Tải bản đầy đủ (.docx) (109 trang)

Tích hợp kiến thức ngữ văn trong dạy học bài phong cách ngôn ngữ nghệ thuật (ngữ văn 10 tập 2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (905.89 KB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

TRỊNH THỊ HẢI QUỲNH

TÍCH HỢP KIẾN THỨC NGỮ VĂN TRONG DẠY HỌC
BÀI "PHONG CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT"
(NGỮ VĂN 10 - TẬP 2)

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN

HÀ NỘI - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

TRỊNH THỊ HẢI QUỲNH

TÍCH HỢP KIẾN THỨC NGỮ VĂN TRONG DẠY HỌC
BÀI "PHONG CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT"
(NGỮ VĂN 10 - TẬP 2)

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM NGỮ VĂN

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN NGỮ VĂN)
Mã số: 60 14 01 11
Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thời Tân

HÀ NỘI - 2014


2


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, với tấm lòng thành kính, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc
tới người thầy hướng dẫn khoa học: TS. Lê Thời Tân - người đã tận tình chỉ bảo,
hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện Luận văn.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo khoa Ngữ văn sau đại
học trường Đại học Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội, các thầy cô giáo
Trường Đại học sư phạm I Hà Nội đã dạy bảo, tạo điều kiện giúp đỡ tôi trong
học tập, nghiên cứu và hoàn thành luận văn này.
Đồng thời, tôi cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô phản
biện đã có những nhận xét và đánh giá cho Luận văn này.
Cuối cùng, tôi muốn gửi lời cảm ơn đến gia đình và các bạn bè đồng
môn đã giúp đỡ, động viên tôi rất nhiều trong quá trình hoàn thành Luận văn.
Xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, ngày 20 tháng 11 năm 2014
Người thực hiện luận văn

Trịnh Thị Hải Quỳnh

1


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Kí hiệu

Diễn giải


BPTT

Biện pháp tu từ

DH

Dạy học

ĐT

Đào tạo

GD

Giáo dục

GS

Giáo sư

GV

Giáo viên

HS

Học sinh

KT


Kiểm tra

NNNT

Ngôn ngữ nghệ thuật

NXB

Nhà xuất bản

SGK

Sách giáo khoa

SPTH

Sư phạm tích hợp

TH

Tiểu học

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thong


TN

Thực nghiệm

TS

Tiến sĩ Ví

VD

dụ

2


MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn ................................................................................................ i
Danh mục viết tắt ........................................................................................ii .
Mục lục .......................................................................................................iii .
Danh mục các bảng .....................................................................................v .
Danh mục các biểu đồ, sơ đồ.......................................................................vi .
MỞ ĐẦU................................................................................................ 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA
ĐỀ TÀI......................................................................................................16 ..
1.1. Những vấn đề lý luận về dạy học tích hợp ...........................................16
..
1.1.1. Khái niệm về tích hợp.......................................................................16 ..
1.1.2. Các quan điểm tích hợp ................................................................ 18
1.1.3. Các hình thức tích hợp......................................................................20 ..

1.1.4. Ý nghĩa và mục tiêu của dạy học tích hợp ........................................20
..
1.2. Tích hợp trong môn Ngữ văn...............................................................22 .
1.3. Tích hợp trong phần Tiếng Việt...........................................................24 ..
1.4. Thực trạng dạy học Tiếng Việt lớp 10 THPT theo hướng tích
hợp .............................................................................................................26 ..
1.4.1. Khảo sát thực trạng dạy học Tiếng Việt nói chung tại một số
trường THPT hiện nay................................................................................26 ..
1.4.2. Khảo sát thực trạng dạy học phân môn Tiếng Việt theo hướng
tích hợp tại một số trường THPT hiện nay..................................................28 ..
Chương 2: VẬN DỤNG TÍCH HỢP KIẾN THỨC NGỮ VÀ
VĂN TRONG DẠY HỌC BÀI PHONG CÁCH NGÔN NGỮ
NGHỆ THUẬT (NGỮ VĂN 10 - TẬP 2) .................................................33 ..
2.1. Một số yêu cầu cơ bản khi dạy học phần Tiếng Việt theo hướng
tích hợp ......................................................................................................33 ..
2.1.1. Dạy học Tiếng Việt theo hướng tích hợp phải đảm bảo những
yêu cầu chung của dạy học Tiếng Việt .......................................................33 ..


3


2.1.2. Dạy học Tiếng Việt theo hướng tích hợp phải biết lựa chọn nội
dung tích hợp hợp lý, tự nhiên, tránh gượng ép.....................................

34

2.1.3. Dạy học Tiếng Việt theo hướng tích hợp phải đảm bảo giảm tải kiến
thức, rút ngắn được thời gian học tập cho HS....................................................


36

2.1.4. Tích hợp trong phân môn Tiếng Việt phải đảm bảo đúng quy

trì
nh
tíc
h
h

p
ch
un
g.
....
....
....
....
....
....
....
....
....
....
....
....
....
....
....
....

....
....


..........37 ..

ng

2.2. Một số biện pháp tích hợp trong dạy học Tiếng

hi

Việt ...........................37 ..
2.2.1. Tích hợp trong nội dung dạy


m
....

học ......................................................38 ..

....

2.2.2. Tích hợp trong kiểm tra đánh

....

giá......................................................42 ..

....


2.3. Tổ chức tích hợp kiến thức Ngữ và Văn trong dạy bài

....

Phong
cách ngôn ngữ nghệ thuật (Ngữ văn 10 - tập
2) ..........................................45 ..

....
....
....
....

2.3.1. Đặc điểm nội dung bài Phong cách ngôn ngữ nghệ

....

thuật..................46 ..

....

2.3.2. Định hướng triển khai dạy học bài "Phong cách ngôn ngữ

....

nghệ

....


thuật" theo hướng tích hợp kiến thức Ngữ Văn ........................................48 ..

....
....
.7

Chương 3: THỰC NGHIỆM SƯ

6.

PHẠM .......................................................59 ..

.

3.1. Mục đích thực

3.

nghiệm.........................................................................59 ..

5.

3.2. Đối tượng thực
nghiệm........................................................................59 ..
3.3. Phương pháp thực nghiệm ................................................................

1.
V

h


59



3.4. Nội dung thực

ng

nghiệm .........................................................................60 ..

th

3.4.1. Giáo án thực

ú

nghiệm ........................................................................60 ..
3.4.2. Thuyết minh về giáo án thực

củ
a
H

nghiệm................................................74 ..

S.

3.5. Đánh giá kết quả thực


....


.....................................................................77 ..
3.5.2. Về kết quả bài kiểm tra................................................................
78
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN
NGHỊ ..........................................................80 ..
1. Kết
luận ................................................................................................ 80
2. Khuyến
nghị...........................................................................................81 ..
TÀI LIỆU THAM
KHẢO........................................................................83 ..
PHỤ LỤC................................................................................................
86

4


DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 1.1. Quan điểm của GV Ngữ văn về mức độ cần thiết phải chú
trọng dạy học phân môn Tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn
THPT hiện nay.....................................................................................

27

Bảng 1.2. Các cách thức tích hợp GV thường vận dụng vào dạy học
phân môn Tiếng Việt THPT .................................................................


29

Bảng 1.3. Quan điểm của GV Ngữ văn về mức độ thường xuyên vận
dụng tích hợp vào dạy chương trình Tiếng Việt tại một số trường
THPT...........................................................................................................

30

Bảng 3.1. Thống kê kết quả bài kiểm tra của HS các lớp đối chứng và
thực nghiệm ........................................................................................

78

5


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ
Trang
Biểu đồ 1.1. Biểu đồ thể hiện quan điểm của GV về mức độ cần thiết
phải chú trọng dạy học phần Tiếng Việt trong chương trình Ngữ Văn
THPT hiện nay .........................................................................................27.... ...
Biểu đồ 1.2. Biểu đồ thể hiện một số cách thức tích hợp mà GV
THPT hiện nay vận dụng vào dạy phân môn Tiếng Việt ...........................29.. ...
Biểu đồ 1.3. Biểu đồ thể hiện quan điểm của GV Ngữ văn về mức độ
thường xuyên vận dụng tích hợp vào dạy chương trình Tiếng Việt
THPT………………………………………………………….... ..........

31


Sơ đồ 2.1. Biên soạn câu hỏi kiểm tra loại bài Tiếng Việt theo định
hướng tích hợp ..........................................................................................43... ...

6


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Vai trò quan trọng của ngôn ngữ và của phân môn Tiếng Việt
Cùng với lao động, ngôn ngữ cũng góp phần hình thành và phát triển
xã hội loài người. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp phổ biến và thuận lợi
nhất, được coi là "sáng tạo kỳ diệu của loài người". Ngôn ngữ còn là công cụ tổ
chức quá trình tư duy, giúp tư duy phát triển. Mặt khác, ngôn ngữ đóng vai trò
là một trong những yếu tố cơ bản cấu thành cộng đồng dân tộc, duy trì và phát
triển truyền thống văn hóa của dân tộc. Với người Việt Nam, tiếng Việt là ngôn ngữ
bản địa, góp phần duy trì sự thống nhất quốc gia, dân tộc.
Bên cạnh chức năng giao tiếp, chức năng tư duy, ngôn ngữ còn có chức
năng thẩm mĩ, là phương tiện để tạo nên cái đẹp - hình tượng nghệ thuật. Đề cao
chức năng thẩm mĩ của ngôn ngữ, môn Tiếng Việt trong nhà trường được chú
trọng để hướng nhiều vào nội dung dạy ngôn ngữ nghệ thuật, học Tiếng Việt
trong các tác phẩm nghệ thuật, học Tiếng Việt để hiểu nghệ thuật văn chương.
Do đó, việc dạy cho HS biết sử dụng ngôn ngữ một cách chính xác là mục tiêu
vô cùng quan trọng. Cũng vì thế, Tiếng Việt đã trở thành phân môn có vị trí đặc
biệt; không chỉ cung cấp những kiến thức, kĩ năng cơ bản để phát triển khả năng
giao tiếp, giúp các em hiểu được những giá trị "chân - thiện - mĩ" trong văn học,
trong cuộc sống, mà còn trang bị cho các em công cụ thiết yếu để học tốt các môn
khoa học khác. Đây chính là lý do vì sao Tiếng Việt là môn học (phân môn)
được dạy xuyên suốt từ bậc Tiểu học đến THPT.
1.2. Tích hợp là một phương pháp dạy học được quan tâm nhiều trong dạy
học môn Ngữ văn hiện nay

Thế kỉ XXI là thế kỉ của khoa học kĩ thuật, của sự bùng nổ tri thức, thế
kỉ của những con người năng động, sáng tạo và tự chủ. Để hội nhập với xu thế
phát triển chung của thế giới, xã hội Việt Nam cần có một sự thay đổi căn bản,
toàn diện về rất nhiều lĩnh vực trong đời sống, trong đó chủ yếu là những

7


thay đổi trong giáo dục. Bởi phát triển giáo dục chính là chiến lược phát triển
đất nước: "Giáo dục là quốc sách hàng đầu".
Đổi mới giáo dục chính là cách nhanh nhất rút ngắn khoảng cách vươn tới
mục tiêu nêu trên. Để có một cuộc cải cách giáo dục toàn diện, cần thay đổi căn
bản từ nội dung chương trình đến phương pháp giảng dạy. Vì một khi nội dung
chương trình giáo dục có sự thay đổi sẽ kéo theo nhu cầu cấp thiết đổi mới
phương pháp dạy học.
Từ năm học 2006 - 2007, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai đại trà
chương trình và sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 mới trên toàn quốc. Đó là việc
thay đổi tên gọi môn Văn - Tiếng Việt thành môn Ngữ văn, thay đổi trong cách
xác định mục tiêu môn học, trong quan điểm lựa chọn nội dung, kết cấu
chương trình, trong việc vận dụng các phương pháp và phương tiện dạy học để
đạt được mục tiêu giáo dục. Trước đây, ba phân môn: Văn học, Tiếng Việt,
Làm văn tách biệt nhau, không gắn bó với nhau trong một chỉnh thể, nhưng với
việc biên soạn chương trình mới theo tinh thần tích hợp thì ba phân môn được
hợp lại thành một môn chung, mỗi phân môn là một phần của môn Ngữ văn.
Những kiến thức kĩ năng của ba phân môn Đọc văn, Tiếng Việt, Làm văn được
triển khai đồng thời cho mỗi bài học, theo mối quan hệ đồng quy, nhằm thực hiện
mục tiêu cao nhất của chương trình là giúp cho HS từng bước nâng cao và hoàn
thiện năng lực đọc - hiểu văn bản và viết các loại văn bản theo phương thức biểu
đạt một cách tích cực, chủ động. Cơ sở của việc tích hợp này là lấy Tiếng Việt
làm nền tảng của Đọc văn và Làm văn, Làm văn là thực hành của Tiếng Việt,

còn Đọc văn là tinh hoa của Tiếng Việt do các bậc thầy văn chương thực hiện.
Bởi môn Ngữ văn là một môn học tích hợp giữa ngôn ngữ với văn tự (chữ viết),
ngôn ngữ với văn bản, ngôn ngữ với văn hóa, ngôn ngữ nói với ngôn ngữ viết.
Về bản chất, đối tượng của Đọc văn là các tác phẩm nghệ thuật ngôn từ của dân
tộc và nhân loại từ cổ chí kim, còn đối tượng của Tiếng Việt là hệ thống ngôn
ngữ, quy luật hành chức... Nên học Đọc văn, HS thấy được vẻ đẹp của ngôn ngữ
vì thực chất công việc phân tích

8


các hình tượng văn học là công việc đi từ nghệ thuật ngôn từ mà khám phá ra
vẻ đẹp, ý nghĩa các hình tượng văn học. Từ đó, yêu văn chương, các em càng yêu
Tiếng Việt. Và thông qua đó, giúp người học rèn luyện, trau dồi được các kiến
thức và kỹ năng cần thiết cho cuộc sống.
Như vậy, chương trình và SGK Ngữ văn đã tạo điều kiện thuận lợi cũng
như đặt ra đòi hỏi GV phải dạy ba phần của môn Ngữ văn như một thể thống
nhất. Trong đó mỗi phần vừa giữ bản sắc riêng, vừa hoà nhập với nhau cùng
hình thành các tri thức, kĩ năng Ngữ văn ở HS. Để làm được điều đó một cách có
hiệu quả thì việc vận dụng quan điểm tích hợp vào dạy học là một yêu cầu tất yếu.
1.3. Việc dạy học theo hướng tích hợp trong nhà trường phổ thông hiện
nay còn nhiều bất cập
Đã nhiều năm, qua thực tế dạy học vẫn tồn tại một khuyết điểm khó
khắc phục, đó là tình trạng GV dạy bài nào soạn bài đó và chỉ biết bài đó. Kế
hoạch soạn bài theo toàn chương, theo học kì đã được đặt ra từ nhiều thập kỉ
trước nhưng cho đến nay nhược điểm đó ở nhiều GV hầu như vẫn chưa được
khắc phục. Vì vậy, hầu hết mỗi bài học đều bị tách rời khỏi hệ thống, dạy một
bài Tiếng Việt nhưng không chú ý đến sự liên thông với các kiến thức Tiếng
Việt cùng hệ thống và những bộ phận liên quan như Đọc văn, Làm văn. Hậu
quả của lối giảng dạy này là không những không giúp HS nắm vững kiến thức

cụ thể đang học và kiến thức hệ thống không được sâu chuỗi, liên kết với nhau
mà còn làm hạn chế khả năng tư duy tổng hợp kiến thức của HS, khiến HS có
tâm lý chán học. Lối dạy học manh mún đó còn phương hại đến việc rèn
luyện tư duy khái quát, tư duy hệ thống - vốn là những năng lực quan trọng cần
thiết cho HS THPT.
Thực tế quan sát được từ các nhà trường phổ thông, việc đổi mới
phương pháp dạy học đối với tất cả các môn học, đặc biệt trong môn Ngữ Văn
còn rất nhiều hạn chế. Chương trình Ngữ văn 10 đã đưa ra định hướng về đổi
mới phương pháp và hình thức dạy học theo tinh thần tích hợp, nhưng những

9


nghiên cứu cụ thể về dạy học theo quan điểm tích hợp, một đặc thù của bộ
môn lại chưa được triển khai một cách thoả đáng. Đối với phân môn Tiếng
Việt nói riêng, phương pháp dạy học Tiếng Việt yêu cầu vận dụng nguyên tích
hợp phải lấy khâu đọc - hiểu và thực hành Làm văn làm hai trục tích hợp chủ
yếu, phải xử lí đúng đắn mối quan hệ giữa cung cấp tri thức lí thuyết với rèn
luyện kĩ năng và bồi dưỡng năng lực Tiếng Việt cho HS, không dạy học quá
nhiều các tri thức hàn lâm nhưng cũng không dạy học theo kiểu kinh nghiệm
chủ nghĩa. Nhưng trên thực tế thì hầu hết các GV đều dạy nhiều về lý thuyết hàn
lâm mà ít cho HS đi vào thực hành. Việc khai thác các dữ liệu qua phần Đọc văn
còn rất hạn chế, HS chưa có điều kiện để tự mình huy động hết
vốn kiến thức vào vận dụng làm các bài tập…
Trước tình hình thực tế đó, việc đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng tích hợp nói chung và trong phân môn Tiếng Việt nói riêng đang trở
thành vấn đề vô cùng bức thiết. Làm sao để nâng cao chất lượng giáo dục nước
nhà, đáp ứng mục tiêu của nền giáo dục hiện đại là một câu hỏi lớn không chỉ
với các nhà hoạch định đường lối, chính sách giáo dục mà cần được lưu tâm
bởi tất cả các nhà giáo đang trực tiếp làm công tác giảng dạy, g i á o d ụ c HS .

Xuất phát từ những vấn đề nêu trên cùng điều kiện nghiên cứu của bản
thân đã gợi cho người viết ý tưởng lựa chọn nghiên cứu đề tài "Tích hợp kiến
thức Ngữ Văn trong dạy học bài "Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật" (Ngữ
văn 10 - tập 2)" làm luận văn thạc sỹ. Trên cơ sở đó, chúng tôi cũng mong
muốn có những đóng góp phần nào trong việc định hướng triển khai thực hiện
giảng dạy một bài Tiếng Việt nói chung theo hướng tích hợp trong chương
trình THPT.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trong mỗi chúng ta, ai cũng hiểu được rằng cuộc sống là muôn hình
muôn vẻ, nó được coi là bộ đại bách khoa toàn thư về kinh nghiệm và phương
pháp. Vì mọi tình huống xảy ra trong cuộc sống bao giờ cũng là những tình

10


huống tích hợp. Không thể giải quyết một vấn đề và nhiệm vụ nào của lí luận
và thực tiễn mà lại không sử dụng tổng hợp các kiến thức, kinh nghiệm, kĩ
năng đa ngành của nhiều lĩnh vực khác nhau. Vì vậy có thể nói rằng, tư tưởng tích
hợp bắt nguồn từ cơ sở khoa học và đời sống.
Trong lịch sử phát triển khoa học của nhân loại, các lĩnh vực khoa học
ngày càng phân hoá thì tính tích hợp lại càng chặt chẽ. Do vậy, sang thế kỷ XX
đã xuất nhiện nhiều khoa học liên ngành, đa ngành. Các khoa học đã chuyển từ
tiếp cận "phân tích - cấu trúc" sang tiếp cận "tổng hợp - hệ thống". Sự thống
nhất của tư duy phân tích và tổng hợp đều cần thiết cho sự phát triển nhận thức,
đem lại cách nhận thức biện chứng về mối quan hệ giữa bộ phận với toàn thể.
Việc giảng dạy các khoa học trong nhà trường vì thế cũng phải phản ánh sự phát
triển hiện đại của khoa học, không thể cứ tiếp tục giảng dạy
các khoa học như những lĩnh vực tri thức riêng rẽ. Bởi thế, tích hợp đã trở
thành một trong những xu thế dạy học hiện đại đang được quan tâm nghiên
cứu và áp dụng vào nhà trường ở nhiều nước trên thế giới.

Vì điều kiện khó khăn trong việc thu thập và bao quát các tư liệu nước
ngoài, chúng tôi chưa thực sự tìm hiểu đầy đủ các công trình nghiên cứu về
tích hợp của các nước trên thế giới. Tuy nhiên, với những tài liệu đã thu thập
được, chúng tôi mong muốn phần nào có thể nêu lên một số nhận xét tổng
quát về tình hình nghiên cứu cũng như một số nội dung tích hợp đã và sẽ được
đề cập trong bài.
2.1. Dạy học tích hợp ở một số nước trên thế giới
Trên thế giới, tích hợp đã trở thành một trào lưu sư phạm hiện đại bên
cạnh các trào lưu sư phạm theo mục tiêu, giải quyết vấn đề, phân hoá, tương
tác... Trào lưu sư phạm tích hợp xuất phát từ quan niệm về quá trình học tập,
trong đó toàn thể các quá trình học tập góp phần hình thành ở HS những năng lực
rõ ràng. Khái niệm năng lực ở đây được hiểu là một khái niệm tích hợp bao hàm
cả những nội dung, những hoạt động cần thực hiện và những tình
huống có diễn ra các hoạt động. Theo ý nghĩa đó, năng lực được định nghĩa là sự
tích hợp các kĩ năng (các hoạt động) tác động một cách thích hợp và tự

11


nhiên lên các nội dung trong một loạt tình huống cho trước, để giải quyết
những vấn đề do tình huống đó đặt ra. Năng lực này là một hoạt động phức
hợp đòi hỏi sự tích hợp, phối hợp các kiến thức và kĩ năng, chứ không phải là sự
tác động các kĩ năng riêng rẽ lên một nội dung.
Khoa sư phạm tích hợp nhấn mạnh dạy học là dạy cách tìm tòi, sáng tạo
và cách vận dụng kiến thức vào các tình huống khác nhau. Tức là, dạy cho HS
biết cách sử dụng kiến thức và kĩ năng của mình để giải quyết những tình
huống cụ thể, có ý nghĩa nhằm mục đích hình thành, phát triển năng lực.
Đồng thời chú ý xác lập mối liên hệ giữa các kiến thức, kĩ năng khác nhau của các
môn học hay các phân môn khác nhau để bảo đảm cho HS khả năng huy động
có hiệu quả những kiến thức và năng lực của mình vào giải quyết các tình

huống tích hợp.
Đã có rất nhiều nhà nghiên cứu, nhiều Hội nghị trên thế giới quan tâm đến
lý thuyết về tích hợp như: Tháng 9 -1968, Hội đồng liên quốc gia về giảng dạy
khoa học, với sự bảo trợ của UNESCO đã tổ chức tại Varna (Bungari) "Hội
nghị tích hợp việc giảng dạy các khoa học". Hội nghị này đặt ra hai vấn đề: "Vì
sao phải dạy học tích hợp các khoa học?" và "dạy học tích hợp các khoa học
là gì?". Đến năm 1972, Hội nghị phối hợp trong chương trình giáo dục của
UNESCO họp tại Paris đã đưa ra định nghĩa dạy học tích hợp các khoa học.
Ngay sau đó, UNESCO lại tổ chức Hội nghị đào tạo GV vào tháng 4 năm 1973
tại Đại học tổng hợp Maryland bàn thêm về khái niệm dạy học tích hợp các khoa
học còn bao gồm cả dạy học tích hợp các khoa học với công nghệ học. Nghĩa là
phải chỉ ra cách thức chuyển từ nghiên cứu khoa học sang triển khai ứng dụng,
làm cho các tri thức kĩ thuật - công nghệ trở thành một bộ phận quan trọng của
đời sống xã hội hiện đại.
Cũng theo hướng tích hợp các khoa học với công nghệ, gắn học với
hành, Xavier Roegiers (Phó Giám đốc văn phòng Công nghệ Giáo dục và Đào tạo
của Liên minh Châu Âu) cho rằng: giáo dục nhà trường phải chuyển từ đơn
thuần dạy kiến thức sang phát triển ở HS các năng lực hành động, xem

12


năng lực (compétence) là khái niệm "cơ sở" của khoa sư phạm tích hợp
(pédagogie de l'intégration). Theo Xavier Roegiers, sư phạm tích hợp (SPTH) là
một quan niệm về quá trình học tập, trong đó toàn bộ quá trình học tập góp phần
hình thành ở HS những năng lực cụ thể có dự tính trước những điều kiện cần thiết
cho HS, nhằm phục vụ cho các quá trình học tập sau này hoặc nhằm hoà nhập
HS vào cuộc sống lao động. Như vậy SPTH tìm cách làm cho quá trình học tập
có ý nghĩa.
Trong cuốn "Khoa sư phạm tích hợp hay làm thế nào để phát triển các

năng lực ở nhà trường" của Xavier Roegiers do Đào Trọng Quang và Nguyễn
Ngọc Nhị dịch (1996) đã đưa ra cái nhìn tổng quan về dạy học tích hợp. Trong
cuốn sách này tác giả đã đưa ra định nghĩa và mục tiêu của khoa sư phạm tích
hợp; ảnh hưởng của khoa sư phạm tích hợp đối với chương trình; ảnh hưởng
của khoa sư phạm tích hợp đối với việc đánh giá những kiến thức HS đã lĩnh
hội và ảnh hưởng của khoa sư phạm tích hợp đối với việc biên soạn sách giáo
khoa.
Quan điểm tích hợp còn được thể hiện khá rõ trong nhiều công trình
nghiên cứu cũng như SGK của một số nước như: Trung Quốc, Pháp,
Malaixia, Đức... Tuy nhiên, việc đưa tích hợp vào các môn khoa học tự nhiên
và các môn khoa học xã hội của một số nước là khác nhau. Riêng ở môn Tiếng,
xu hướng tích hợp từ Tiểu học đến THPT của các nước trên thế giới là tương đối
thống nhất. Tích hợp triệt để các mảng nội dung để dạy các kỹ năng nghe, nói, đọc,
viết thông qua việc cho HS tiếp xúc với loại văn bản ngay từ những buổi đầu HS
tập đọc, tập viết ở bậc Tiểu học đến THPT.
Như vậy, tích hợp là một hiện tượng khá phổ biến đã xuất hiện từ lâu ở các
nước trên thế giới. Nhưng mỗi nước lại có những cách nhìn nhận và áp dụng
riêng tùy thuộc đặc điểm tình hình từng quốc gia, từng môn học mà không đi
lệch khỏi đường ray cốt lõi của nó.

13


2.2. Dạy học tích hợp ở Việt Nam
Vấn đề tích hợp môn học trên thế giới đã có từ rất lâu, nhưng ở Việt
Nam mới có manh nha từ thập niên 90 của thế kỷ XX trở lại đây và ngày càng
được chú trọng với những mức độ khác nhau.
Ở Việt Nam, Thời Pháp thuộc, quan điểm tích hợp được thể hiện trong một
số môn ở trường Tiểu học như môn "Cách trí", sau đổi thành môn "Khoa học
thường thức". Môn học này được dạy một số năm ở trường Tiểu học của miền

Bắc nước ta. Từ những năm 1987, việc nghiên cứu xây dựng môn "Tìm hiểu tự
nhiên - xã hội" của Việt Nam theo quan điểm tích hợp đã được thiết kế đưa vào
dạy học từ lớp 1 đến lớp 5. Đến năm 2000, quan điểm tích hợp được thể hiện
trong chương trình, SGK và các hoạt động DH ở Tiểu học. Tuy nhiên khái niệm
tích hợp vẫn còn mới lạ với nhiều GV.
Sang chương trình ở cấp Trung học, tích hợp được thể hiện chủ yếu ở
mức thấp, chưa được áp dụng sâu. Một trong những nguyên nhân chính là do
việc dạy học tích hợp liên quan đến nhiều yếu tố đòi hỏi phải có quá trình
chuẩn bị lâu dài mà chúng ta chưa thực hiện được đầy đủ như: chương trình,
sách giáo khoa, tổ chức dạy học, phương pháp dạy và học, đánh giá, kiểm tra,
thi... Tuy vậy, ngày càng có nhiều nội dung giáo dục được tích hợp vào một số
môn học ở bậc Trung học (như: dân số, môi trường, phòng chống HIV/AIDS,
chống các tệ nạn xã hội, giáo dục pháp luật, an toàn giao thông...) bằng phương
thức lồng ghép. Việc dạy học các nội dung này bước đầu đã làm cho GV có một
số kinh nghiệm thực tiễn về tích hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện
dạy học tích hợp trong chương trình và sách giáo khoa mới sau 2015.
Thực tiễn trong những thập niên 90 trở lại đây, việc dạy học của chúng
ta vẫn mang tính "hàn lâm, lý thuyết" nhiều. Đặc điểm cơ bản đó là chú trọng
việc truyền thụ hệ thống tri thức khoa học đã được quy định trong chương trình
mà chưa chú trọng đầy đủ đến chủ thể người học cũng như đến khả năng ứng
dụng tri thức đã học trong những tình huống thực tiễn. Mục tiêu dạy học

14


trong chương trình được đưa ra một cách chung chung, không chi tiết; việc
quản lý chất lượng giáo dục chỉ tập trung "điều khiển đầu vào" là nội dung dạy
học. Đến nay, việc chuyển đổi SGK ở trường phổ thông theo hướng tích hợp là
một yêu cầu tất yếu đổi mới việc dạy và học Ngữ văn. Chương trình THPT
môn Ngữ văn, năm học 2002 do Bộ giáo dục và Đào tạo dự thảo đã ghi rõ: "Lấy

quan điểm tích hợp làm nguyên tắc chỉ đạo để tổ chức nội dung chương trình,
biên soạn SGK và lựa chọn các phương pháp giảng dạy" [tr. 27]. "Nguyên tắc
tích hợp phải được quán triệt trong toàn bộ môn học, từ Đọc văn, Tiếng Việt
đến Làm văn; quán triệt trong mọi khâu của quá trình dạy học; quán triệt
trong mọi yếu tố của hoạt động học tập; tích hợp trong chương trình; tích hợp
trong SGK; tích hợp trong phương pháp dạy học của GV và tích hợp trong
hoạt động học tập của HS; tích hợp trong các sách đọc thêm, tham khảo" [tr.
40]. Sau gần mười năm thực hiện chương trình Ngữ văn THCS mới, bước đầu
chúng ta đã thu được những kết quả đáng khích lệ. Với việc lấy quan điểm tích
hợp làm nguyên tắc để biên soạn chương trình, vấn đề dạy học Ngữ văn THCS
theo hướng tích hợp ngày càng được nghiên cứu sâu và rộng.
Nhưng có một vấn đề đáng bàn là ở nước ta trong nhiều năm qua, tích hợp
được chú ý nhiều tại các hội thảo, hội nghị, song đến nay nó vẫn chưa thực sự
trở thành nguyên tắc hoặc định hướng chung, nhất quán từ đầu trong việc xây
dựng chương trình, viết sách giáo khoa và định hướng dạy học các môn học ở
các cấp học phổ thông. Tích hợp mới chỉ là một trong những định hướng cơ bản
xây dựng chương trình Tiểu học năm 2000.
Vì định hướng tích hợp chưa trở thành quan điểm chỉ đạo phát triển
chương trình Giáo dục phổ thông nên việc quán triệt định hướng này trong đào
tạo cũng có những hạn chế nhất định. Mặc dù, đội ngũ chuyên gia giáo dục và
đội ngũ GV đã có nhận thức về tích hợp không tạo môn học mới như tích hợp
một số mặt giáo dục trong dạy học môn học, tích hợp trong nội bộ

15


môn học nhưng việc xây dựng một số chủ đề tích hợp và dạy học theo dự án
thì còn rất hạn chế.
Ở Việt Nam, đã có rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề tích
hợp, nhưng tiêu biểu là tích hợp trong môn Ngữ văn như: Trương Dĩnh trong

cuốn"Thiết kế dạy học Ngữ văn THCS theo hướng tích hợp", đã nêu lên những
phương diện tích hợp trong dạy học Ngữ văn THCS; năng lực tích hợp, kiểu
văn bản tích hợp, phương pháp tích hợp; mối quan hệ giữa tích hợp và tích cực;
tích hợp và hiệu quả dạy học tích hợp; tích hợp gắn liền với đời sống xã hội và
cách triển khai các bài dạy cụ thể trong chương trình THCS theo định hướng
tích hợp...
Người rất tâm huyết với vấn đề đọc hiểu và vấn đề tích hợp là GS.TS.
Nguyễn Thanh Hùng. Trong bài "Tích hợp trong dạy học Ngữ văn" đăng trên
tạp chí "Nghiên cứu giáo dục" (số 6, tháng 3 năm 2006), tác giả đã chỉ ra bản chất
của tích hợp là "Phương hướng phối hợp (Integrate) một cách tốt nhất các quá
trình học tập của nhiều môn học cũng như các phân môn Văn, Tiếng Việt, Làm
văn trong một môn Ngữ văn". Trên cơ sở phân tích tư tưởng tích hợp, tác giả
chỉ ra ý nghĩa của tích hợp: "Tích hợp trong nhà trường sẽ giúp HS học tập
thông minh, biết vận dụng sáng tạo kiến thức, kỹ năng và phương pháp của
khối lượng tri thức toàn diện, hài hoà (Harnonie), hợp lý (Algebra) trong tình
huống khác nhau và mới mẻ trong cuộc sống hiện đại".
Quan tâm đến vấn đề tích hợp, TS. Đỗ Ngọc Thống, người tham gia
biên soạn chương trình SGK Ngữ văn THCS cũng có nhiều đóng góp đáng ghi
nhận. Trong cuốn "Đổi mới việc dạy và học môn Ngữ văn ở THCS" Nxb GD
(2002); tác giả có một hệ thống bài viết về quan điểm tích cực và việc dạy học Văn
theo hướng tích hợp, giúp người đọc hiểu rõ "Việc lấy tên chung của cuốn sách là
Ngữ văn không chỉ đơn thuần là dồn ba phân môn lại thành một cuốn sách theo
kiểu gộp lại (Combination) mà chúng được xây dựng theo tinh thần tích hợp
(Integration)". Trong bài viết "Dạy học môn Ngữ văn theo nguyên tắc tích
hợp", tác giả chỉ ra biểu hiện của tích hợp là "Trong cuốn

16


sách cả ba phân môn Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn cùng dựa trên một văn

bản chung để khai thác, hình thành, rèn luyện các kiến thức và kỹ năng của mỗi
phân môn". Trên cơ sở đó, tác giả chỉ ra ưu điểm của nguyên tắc dạy học tích
hợp: "Tích hợp thể hiện trong việc xây dựng cấu trúc SGK, trong quá trình tổ
chức giờ dạy học, thay đổi cách soạn giáo án, cách kiểm tra đánh giá chất
lượng học tập của HS".
TS. Nguyễn Văn Đường trong "Tích hợp trong dạy học Ngữ văn bậc
THCS", (Tạp chí Giáo dục, 2002) cũng đã đề cập đến một số cơ sở lý luận và
thực tiễn, bản chất của tích hợp và đề ra những phương hướng thực hiện tích
hợp trong dạy học Ngữ văn, song mới chỉ dừng lại ở phạm vi ứng dụng c h o T
H CS.
Ngoài ra còn có một số sách tham khảo, các bài báo, luận văn viết về vấn
đề tích hợp trong dạy học Ngữ văn của nhiều tác giả: Trần Bá Hoành, Nguyễn
Khắc Phi, Vũ Thị Sơn, Phan Trọng Luận, Trần Đình Sử… Các tài liệu trên đã
đặt cơ sở lý luận cho việc dạy học theo hướng tích hợp, song đối tượng chủ yếu
vẫn là THCS. Đối với cấp THPT, các tài liệu bàn về vấn đề dạy học theo
hướng tích hợp còn rất ít.
Tích hợp không chỉ được chú trọng nhiều trong dạy học Ngữ văn nói
chung, mà những năm gần đây cũng đã bắt đầu thu hút khá nhiều học giả
nghiên cứu dạy học tích hợp riêng trong phần Tiếng Việt. Nhưng do điều kiện
và thời lượng có hạn, chúng tôi chỉ dừng lại ở việc tìm hiểu các công trình
nghiên cứu trong phạm vi trường Đại học Giáo dục. Như trong chuyên ngành
Ngữ văn của riêng trường Đại học Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội đã có
một số công trình nghiên cứu: Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Thị Vân Anh
- Trường Đại học giáo dục (2008 - 2010) "Dạy các biện pháp tu từ so sánh,
nhân hóa, ẩn dụ, hoán dụ theo hướng tích hợp trong chương trình Ngữ văn lớp
6, lớp 7 THCS"; luận văn thạc sĩ của tác giả Lưu Quỳnh Nga - Trường Đại học
Giáo dục (2008 - 2010): "Dạy học Tiếng Việt lớp 10 trung học phổ thông theo
hướng tích hợp (ban cơ bản)"; luận văn thạc sĩ của tác giả

17



Nguyễn Thị Hường - Trường Đại học Giáo dục (2010 - 2012): "Dạy học loạt
bài thực hành kỹ năng sử dụng Tiếng Việt lớp 10 theo hướng tích hợp"...
Có thể thấy rằng, tích hợp đã trở thành xu hướng chung của việc xây
dựng chương trình và SGK Ngữ văn của nhiều nước trong khu vực và trên thế
giới và cũng không phải là điều hoàn toàn mới mẻ trong lịch sử xây dựng
chương trình, SGK Tiếng Việt và Văn học của nước ta. Tuy nhiên, ở Việt
Nam, vấn đề tích hợp trước đây chủ yếu vẫn dựa trên quan điểm lấy Văn học
làm trung tâm, mục tiêu của mỗi bài học trong SGK chủ yếu vẫn nhằm giúp
HS cảm thụ các tác phẩm văn chương. Những kiến thức Tiếng Việt, Làm văn
được đề cập đến còn rời rạc, ngẫu nhiên do tính chất của văn bản xếp theo trình
tự văn học sử quyết định. Trong khi đó, chúng ta thấy việc xây dựng chương
trình và SGK Ngữ văn theo quan điểm tích hợp hiện nay vừa kế thừa tính tích
hợp đã được thể hiện trong các chương trình và SGK Ngữ văn trước đây, đồng
thời có sự đổi mới theo hướng cập nhật và tiếp cận với chương trình và SGK
tích hợp trong khu vực và trên thế giới. Tuy nhiên, việc vận dụng quan điểm
tích hợp vào dạy các bài cụ thể trong chương trình Ngữ văn nói chung và phần
Tiếng Việt nói riêng vẫn còn bị bỏ ngỏ. Đa phần các tác giả nghiên cứu mới chỉ
đưa ra phương pháp dạy học tích hợp chung trong một nhóm bài mà chưa chỉ ra
được việc triển khai dạy một bài cụ thể trong chương trình theo hướng tích
hợp như thế nào. Mặt khác, các tác giả chủ yếu nghiên cứu tích hợp ở các dạng
bài mang tích chất luyện tập, thực hành nhiều mà chưa có công trình nghiên cứu
nào chuyên sâu vào tích hợp kiến thức Ngữ với Văn ở các dạng bài hình thành,
xây dựng khái niệm, kiến thức mới.
Các kết quả nghiên cứu của các tác giả đi trước chính là nguồn tài liệu quý
báu, có giá trị cho chúng tôi sử dụng làm luận cứ hoặc làm phương pháp
chứng minh luận điểm của mình để từ đó tiếp tục tìm hiểu và phát triển sâu
hơn nữa các vấn đề về lý luận cũng như thực tiễn của phương pháp tích hợp
được vận dụng trong dạy học môn Ngữ Văn nói chung và môn Tiếng Việt nói

riêng trong nhà trường THCS, và THPT.

18


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Triển khai nghiên cứu đề tài, chúng tôi mong muốn góp một tiếng nói
trong việc đổi mới phương pháp dạy học Ngữ văn nói chung, dạy học Tiếng
Việt nói riêng và hướng tới giải quyết các yêu cầu sau:
+ Trên cơ sở nghiên cứu lí thuyết dạy học tích hợp và tìm hiểu, đánh giá
thực trạng, xây dựng cơ sở lý luận dạy học theo quan điểm tích hợp kiến thức
Ngữ - Văn, luận văn đề xuất cách tích hợp kiến thức Ngữ với Văn vào dạy học
bài Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật trong chương trình Ngữ văn lớp 10, giúp
GV có được những định hướng cần thiết để triển khai giờ học có hiệu quả, đáp
ứng được yêu cầu tích hợp của chương trình và SGK. Đồng thời, giúp các em
HS thấy được sự liên kết chặt chẽ giữa phần Đọc văn với phần Tiếng Việt và
Làm văn, thấy được những cảm quan, những cái nhìn sâu lắng nhất về ngôn ngữ
nghệ thuật được sử dụng trong các văn bản Đọc văn và từ đó có thể giúp các em
rèn luyện kỹ năng tạo lập văn bản theo phong cách riêng của mình, giúp HS có ý
thức giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt, góp phần hình thành những năng lực
nghe, nói, đọc, viết và phát triển nhân cách cho HS.
+ Trên cơ sở thực nghiệm một bài dạy học Tiếng Việt cụ thể, các GV có
thể khái quát phương pháp dạy học cả phân môn Tiếng Việt trong chương trình
Ngữ Văn THPT theo hướng tích hợp.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Thứ nhất: Trong phần cơ sở lý luận của đề tài sẽ tập trung nghiên cứu
cơ sở lý luận và thực tiễn về dạy học tích hợp trên thế giới và ở Việt Nam, dạy
học tích hợp trong môn Ngữ văn nói chung và dạy học tích hợp phần Tiếng
Việt lớp 10 nói riêng.

Thứ hai: Dựa vào lý thuyết tích hợp, vạch ra được các yêu cầu và đề
xuất cách vận dụng tích hợp kiến thức Ngữ với Văn trong dạy học bài "Phong
cách ngôn ngữ nghệ thuật" (Ngữ văn 10 - tập 2).

19


Thứ ba: Tiến hành thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi
của đề tài. Trên cơ sở kết quả thực nghiệm sẽ tiến hành phân tích, nhận xét,
đánh giá để có những kiến nghị và giải pháp cụ thể cho hướng nghiên cứu tiếp
theo.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tổ chức dạy học bài "Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật" Ngữ văn lớp
10 - tập 2 theo hướng tích hợp kiến thức Ngữ - Văn.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: nghiên cứu hoạt động dạy và học bài "Phong cách ngôn
ngữ nghệ thuật" (Ngữ văn 10 - tập 2) theo hướng tích hợp kiến thức Ngữ Văn
xem chất lượng và hứng thú học của các em thay đổi ra sao.
- Về thời gian nghiên cứu: trong năm học 2014 - 2015.
- Về không gian: Lớp 10A1, 10A2 trường THPT Trần Thánh Tông Hà Nội.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng linh hoạt một số phương pháp cơ bản sau:
5.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết được tiến hành chủ yếu khi xác định
cơ sở lí luận cho đề tài. Để giải quyết tốt các nhiệm vụ của luận văn, cần
nghiên cứu lí thuyết về khoa học tích hợp, nghiên cứu một số lí luận về dạy
học bộ môn, quan điểm tích hợp trong chương trình và SGK Ngữ văn 10. Do
vậy, cần vận dụng kết quả nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, nhiều lĩnh
vực nghiên cứu khác nhau để có được sự phân tích đầy đủ về những cơ sở

khoa học của đề tài, trên cơ sở đó xác định yêu cầu, tiêu chí và cách thức vận
dụng tích hợp vào dạy học Tiếng Việt.
5.2. Phương pháp điều tra, khảo sát
Để có được bức tranh tổng thể về thực trạng của việc sử dụng biện
pháp tích hợp vào dạy học phần Tiếng Việt lớp 10 nói chung, dạy bài Phong

20


×