Tải bản đầy đủ (.doc) (126 trang)

Xây dựng mạng cục bộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (981.06 KB, 126 trang )

Đố án tốt nghiệp

Lê Thị Thuỷ HCKT-2A

PHẦN I: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ĐỂ XÂY DỰNG MẠNG
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ MẠNG MÁY TÍNH
I. Khái niệm cơ bản về mạng máy tính
Mạng máy tính là tập hợp các máy tính được kết nối với nhau bằng
đường truyền vật lý theo một kiểu cấu trúc nào đó nhằm mục đích chia sẻ
thông tin với nhau và dùng chung các dữ liệu, tài nguyên.
II. Lịch sử phát triển của mạng máy tính
Từ những năm 60 đã xuất hiện mạng xử lý trong đó các trạm cuối
(Terminal) thụ động được nối với một máy xử lý trung tâm. Máy xử lý
trung tâm làm tất cả mọi việc, từ quản lý các thủ tục truyền dữ liệu, quản lý
sự đồng bộ của các trạm cuối, quản lý các hàng đợi v. v... cho đến việc xử
lý ngắt từ các trạm cuối ... Để giảm nhẹ nhiệm vụ của máy xử lý trung tâm,
người ta thêm vào các bộ tiền xử lý (Preprocessor hay còn gọi là Frontal)
để nối thành một mạng truyền tin, trong đó các thiết bị tập trung
(Concentrator) và dồn kênh (Multiplexor) có chức năng tập trung các tín
hiệu do trạm cuối gửi đến vào trên cùng một đường truyền. Hai thiết bị này
khác nhau ở chỗ: bộ dồn kênh có khả năng chuyển song song các thông tin
do các trạm cuối gửi tới, còn bộ tập trung không có khả năng đó nên phải
dùng bộ nhớ đệm (Buffer) để lưu trữ tạm thời các thông tin.
Như vậy các trạm cuối không được kết nối trực tiếp với nhau, mọi sự
liên lạc phải đi qua máy trung tâm. Hệ thống này không được gọi là mạng
máy tính mà gọi là mạng xử lý.
Từ những năm 70, các máy tính đã được nối với nhau trực tiếp để tạo
thành mạng máy tính nhằm phân tán tải của hệ thống và tăng độ tin cậy.
Cũng trong những năm 70, bắt đầu xuất hiện khái niệm mạng truyền thông
(Communication network), trong đó các thành phần chính của nó là các nút
Đề tài : Xây dựng mạng cục bộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ



1


Đố án tốt nghiệp

Lê Thị Thuỷ HCKT-2A

mạng, được gọi là các bộ chuyển mạch (Switching unit) dùng để hướng
thông tin tới đích của nó.
Các nút mạng được nối với nhau bằng đường truyền (Transmission
line) còn các máy tính xử lý thông tin của người sử dụng (Host) hoặc các
trạm cuối (Terminal) được nối trực tiếp vào các nút mạng để khi cần thì
trao đổi tin qua mạng. Bản thân các nút mạng thường cũng là máy tính nên
có thể đồng thời đóng cả vai trò máy của người sử dụng.
Các máy tính được kết nối với nhau thành mạng máy tính nhằm mục đích
sauu:
- Sử dụng chung tài nguyên: các tài nguyên như thiết bị, chương trình,
dữ liệu,... trở nên khả dụng đối với bất kỳ người sử dụng nào trên mạng mà
không cần quan tâm đến vị trí địa lý của tài nguyên và người sử dụng.
- Tăng độ tin cậy của hệ thống nhờ khả năng thay thế khi xảy ra sự cố
đối với một máy tính nào đó.
- Nâng cao chất lượng và hiệu quả khai thác thông tin: khi thông tin
được sử dụng chung thì nó mang lại cho người sử dụng khả năng tổ chức
lại các công việc với những thay đổi về chất như:
+ đáp ứng nhu cầu của hệ thống ứng dụng kinh doanh hiện đại
+ cung cấp sự thống nhất giữa các dự liệu
+ tăng cường năng lực xử lý nhờ kết hợp được các bộ phận phân tán
+ tăng cường truy cập tới các dịch vụ mạng khác nhau được cung cấp trên
Ngày ngay với số lượng lớn về thông tin, nhu cầu xử lý thông tin

ngày càng cao. Mạng máy tính trở nên quá quen thuộc đối với chúng ta
trong mọi lĩnh vực như: khoa học, quân sự, quốc phòng, thương mại, dịch
vụ, giáo dục, ....Hiện nay ở nhiều nơi mạng đã trở thành nhu cầu không thể
thiếu được.
Với nhu cầu đòi hỏi ngày càng cao của xã hội nên vấn đề kỹ thuật
trong mạng là mối quan tâm hàng đầu. Ví dụ như làm thế nào để gửi thông
Đề tài : Xây dựng mạng cục bộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

2


Đố án tốt nghiệp

Lê Thị Thuỷ HCKT-2A

tin một cách nhanh chóng và tối ưu nhất, trong khi việc xử lý thông tin trên
mạng đôi khi bị tắc nghẽn và gây thât thoát thông tin một cách đáng tiếc.
Việc làm thế nào để có được một hệ thống mạng chạy thật tốt, an toàn và
hiệu quả kinh tế cao đang được rất nhiều người quan tâm.
III. Phân loại mạng máy tính
Có nhiều hình thức phân loại mạng máy tính khác nhau tùy thuộc
vào yếu tố chính được chọn để làm chỉ tiêu phân loại, chẳng hạn như
khoảng cách địa lý, kỹ thuật chuyển mạch, kiến trúc mạng,…
- Phân loại mạng theo khoảng cách địa lý có các mạng sau:
+ Mạng cục bộ ( Local Area Networks – LAN) là mạng được cài đặt
trong phạm vi tương đối nhỏ khoảng 20km trở lại. Thường được sử dụng
trong nội bộ một cơ quan, tổ chức, trường học,…. Phương tiện truyền dẫn
chủ yếu là cáp đồng, gần đây sử dụng cáp quang để mở rộng phạm vi .
+ Mạng đô thị (Metropolitan Area Network – MAN): là mạng được cài
đặt trong phạm vi một đô thị hoặc một trung tâm kinh tế-xã hội có bán kính

khoảng 100km trở lại.
+ Mạng diện rộng (Wide Area Network – WAN): phạm vi của mạng có
thể vượt qua biên giới quốc gia và thậm chí cả lục địa. Thông thường kết
nối này được thực hiện thông qua mạng viễn thông.
+ Mạng toàn cầu (Global Area Network – GAN): phạm vi của mạng trải
khắp các lục địa của Trái Đất.
- Phân loại theo kỹ thuật chuyển mạch, gồm có các mạch sau:
+ Mạng chuyển mạch kênh (Circuit – Switched Networks)
Khi có hai thực thể cần trao đổi thông tin với nhau thì giữa chúng sẽ thiết
lập một “kênh” cố định và được duy trì một trong hai bên ngắt liên lạc. Các
dữ liệu chỉ được truyền theo con đường cố định đó

Đề tài : Xây dựng mạng cục bộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

3


Đố án tốt nghiệp

Lê Thị Thuỷ HCKT-2A
Data 2
Data 1

A

S2

S4

S1


Data 3

S6
S3

B

S5

H×nh 1. M¹ng chuyÓn m¹ch kªnh

Mạng này có hai nhược điểm chính :
*mất nhiều thời gian để thiết lập kênh cố định giữa hai nút mạng.
* hiệu suất sử dụng đường truyền không cao vì sẽ có lúc kênh bị bỏ rỗi do
cả hai bên đều hết thông tin cần truyền trong khi đó các đầu nút khác không
được phép sử dụng đường truyền này.
+ Mạng chuyển mạch thông báo ( Message - Switched Networks)
Thông báo (Messega) là một đợn vị thông tin của người sử dụng có khuôn
dạng được quy định trước. Mỗi thông báo đều có chứa vùng thông tin điều
khiển trong đó chỉ định rõ đích của thông báo. Căn cứ vào thông tin này mà
mỗi nút trung gian có thể chuyển thông tin tới nút kế tiếp theo đường dẫn
tới đích của nó. Như vậy mỗi nút cần phải lưu trữ tạm thời để đọc thông tin
điều khiển trên thông báo để rồi sau đó gửi tiếp thông báo đó đi. Tùy thuộc
vào điều kiện của mạng, các thông báo khác nhau có thể truyền trên những
con đường khác nhau.

Đề tài : Xây dựng mạng cục bộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

4



Đố án tốt nghiệp

Lê Thị Thuỷ HCKT-2A

Message 1
S2

A

S4

S1

S6
S3

B

S5

Message 2

H×nh 2. M¹ng chuyÓn m¹ch th«ng b¸o
Ưu điểm:
. hiệu suất đường truyền cao vì không bị chiếm dụng độc quyền mà được
phân chia giữa các nút mạng .
. mỗi nút mạng có thể lưu trữ thông báo cho đến khi kênh truyền rỗi mới
gửi thông báo đi, cho nên giảm được tắc nghẽn.

. có thể điều khiển được việc truyền tin bằng cách sắp xếp độ ưu tiên cho
các thông báo.
. có thể tăng hiệu suất sử dụng dải thông của mạng bằng cách gán địa chỉ
quảng bá để gửi thông báo đồng thời tới nhiều đích.
Nhược điểm:
. không hạn chế kích thước của thông báo, dẫn đến phí tổn lưu trữ tạm thời
cao và ảnh hưởng tới thời gian đáp và chất lượng truyền.
. thích hợp cho các dịch vụ thư tín điện tử hơn là các áp dụng có tính thời
gian thực vì tồn tại độ trễ do lưu trữ và xử lý thông tin điều khiển tại mỗi
nút.
Đề tài : Xây dựng mạng cục bộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

5


Đố án tốt nghiệp

Lê Thị Thuỷ HCKT-2A

+ Chuyển mạch gói ( Packet – Switched Networks)
Trong chuyển mạch gói mỗi thông báo được chia thành nhiều phần
nhỏ hơn gọi là gói tin (Packet) có khuôn dạng quy định trước. Mỗi gói tin
cũng chứa đựng thông tin điều khiển, trong đó có địa chỉ nguồn (người gửi)
và đích (người nhận) của gói tin. Các gói tin thuộc về một thông báo nào
đó có thể được gửi đi qua mạng để tới đích bằng nhiều con đường khác
nhau.

message
4 3 2 1


A

1 S2
4
S1

4

3 2

S3

1
S4

1
2 4 3 1

2

4 3

2
S5

S6

B

2 4 3


H×nh 3. M¹ng chuyÓn m¹ch gãi

Ta thấy mạng chuyển mạch gói và chuyển mạch thông báo giống
nhau về phương pháp. Điều khác biệt là các gói tin được giới hạn kích
thước tối đa sao cho các nút mạng có thể xử lý toàn bộ gói tin trong bộ nhớ
mà không cần phải lưu trữ tạm thời trên đĩa. Vì vậy mạng chuyển mạch gói
truyền các gói tin trên mạng nhanh hơn và hiệu quả hơn so với mạng
chuyển mạch thông báo. Nhưng vấn đề khó khăn của mạng này là việc tập
hợp các gói tin để tạo lại thông báo ban đầu của người sử dụng, đặt biệt
trong trường hợp các gói tin được truyền theo nhiều đường khác nhau. Cần
phải đặt cơ chế đánh dấu gói tin và phục hồi gói tin bị thất lạc hoặc truyền
bị lỗi cho các nút mạng.

Đề tài : Xây dựng mạng cục bộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

6


Đố án tốt nghiệp

Lê Thị Thuỷ HCKT-2A

Do ưu điểm mềm dẻo và hiệu suất cao hơn nên hiện nay mạng
chuyển mạch gói được dùng phổ biến hơn mạng chuyển mạch thông báo.
Việc tích hợp cả hai kỹ thuật chuyển mạch (kênh và gói) trong một mạng
thống nhất (được gọi là mạng tích hợp số ISDN) đang là một xu hướng
phát triển mạng ngày nay.
- Phân lạo theo kiến trúc mạng, có hai lại sau :
+ kiểu điểm - điểm:

Các đường truyền nối từng cặp nút với nhau và mỗi nút đều có trách
nhiệm lưu trữ tạm thời sau đó chuyển tiếp dữ liệu đi cho tới đích. Do cách
làm việc như vậy nên mạng kiểu này còn được gọi là mạng “lưu và chuyển
tiếp”.
+ kiểu quảng bá :
Trong trường hợp này tất cả các nút phân chia chung một đường
truyền vật lý. Dữ liệu được gửi đi từ một nút nào đó, sẽ có thể được tiếp
nhận bởi tất cả các nút còn lại. Bởi vậy cần chỉ ra địa chỉ đích của dữ liệu
để mỗi nút căn cứ vào đó kiểm tra xem dữ liệu có phải dành cho mình
không.
IV. Kiến trúc phân tầng và mô hình OSI
1. Cấu trúc phân tầng
Để giảm độ phức tập của việc thiết kế và cài đặt mạng, hầu hết các
mạng máy tính hiện có đều được phân tích thiết kế theo quan điểm phân
tầng(layering). Mỗi hệ thống thành phần của mạng được xem như là một
cấu trúc đa tầng, trong đó mỗi tầng được xây dựng trên tầng trước nó. Số
lượng các tầng cũng như tên và chức năng của mỗi tầng là tùy thuộc vào
các nhà thiết kế. Chúng ta sẽ thấy cách phân tầng trong mạng của IBM
(SNA), của Digital (DECnet), hay của Bộ Quốc phòng Mỹ (ARPANET),....
là không giống nhau. Tuy nhiên, trong hầu hết các mạng, mục đích của mỗi
tầng là để cung cấp một số dịch vụ ( services) nhất định cho tầng cao hơn
Đề tài : Xây dựng mạng cục bộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

7


Đố án tốt nghiệp

Lê Thị Thuỷ HCKT-2A


Tầng N

giao diện i+1/i

TÇng
Tầng ii

Giao thức tầng N

Tầng N

Giao thức tầng i
Tầng i
Giao thức tầng 1

Tầng 1

Tầng 1

Đường truyền vật lý
Hình 4: Hình vẽ minh hoạ kiến trúc phân tầng tổng quát
Nguyên tắc của kiến trúc mạng phân tầng là: mỗi hệ thống trong một
mạng đều có cấu trúc tầng (số lượng tầng, chức năng của mỗi tầng là như
nhau). Sau khi đã xác định số lượng tầng và chức năng mỗi tầng thì công
việc quan trọng tiếp theo là định nghĩa mối quan hệ (giao diện) giữa 2 tầng
đồng mức ở hai hệ thống nối kêt với nhau. Trong thực tế, dữ liệu không
được truyền trực tiếp từ tầng thứ i của hệ thống này sang tầng thứ i của hệ
thống khác (trừ đối với tầng thấp nhất trực tiếp sử dụng đường truyền vật
lý để truyền các xâu bít từ hệ thống này sang hệ thống khác). Ở đây quy
ước dữ liệu ở bên hệ thống gửi (sender) được truyền sang hệ thống nhận

Đề tài : Xây dựng mạng cục bộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

8


Đố án tốt nghiệp

Lê Thị Thuỷ HCKT-2A

(receiver) bằng đường truyền vật lý và cứ thế đi ngược lên các tầng trên.
Như vậy giữa 2 hệ thống kết nối với nhau chỉ có tầng thấp nhất mới có liên
kết vật lý, còn ở các tầng cao hơn chỉ là những liên kết logic ( hay còn gọi
là liên kết ảo) được đưa vào để hình thức hóa các hoạt động của mạng
thuận tiện cho việc thiết kế và cài đặt các phần mềm truyền thông.
* Các nguyên tắc phân tầng:
- Đơn giản hóa ( hạn chế số lượng các tầng).
- Tạo ranh giữa các tầng sao cho các tương tác và mô tả dịch vụ là tối thiểu.
- Các tầng tách biệt bởi các chức năng độc lập và các tầng sử dụng các loại
công nghệ khác nhau cũng tách biệt.
- Các chức năng giống nhau được đặt cùng một tầng.
- Chọn ranh giới giữa giữa các tầng theo kinh nghiệm đã được chứng tỏ là
thành công.
- Các chức năng được định vị sao cho có thể thiết kế lại tầng mà không ảnh
hưởng tới các tầng khác.
- Tạo ranh giới giữa các tầng sao cho có thể chuẩn hóa giao diện tương
ứng.
- Tạo một tầng khi dữ liệu được xử lý một cách tách biệt.
- Cho phép các thay đổi chức năng hoặc giao thức trong một tầng không
làm ảnh hưởng đến các tầng khác.
- Mỗi tầng sử dụng dịch vụ của tầng dưới nó, cung cấp dịch vụ cho các

tầng trên.
- Có thể chia một tầng thành các tầng con khi cần thiết.
- Tạo các tầng con để cho phép giao diện với các tầng kề cận.
- Cho phép huỷ bỏ các tầng con nếu thấy không cần thiết.
* Ý nghĩa phân tầng
- giảm độ phức tạo khi phân tích và thiết kế.
- dễ tiêu chuẩn hóa các giao diện.
Đề tài : Xây dựng mạng cục bộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

9


Đố án tốt nghiệp

Lê Thị Thuỷ HCKT-2A

- tạo khả năng modul hóa cao.
- đảm bảo khả năng làm việc giữa các cộng nghệ khác nhau.
- gia tốc cho những hướng phát triển mới.
2.Mộ hình trao đổi thông tin – Mô hình OSI
2.1 Các yêu cầu trao đổi thông tin trên mạng
- phải hiểu các thông tin truyền cho nhau.
- thông tin trao đổi phải bảo mật, xác thực, toàn vẹn thông tin
- sự gọn gàng trong thông tin để tiết kiệm băng thông để truyền nhanh hơn.
- theo dõi chặt chẽ tiến trình trao đổi thông tin để điều khiển tốc độ truyền
thông tin hợp lý.
- thông tin truyền phải đến đúng đích.
- có thể kiểm soat lỗi ( bên nhận có khả năng biết được thông tin có lỗi hay
không có lỗi ). Lỗi này là lỗi do đường truyền.
- giảm suy hao để tin đó có thể đi xa, tạo điều kiện dễ dàng cho việc nhận

thông tin ở bên thu.
- tránh những va chạm, xung đột với những luồng thông tin khác.
Những yêu cầu này cần phải được giải quyết để gửi thông tin đi
người ta đã nghĩ ra các kỹ thuật các phương pháp để giải quyết tám yêu cầu
này. Đặc điểm của các kỹ thuật và phướng pháp này là biến đổi mã hóa
thông tin trước khi truyền đi. Cụ thể là sử dụng các bảng mã hóa thông tin
giống nhau như bảng mã ASCCI, mã Uinicode 16 bít.
2.2 Mô hình OSI
Khi thiết kế, các nhà thiết kế tự do lựa chọn kiến trúc mạng riêng của
mình. Từ đó dẫn đến tình trạng không tương thích giữa các mạng, phương
pháp truy nhập đường truyền khác nhau, sử dụng họ giao thức khác nhau
…. Sự không tương thích đó làm trở ngại cho sự tương tác của người sử
dụng các mạng khác nahu. Nhu cầu trao đổi thông tin càng lớn thì trở ngại
đó càng không thể chấp nhận được đối với người sử dụng. Sự thúc bách
Đề tài : Xây dựng mạng cục bộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

10


Đố án tốt nghiệp

Lê Thị Thuỷ HCKT-2A

của khách hàng đã khiến cho các nhà sản xuất và các nhà nghiên cứu,
thông qua các tổ chức chuẩn hoá quốc gia và quốc tế- tích cực tìm kiếm
một sự hội tụ cho các sản phẩm mạng trên thị trường. Để có được điều đó,
trước hết cần xây dựng được một khung chuẩn về kiến trúc mạng để làm
căn cứ cho các nhà thết kế và chế tạo các sản phẩm về mạng.
Vì lí do đó, Tổ chức tiêu chuẩn hoá quốc tế (International
Organization for Standardization - viết tắt là ISO) đã lập ra một tiểu ban

nhằm phát triển một khung chuẩn chung như thế vào năm 1977. Kết quả là
năm 1984, ISO đã xây dựng xong mô hình tham chiếu cho việc nối kết các
hệ thống mở (Reference Model for Open Systems Interconnection – OSI
Reference Model ) hay còn gọi tắt là OSI. Mô hình này được dùng làm cơ
sở để kết nối các hệ thống mở phục vụ cho các ứng dụng phân tán. Từ
“mở” ở đây nói lên khả năng hai hệ thống có thể kết nối để trao đổi thông
tin với nhau nếu chúng tuân thủ mô hình tham chiếu và các chuẩn liên
quan.
Điều hẫp dẫn của tiếp cận OSI chính là ở chỗ nó hứa hẹn giải pháp
cho vấn đề truyền thông giữa các máy tính không giống nhau. Hai hệ thống
dù khác nhau như thế nào đi nữa, đều có thể truyền thông với nhau một
cách hiệu quả nếu chúng đảm bảo những điều kiện chung sau đây:
• Chúng cài đặt cùng một tập các chức năng truyền thông.
• Các chức năng đó được tổ chức thành cùng một tập các tầng. Các
tầng đồng mức phải cung cấp các chức năng như nhau ( nhưng
phương thức cung cấp không nhất thiết phải giống nhau).
• Các tầng đồng mức phải sử dụng một giao thức chung.
Để đảm bảo các điều kiện trên cần phải có các chuẩn. Các chuẩn
phải xác định các chức năng và dịch vụ được nâng cấp bởi một tầng
( nhưng không chỉ ra chúng phải cài đặt như thế nào - điều đó có thể là
khác nhau trên các hệ thống). Các chuẩn cũng phải xác định các giao thức

Đề tài : Xây dựng mạng cục bộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

11


Đố án tốt nghiệp

Lê Thị Thuỷ HCKT-2A


giữa các tầng đồng mức. Mô hình OSI 7 tầng chính là cơ sở để xây dựng
các chuẩn đó.
Mô hình OSI có 7 tầng, mỗi tầng lớp thực hiện một chức năng khác
nhau để cho các gói dữ liệu di chuyển từ nguồn đến đích trên mạng. Hai
tầng đồng mức khi liên kết với nhau phải sử dụng một giao thức chung.
Giao thức ở đây là phương tiện để các tầng có thể giao tiếp được với nhau
giống như hai người muốn nói chuyện được vơi nhau thì cần có một ngôn
ngữ chung.

Hình 5. Mô hình 7 tâng OSI
Nền tảng của mô hình OSI là dòng lưu chuyển của một yêu cầu truy
cập vào một tài nguyên mạng xuyên qua 7 lớp phân biệt. Sự yêu cầu đó bắt
đầu từ lớp trên cùng của mô hình. Khi nó di chuyển xuống dưới, yêu cầu đó
được chuyển đổi từ một lời gọi API ( giao diện lập trình ứng dụng) bên
trong ứng dụng xuất phát thành một chuỗi các xung được mã hoã để truyền
đi những thông tin nhị phân đến một thiết bị khác trên mạng. Những xung
này có thể là điện, quang, từ, vi ba hoặc những tần số sóng mạng vô tuyến.
Đề tài : Xây dựng mạng cục bộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

12


Đố án tốt nghiệp

Lê Thị Thuỷ HCKT-2A

Quá trình mã hoá đó cho phép những lớp cụ thể nào đó của mô hình OSI
trên một máy tính nguồn để liên lạc với những lớp giống hệt chúng trên
một máy tính đích. Quá trình này được gọi là những giao thức, khi quá

trình này đến đích của chúng, chúng chuyển ngược lên các lớp của mô hình
OSI theo chiều ngược với lúc được gửi đi và được giải mã cho tới khi đến
lớp có chức năng tương đương ở trên cùng một máy tính đích. Kết quả của
chương trình đó là hai máy phân biệt liên lạc được với nhau và hoạt động
một các độc lập như thể là tài nguyên được nối mạng đang được truy cập
đó không có gì khác biệt như tài nguyên ở trên máy tại chỗ vậy.
Mô hình OSI không chỉ rõ giao thức nào sẽ được dùng để truyền dữ
liệu ngang qua mạng, mà nó cũng không chỉ định thiết bị dùng được
truyền. Thay vào đó, nó cung cấp một đề cương các thiết bị khác nhau làm
theo để đảm bảo thông tin liên lạc đúng đắn ngang qua mạng.
Trong mô hình OSI có hai loại giao thức chính, đó là giao thức có
liên kết (Connection – Oriented ) và giao thức không liên kết
( Connectionless ).
Giao thức có liên kết là trước khi truyền dữ liệu hai lớp đồng mức
cần thiết lập một liên kết logic và các gói tin được trao đổi thông qua kết
nối này, việc có liên kết logic sẽ nâng cao độ an toàn trong truyền dữ liệu
( dữ liệu được truyền với cơ chế kiểm soát và truyền dữ liệu ).
Giao thức không liên kết là trước khi truyền dữ liệu không thiết lập
liên kết logic và mỗi gói tin được truyền độc lập với các gói tin trước hoặc
sau nó.
Như vậy với giao thức có liên kết, quá trình truyền thông phải gồm 3
giai đoạn riêng biệt :
• Thiết lập liên kết (lô gic): hai thực thể đồng mức ở hai hệ thống
thương lượng với nhau về tập các tham số sẽ sử dụng trong giai đoạn
sau (truyền dữ liệu).
Đề tài : Xây dựng mạng cục bộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

13



Đố án tốt nghiệp

Lê Thị Thuỷ HCKT-2A

• Truyền dữ liệu: dữ liệu được truyền với cá cơ chế kiểm soát lỗi, kiểm
soát luồng, cắt/hợp dữ liệu, …. để tăng cường độ tin cậy và hiệu quả
của việc truyền dữ liệu .
• Huỷ bỏ liên kết: giải phóng tài nguyên hệ thống đã được cấp phát
cho liên kết để dùng liên kết khác.
Còn đối với giao thức không liên kết thì chỉ có duy nhất một giai đoạn
truyền dữ liệu mà thôi.
Những dữ liệu lưu thông trên mạng nói chung có thể chia làm hai
nhóm: các yêu cầu được tạo ra ở máy tính nguồn và các lời đáp từ nơi mà
yêu cầu kia được gửi đến. Đơn vị cơ bản của dữ liệu mạng là gói dữ liệu
(packet). Thông tin muốn đi qua một mạng nào đó thì phải đi xuống dọc
theo một chồng giao thức, khi nó đi qua chồng giao thức đó, nó trải qua
những quá trình đóng gói và đóng gói lại. Những các thức đóng gói tuỳ
thuộc vào các khuôn dạng và các lược đồ biểu diễn được quy định cho
những giao thức có mặt tại mỗi lớp của chồng giao thức đó. Phần quan
trọng nhất của mỗi gói là một yêu cầu hoặc hồi đáp cho một yêu cầu. Tuy
nhiên gói cũng phải chứa địa chỉ mạng, một phương tiện để hồi báo rằng
gói đã đến địa chỉ đích của nó. Một cơ chế kiểm tra lỗi để đảm bảo rằng gói
đến đích trong tình trạng giống như nó được gửi đi, một cơ chế định thời
gian để đảm bảo rằng gói không được gửi đi quá nhanh, đây gọi là sự kiểm
soát dòng. Sự phân phối có đảm bảo, sự kiểm tra lỗi, và sự kiểm soát dòng
được cung cấp dưới dạng những thông tin được chứa trong các khung dữ
liệu, vốn tạo ra bởi các lớp khác nhau của mô hình OSI. Khi gói đi xuyên
qua các lớp của mô hình OSI, phía trước của nó được các giao thức đặt
thêm vào những phần đầu đề (header) gồm một chuỗi các trường nào đó,
còn phía sau có thể được nối thêm phần đuôi cũng gồm một chuỗi các

trường nào đó. Nhưng trước khi truyền nó phải được thiết lập kết nối, có
nghĩa là hai thực thể ở cùng tầng ở hai đầu liên kết sẽ thương lượng với
nhau về tập tham số sử dụng trong quá trình truyền dữ liệu. Quán trình
Đề tài : Xây dựng mạng cục bộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

14


Đố án tốt nghiệp

Lê Thị Thuỷ HCKT-2A

truyền dữ liệu được thực hiện như sau: dữ liệu được gửi hoặc nhận từ một
tầng trên cùng, đó là tầng 7 (Application) tầng cao nhất của mô hình OSI.
Nó được chuyển xuống tầng 6 (Presentation), nơi quá trình tạo gói bắt đầu.
Từ đây dữ liệu được bao lại trong một phần đầu đề, gồm các thông tin nhận
diện và trợ giúp để chuyển tiếp dữ liệu đến một tầng nào đó khi nó được
chuyển xuống đến tầng kề nó. Khi dữ liệu chuyển qua tầng 5 (Session),
tầng 4 (Transport), tầng 3 (Network) những giao thức hoạt động ở các tầng
này gắn thêm một phần đầu đề khác ở mỗi tầng và có thể dữ liệu được phân
thành những mảnh nhỏ hơn để dễ dàng quản lý hơn. Khi dữ liệu đi đến tầng
2 (Data Link) các giao thức tại tầng này sẽ ghép dữ liệu thành các khung
bằng cách gắn thêm vào một phần đầu và một phần cuối, sau đó chuyển
xuống tầng 1 (Physical) để truyền đi trên phương tiện nối mạng. Khi các
khung đến đích của nó, quá trình đó được lặp lại theo chiều ngược lại quá
trình này được gọi là tác bỏ liên kết. Có nghĩa là qua mối tầng các phần đầu
và phần cuối được gắn vào trên các tầng tương ứng khi gửi dữ liệu sẽ được
tháo ra và so sánh. Ở trên là mạng chuyển mạch gói được truyền theo
phương pháp có liên kết. Nếu chuyển mạch gói được truyền theo kiểu
không có liên kết thì chỉ có một giai đoạn truyền dữ liệu, các gói dữ liệu sẽ

được truyền độc lập với nhau theo một con đường xác định bằng cách trong
mỗi gói dữ liệu chứa địa chỉ đích
Gói tin ( Packet ) được hiểu như là một đơn vị thông tin dùng trong
việc liên lạc, chuyển giao dữ liệu trong mạng máy tính. Những thông điệp
trao đổi giữa các máy tính trong mạng, được tạo thành các gói tin ở máy
nguồn. Những gói tin này khi đến đích sẽ được kết hợp lại thành thông điệp
ban đầu. Một gói tin có thể chứa đựng các yêu cầu phục vụ, các thông tin
điều khiển và dữ liệu.
.

Đề tài : Xây dựng mạng cục bộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

15


Đố án tốt nghiệp

Lê Thị Thuỷ HCKT-2A

Hình 6: Mô hình phân tầng
Trên quan điểm mô hình mạng phân tầng, mỗi tầng chỉ thực hiện
một chức năng là nhận dữ liệu từ tầng trên chuyển xuống cho tầng dưới và
ngược lại. Chức năng này thực chất là gắn thêm và gỡ bỏ phần đầu (header)
đối với gói tin trước khi chuyển nó đi.Một gói tin bao gồm phần đầu và
phần dữ liệu. Khi đi đến một tầng mới gói tin sẽ được gắn thêm một phần
đầu đề khác và được xem như là gói tin của tầng dưới, công việc này cứ
tiếp diễn cho đến khi gói tin được truyền lên đường dây mạng để đến bên
nhận. Tại bên nhận các gói tin này được gỡ bỏ phần đầu trên từng tầng
tương ứng.
* Chức năng của các tầng trong mô hình OSI

Tầng 1: Tầng vật lý ( Physical Layer):
Tầng vật lý là tầng thấp nhất của mô hình OSI, tiếp xúc trực tiếp với
phương tiện truyền dẫn.Tầng này cung cấp các phương tiện điện,cơ, chức
năng, thủ tục để kích hoạt, duy trì và đình chỉ liên kết vật lý giữa các hệ
thống.
Ở đây, thuộc tính điện liên quan đến sự biểu diễn các bít (các mức
thế hiệu ) và tốc độ truyền các bít, thuộc tính cơ liên quan đến các tính chất
vật lý của giao diện với một đường truyền (kích thước, cấu hình). Thuộc
Đề tài : Xây dựng mạng cục bộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

16


Đố án tốt nghiệp

Lê Thị Thuỷ HCKT-2A

tính chức năng chỉ ra các chức năng được thực hiện bởi các phần tử của
giao diện vật lý, giữa một hệ thống và đường truyền. Và thuộc tính thủ tục
liên quan đến giao thức điều khiển việc truyền các xâu bít qua đường
truyền vật lý. Tầng này cũng có chức năng truyền dòng bít lên phương tiện
truyền dẫn mà không quan tâm đến cấu trúc. Các đặc trưng của tầng này là:
mức điện áp, thời gian chuyển mức điện áp, tốc độ truyền vật lý, cự ly
truyền, các đầu nối, …
Thực chất của lớp này là thực hiện việc kết nối các phần tử của
mạng thành một hệ thống bằng các kết nối vật lý, ở tầng này sẽ có các thủ
tục được đảm bảo cho các yêu cầu hoạt động nhằm tạo ra các đường truyền
vật lý cho các chuỗi bít thông tin.
Tầng 2: Tầng liên kết dữ liệu ( Datalink Layer):
Tầng này cung cấp các phương thức để truyền khung thông tin qua

liên kết vật lý đảm bảo tin cậy thông qua cơ chế đồng bộ hóa, kiểm soát lỗi,
và điều khiển luồng dữ liệu. Tầng này cũng cung cấp các thông tin về địa
chỉ vật lý, cấu trúc mạng, phương thức truy cập các kết nối vật lý, thông
báo lỗi và quản lý lượng thông tin trên mạng.
Các giao thức được xây dựng trong tầng liên kết dữ liệu ( gọi chung
là Data Link Protocol - viết tắt thành DLP ) được chia thành hai loại:
- DLP dị bộ:
Các DLP dị bộ sử dụng phương thức truyền dị bộ, trong đó các bít đặc
biệt START và STOP được dùng để tách các xâu bít biểu diễn các ký tự
trong dòng dữ liệu cần truyền đi. Phương thức này gọi là dị bộ vì không
cần có sự đồng bộ liên tục giữa người gửi và người nhận tin. Nó cho
phép một ký tự dữ liệu được truyền đi bất kỳ lúc nào mà không cần
quan tâm đến các tín hiệu đồng bộ trước đó.
Các giao thức loại này thường được dùng trong các máy điện báo
hoặc các máy tính trạm cuối tốc độ thấp. Phần lớn các máy PC sử dụng
phương thức truyền dị bộ do tính đơn giản của nó.
Đề tài : Xây dựng mạng cục bộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

17


Đố án tốt nghiệp

Lê Thị Thuỷ HCKT-2A

- DLP đồng bộ:
Phương thức truyền đồng bộ không dùng các bít đặc biệt START và
STOP để đóng khung mỗi ký tự mà chèn các ký tự đặc biệt như SYN
(Sychronization), EOT ( End Of Transmision ) hay đơn giản hơn, một
cái “cờ” (flag) giữa các dữ liệu của người sử dụng để báo hiệu cho

người nhận biết dữ liệu đang đến hoặc đã đi.
Trong DLP đồng bộ được chia thành hai nhóm là hướng ký tự và
hướng bít. DLP hướng ký tự được xây dựng trên các ký tự đặc biệt của
một bộ mã chuẩn nào đó ( như ASCII hay EBCDIC), trong khi các DLP
hướng bít lại dùng các cấu trúc nhị phân (xâu bít) để xây dựng các phần
tử của giao thức (đơn vị dữ liệu, các thủ tục, … ) và khi nhận dữ liệu sẽ
được tiếp nhận lần lượt từng bít một.
Tầng 3: Tầng mạng (Network):
Tầng mạng thực hiện việc chọn đường và chuyển tiếp thông tin với
công nghệ chuyển mạch thích hợp. Ví dụ ta xét một mạng chuyển mạch gói
bao gồm tập hợp các nút chuyển mạch gói nối với nhau bởi các liên kết dữ
liệu. Các gói dữ liệu được truyền từ một hệ thống mở tới một hệ thống mở
khác trên mạng phải được chọn đường qua một chuỗi các nút. Mỗi nút
nhận gói dữ liệu từ một đường vào rồi chuyển tiếp nó tới một đường ra
hướng đến đích của dữ liệu. Như vậy là ở mỗi nút trung gian đó phải thực
hiện các chức năng chọn đường và chuyển tiếp. Các chức năng đó phải
thuộc tầng 3 vì chúng rõ ràng ở trên tầng liên kết dữ liệu và để cung cấp
một dịch vụ trong suốt cho tầng Giao vận (Transport), phải ở dưới tầng
Giao vận. Ngoài hai chức năng quan trọng nói trên, tầng Mạng cũng thực
hiện một số chức năng khác như: thiết lập, duy trì và giải phóng các liên
kết logic, kiểm soát lỗi, kiểm soát luồng dữ liệu, dồn kênh/phân kênh,
cắt/hợp dữ liệu khi cần thiết,…

Đề tài : Xây dựng mạng cục bộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

18


Đố án tốt nghiệp


Lê Thị Thuỷ HCKT-2A

Như vậy Tầng Mạng liên quan tới vấn đề đo độ trễ đường truyền,
quyết định chọn đường, cập nhật các thông tin sử dụng cho việc chọn
đường gói tin trong mạng và chuyển tiếp các gói tin đi.Các gói tin này có
thể phải đi qua nhiều chặng đường trước khi đến được đích cuối cùng.

Hình 7: mô hình chuyển vận các gói tin trong mạng chuyển mạch gói
Chọn đường (routing) là sự lựa chọn một con đường để truyền một đơn
vị dữ liệu (một gói tin chẳng hạn) từ trạm nguồn đến trạm đích của nó. Do
vậy việc chọn đường phải thực hiện hai chức năng sau đây:
- quyết định chọn đường theo những tiêu chuẩn (tối ưu) nào đó.
-

cập nhật thông tin chọn đường, tức là thông tin dùng cho việc chọn

đường. Trên mạng luôn có sự thay đổi thường xuyên nên việc cập nhật là
cần thiết.
Tiêu chuẩn tối ưu để chọn đường được xác định bời người quản lý hoặc
người thiết kế mạng, nó có thể là:
- Độ trễ trung bình của việc truyền gói tin.
- Số lượng nút trung gian giữa nguồn và đích của gói tin.
- Độ an toàn của việc truyền tin.
- Cước phí truyền tin
- ……

Đề tài : Xây dựng mạng cục bộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

19



Đố án tốt nghiệp

Lê Thị Thuỷ HCKT-2A

Như vậy việc chọn tiêu chuẩn tối ưu phụ thuộc vào nhiều bỗi cảnh mạng
(topo, thông lượng, mục đích sử dụng,v.v…). Các tiêu chuẩn có thể thay
đổi vì bối cảnh mạng cũng có thể thay đổi theo thời gian.
Tầng 4: Tầng giao vận( Transport Layer):
Trong mô hình OSI, người ta thường phân biệt 4 tầng thấp nhất
(Physical, Datalink, Network, Transport) và 3 tầng cao (Session,
Presentation, Application). Các tầng thấp quan tâm đến việc truyền dữ liệu
giữa các hệ thống cuối (end systems) qua phương tiện truyền thông, còn
các tầng cao tập trung đáp ứng các yêu cầu và các ứng dụng của người sử
dụng. Tầng Giao vận là tầng cao nhất của nhóm các tầng thấp, mục đích
của nó là cung cấp dịch vụ truyền dữ liệu sao cho các chi tiết cụ thể của
phương tiện truyền thông được sử dụng ở bên dưới trở nên “trong suốt” đối
với các tầng cao.
Tầng giao vận chia nhỏ dữ liệu từ trạm phát và phục hồi lại thành dữ
liệu như ban đầu tại trạm thu và quyết định cách xử lý của mạng đối với
các lỗi phát sinh khi truyền dữ liệu. Tầng này nhận các thông tin từ lớp tiếp
xúc phân chia thành các đơn vị dữ liệu nhỏ hơn và chuyển chúng tới tầng
mạng. Nó có nhiệm vụ đảm bảo độ tin cậy của việc liên lạc giữa hai máy.
Trong việc truyền tin tầng giao vận thiết lập, duy trì và kết thúc tốt đẹp các
kênh ảo trong việc cung cấp dịch vụ tin cậy vì nó thực hiện bằng các cơ chế
phát hiện lỗi, khắc phục lỗi, gửi lại dữ liệu, điều khiển luồng, cơ chế xác
nhận. Để đảm bảo được việc truyền ổn định tầng vận chuyển thường đánh
số các gói tin và đảm bảo chúng chuyển theo thứ tự.
Tầng Giao vận là tầng cuối cùng chịu trách nhiệm về mức độ an toàn
trong việc truyền dữ liệu nên nhiệm vụ của tầng Giao vận phụ thuộc vào

bản chất của từng loại mạng. Người ta chia thành 3 loại mạng sau đây:

Đề tài : Xây dựng mạng cục bộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

20


Đố án tốt nghiệp

Lê Thị Thuỷ HCKT-2A

-Mạng loại A: có tỷ suất lỗi và sự cố báo hiệu chấp nhận được ( tức
là chất lượng mạng chấp nhận được). Các gói tin được giả thiết là không bị
mất. Tầng Giao vận không cần cung cấp các dịch vụ phục hồi hoặc sắp xếp
lại theo thứ tự.
- Mạng loại B: có tỷ suất lỗi chấp nhận được nhưng tỷ suất sự cố có
báo hiệu lại không chấp nhận được. Tầng Giao vận phải có khả năng phục
hồi lại khi xảy ra lỗi hoặc sự cố.
- Mạng loại C: Có tỷ suất lỗi không chấp nhận được (không tin câỵ).
Tầng Giao vận phải có khả năng phục hồi lại khi xảy ra lỗi và sắp xếp lại
thứ tự các gói tin
* Các lớp giao thức của tầng Giao vận:
- Giao thức lớp 0: cung cấp khả năng rất đơn giản để thiết lập liên
kết, truyền dữ liệu và huỷ bỏ liên kết trên nền mạng có liên kết loại A. Nó
có khả năng phát hiện và báo hiệu các lỗi nhưng không có khả năng phục
hồi. Nếu tầng Mạng báo hiệu một lỗi cho tầng Giao vận thì tầng này sẽ huỷ
bỏ liên kết liên quan, và người sử dụng cuối sẽ được thông báo cắt liên kết.
- Giao thức lớp 1: khác với lớp 0, ở đây các đơn vị dữ liệu được đánh
số. Ngoài ra giao thức còn có khả năng báo nhận và truyền dữ liệu khẩn,…
Đặc biệt giao thức lớp 1 có thêm khả năng phục hồi lỗi.

- Giao thức lớp 2: là một cải tiến của lớp 0 cho phép dồn một số liên
kết giao vận vào một điểm liên kết mạng duy nhất, đồng thời có thể kiểm
soát luồng dữ liệu để tránh tắc nghẽn. Giao thức lớp 2 không có khả năng
phát hiện và phục hồi lỗi. Do vậy nó cần đặt trên một nền mạng tin cậy loại
A.
- giao thức lớp 3: là sử mở rộng giao thức lớp 2 với khả năng phát
hiện và phục hồi lỗi. Ngoài ra nó còn có thêm khả năng truyền lại dữ liệu
rất có ích theo “time- out”. Lớp giao thức này được dùng với mạng loại B.

Đề tài : Xây dựng mạng cục bộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

21


Đố án tốt nghiệp

Lê Thị Thuỷ HCKT-2A

- Giao thức lớp 4: là lớp có hầu hết các chức năng của các lớp trước
và còn bổ sung thêm một số khả năng khác để kiểm soát việc truyền dữ
liệu. Vì thế giao thức lớp 4 được thiết kế để làm việc với các mạng loại C.
Tầng 5: Tầng phiên (Session Layer):
Tầng Phiên là tầng thấp nhất trong nhóm các tầng cao và nằm
ở giữa hai nhóm tầng nói trên. Mục tiêu của nó là cung cấp cho người sử
dụng cuối các chức năng cần thiết để quản trị các phiên ứng dụng của họ,
cụ thể là:
-

Điều phối việc trao đổi dữ liệu giữa các ứng dụng bằng cách thiết lập
và giải phóng(một cách logic) các phiên.

- Cung cấp các điểm đồng bộ hoá để kiểm soát việc trao đổi dữ liệu.
- Áp đặt các quy tắc cho các tương tác giữa các ứng dụng của người sử
dụng.
- Cung cấp cơ chế “lấy lượt”(nắm quyền) trong quá trình trao đổi dữ
liệu.
Việc trao đổi dữ liệu có thể thực hiện theo một trong ba phương

thức: hai chiều đồng thời, hai chiều luân phiên hoặc một chiều. Với phương
thức hai chiều đồng thời, cả hai bên đều có thể đồng thời gửi dữ liệu đi.
Một khi phương thức này đã được thoả thuận thì không đòi hỏi phải có
nhiệm vụ quản trị tương tác đặc biệt nào. Có lẽ đây là phương thức hội
thoại phổ biến nhất. Trong trường hợp hai chiều luân phiên thì nảy sinh vấn
đề: hai người sử dụng phiên phải ‘lấy lượt” để truyền dữ liệu. Một ví dụ
điển hình của phương thức này là dùng cho các ứng dụng hỏi/ đáp. Thực tế
tầng Phiên duy trì tương tác luân phiên bằng cách báo cho mỗi người sử
dụng khi đến lượt họ được truyền dữ liệu.
Trong trường hợp một chiều nói chung ít xảy ra, ví dụ điển hình là
dữ liệu được gửi tới một người sử dụng tạm thời không làm việc, chỉ có

Đề tài : Xây dựng mạng cục bộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

22


Đố án tốt nghiệp

Lê Thị Thuỷ HCKT-2A

một chương trình nhận với nhiệm vụ duy nhất là tiếp nhận dữ liệu đến và
lưu giữ lại. Chuẩn của OSI không xét đến phương thức này.

Vấn đề đồng bộ hoá trong tầng Phiên được thực hiện tương tự như
cơ chế điểm kiểm tra/ phục hồi trong một hệ quản trị tệp. Dịch vụ này cho
phép người sử dụng xác định các điểm đồng bộ hoá trong dòng dữ liệu và
có thể khôi phục việc hội thoại bắt đầu từ một trong các điểm đó.
Tầng 6: Tầng trình diễn( Presentation Layer):
Tầng trình bày đảm bảo tầng ứng dụng của một trạm có thể đọc đúng
các thông tin mà một trạm khác gửi tới. Nếu cần tầng này sẽ thông dịch các
dữ liệu khác nhau dạng dữ liệu chung. Nó có nhiệm vụ định dạng lại dữ
liệu đúng theo yêu cầu của ứng dụng ở tầng trên. Ngoài ra nó có thể nén dữ
liệu truyền và mã hóa chúng trước khi truyền để bảo mật.
Tầng 7: Tầng ứng dụng ( Application Layer ):
Tầng ứng dụng tương tác trực tiếp với người sử dụng và nó cung cấp
các dịch vụ mạng cho các ứng dụng của người sử dụng nhưng không cung
cấp dịch vụ cho các tầng khác ngoại trừ tầng ứng dụng bên ngoài mô hình
OSI đang hoạt động. Các ứng dụng như chương trình xử lý bảng tính, các
chương trình xử lý văn bản, các chương trình đầu cuối,… Tầng này thiết
lập khả năng liên lạc giữa những người sử dụng, đồng bộ và thiết lập các
quy trình xử lý lỗi và đảm bảo tính toàn vẹn của dữ liệu.
V. Cơ sở của luồng dữ liệu trong mạng : sự đóng gói và tổng quan các
gói.
Để cho các máy tính gửi thông tin xuyên qua một mạng thì tất cả các
hoạt động truyền tin trên mạng đều bắt đầu từ một nguồn và nhắm đến một
đích. Thông tin được gửi lên mạng phải được gói và trong các gói bởi một
quá trình gọi là đóng gói. Hoạt động đóng gói sẽ gói dữ liệu cùng với thông
tin giao thức cần thiết trước khi chuyển đi, do đó khi dữ liệu chuyển dây

Đề tài : Xây dựng mạng cục bộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

23



Đố án tốt nghiệp

Lê Thị Thuỷ HCKT-2A

chuyền xuống xuyên qua các lớp của mô hình OSI, nó tiếp nhận các
header, các trailer và các thông tin khác.
Các mạng phải thực hiện theo 5 bước đàm thoại để gói dữ liệu:
- Xây dựng dữ liệu: khi một người dùng gửi một bức thư các ký tự
alphabet được chuyển đổi thành dạng dữ liệu có thể di chuyển xuyên qua
liên mạng.
- Gói dữ liệu để vận chuyển đầu cuối đến đầu cuối
Dữ liệu được đóng gói để vận chuyển qua liên mạng, bằng cách dùng
các phân đoạn dữ liệu, chức năng vận chuyển đảm bảo rằng các chủ của
thông điệp tại cả hai đầu cuối của hệ thống có thể liên lạc một cách tin cậy.
- Gán địa chỉ mạng vào header
Dữ liệu được đặt trong một gói hay datagram chứa một header mạng
với các địa chỉ vật lý của nguồn và đích. Các địa chỉ này giúp các thiết bị
mạng gửi các gói tin qua mạng dọc theo đường dẫn đã chọn.
- Gán địa chỉ cục bộ và header liên kết dữ liệu
Mỗi thiết bị mạng phải đặt gói vào trong một frame, frame cho phép
kết nối đến thiết bị mạng kế tiếp được nối trực tiếp trên liên kết.
- Chuyển đổi thành các bít để truyền
Frame phải được chuyển đổi thành các mẫu bít 0 và 1 để truyền trên
môi trường. Một chức năng đồng bộ cho phép các thiết bị phân biệt các bít
này khi chúng di chuyển xuyên qua môi trường. Môi trường trên liên mạng
về mặt vật lý có thể thay đổi dọc theo đường dẫn. Thí dụ thông điệp có thể
bắt nguồn từ một LAN xuyên qua một backbone của khuôn viên trường đi
ra một liên kết WAN cho đến khi đạt đến một mục đích của nó trên một
LAN. Các header và trailer được thêm vào dữ liệu khi di chuyển xuống các

lớp của mô hình OSI.
Các gói phải là đối tượng thông tin có thể theo dõi được và quản lý
được. Điều này được thể hiện thông qua quá trình đóng gói. Đó là tổng
quan ngắn gọn về quá trình diễn ra tại 3 tầng trên cùng là tầng ứng dụng,
Đề tài : Xây dựng mạng cục bộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

24


Đố án tốt nghiệp

Lê Thị Thuỷ HCKT-2A

tầng trình bày, tầng phiên, chuẩn bị dữ liệu để truyền bằng cách tạo ra một
khuôn dạng chung. Lớp vận chuyển chia dữ liệu thành các đợn vị có kích
thước nhỏ có thể quản lý được gọi là Segment. Nó cũng gán các chỉ số tuần
tự cho các Segment để đảm bảo host nhận tái thiết lập dữ liệu theo một trật
tự đúng. Lớp mạng gói các Segment để tạo thành gói dữ liệu giao thức của
nó. Nó nhận thêm địa chỉ đích và địa chỉ nguồn thông thường là điạ chỉ IP
cho gói. Lớp liên kết dữ liệu tiếp tục gói các gói dữ liệu để tạo thành frame.
Nó thêm địa chỉ MAC đích và địa chỉ MAC nguồn cho frame. Sau đó lớp
liên kết dữ liệu truyền các bít nhị phân của frame qua môi trường vật lý.
Khi dữ liệu chỉ được truyền trên một mạng cục bộ, chúng ta gọi đơn
vị dữ liệu là các frame vì địa chỉ MAC là tất cả những gì cần thiết để di
chuyển dữ liệu từ nguồn đến đích. Nhưng nếu chúng ta cần gửi dữ liệu đến
một host khác thông qua mạng Internet thì đơn vị dữ liệu được tham chiếu
đến chính là gói. Bởi vì địa chỉ mạng trong gói dữ liệu chứa địa chỉ host
đích cuối cùng mà dữ liệu muốn gửi đến.
VI. Họ giao thức TCP/IP
Để các máy tính trên mạng có thể trao đổi thông tin với nhau cần có

những phần mề làm việc theo một quy định chuẩn nào đó. Giao thức
(protocol) là tập quy tắc quy định phương thức truyền nhận thông tin giữa
các máy tính trên mạng.
Vào cuối những năm 1960, Trung tâm nghiên cứu cấp cao (Ađvance
Research Projects Agency – ARPA) được giao trách nhiệm phát triển mạng
ARPANET bao gồm mạng của những tổ chức quân đội, các trường đại học
và các tổ chức nghiên cứư và được dùng để hỗ trợ cho những dự án nghiên
cứu khoa học và quân đội. Kết qủa đầu những năm 1980, một họ giao thức
mới được đưa ra làm giao thức chuẩn cho mạng ARPANET và các mạng
của DoD mạng tên DARPA Internet procotol suit, thường gọi là họ giao

Đề tài : Xây dựng mạng cục bộ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ

25


×