽ dẫn đến hậu quả là
quyết định của hội đồng trọng tài sẽ bị tòa án hủy theo yêu cầu của các bên.
Có thể thấy rằng, thông qua thỏa thuận trọng tài, quyền hạn của hội đồng trọng tài
trong việc giải quyết tranh chấp là do các bên giao cho họ. Cụ thể như:
- Các bên thỏa thuận chọn trung tâm trọng nào nào, hình thức trọng tài nào thì chỉ
có trung tâm trọng tài đó và hình thức trọng tài đó có thẩm quyền giải quyết.
- Các bên lựa chọn trọng tài viên nào thì trọng tài viên đó có quyền giải quyết.
- Các bên thỏa thuận vụ tranh chấp do một trọng tài viên duy nhất giải quyết thì chỉ
có trọng tài viên duy nhất đó có quyền giải quyết.
- Các bên có quyền thỏa thuận địa điểm giải quyết vụ tranh chấp.
- Các bên có quyền thỏa thuận thời hạn thực hiện các thủ tục cần thiết cho việc giải
quyết.
- Các bên có quyền thỏa thuận thời gian mở phiên họp giải quyết vụ tranh chấp.
Như vậy, có thể thấy nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận của các bên tham gia
tranh chấp là một trong những nguyên nhắc tiên quyết của việc áp dụng hình thức
trọng tài thương mại. Và chỉ có trong tố tụng trọng tài – hình thức giải quyết tranh chấp
do các bên lựa chọn, các bên mới có quyền thỏa thuận nhiều vấn đề như vậy và trọng
tài viên bắt buộc phải tuân theo.
3.5. Nguyên tắc giải quyết một lần
Một trong những mục đích quan trọng nhất của việc giải quyết tranh chấp
thương mại là nhanh chóng, tránh dây dưa kéo dài, làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp. Chính vì vậy mà ngày nay, để các tranh chấp thương mại
giữa các nhà kinh doanh có thể được giải quyết nhanh chóng và dứt điểm, các tổ chức
trọng tài phi chính phủ đã ra đời để đáp ứng yêu cầu đó của các nhà kinh doanh.

Với tư cách là một tổ chức phi chính phủ, trọng tài thương mại không có cơ
quan cấp trên nên phán quyết của trọng tài có giá trị chung thẩm, không bị kháng cáo,
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm như bản án sơ thẩm của tòa án, cũng không có thủ
tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Tố tụng trọng tài chỉ có một trình tự giải quyết, tức là các
tranh chấp thương mại chỉ được giải quyết một lần tại trọng tài.
Nếu quyết định của trọng tài không bị tòa án hủy bỏ theo đơn yêu cầu của một
trong các bên mà bên phải thi hành không tự nguyện thi hành thì sau thời hạn 30 ngày,
kể từ ngày hết thời hạn thi hành quyết định trọng tài, bên được thi hành quyết định
trọng tài có quyền làm đơn yêu cầu cơ quan thi hành án cấp tỉnh nơi có trụ sở, nơi cư
trú hoặc nơi có tài sản của bên phải thi hành, thi hành quyết định trọng tài.
6

×