Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Vai trò của hoạt động giáo dục trong các giai đoạn tố tụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (65.39 KB, 11 trang )

vai trò của hoạt động giáo dục trong các giai đoạn tố tụng
Hoạt động giáo dục tư pháp không chỉ nhằm đảm bảo sự công bằng cho xã hội, phát
hiện và trừng trị người phạm tội, mà còn hướng tới một mục đích quan trọng, đó là:
cải tạo cảm hóa người phạm tội, giáo dục ý thức pháp luật cho các công dân, qua đó
thực hiện tốt công tác phòng ngừa và ngăn chặn tội phạm. Trong phạm vi bài viết,
em xin đề cập đến vấn đề “vai trò của hoạt động giáo dục trong các giai đoạn tố
tụng và có một số kết luận cá nhân sau đây.

B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC TRONG HOẠT ĐỘNG TƯ PHÁP
1. Khái niệm hoạt động giáo dục:
Giáo dục là quá trình tác động có mục đích, có hệ thống đến tâm lí người bị giáo
dục, nhằm hình thành ở họ những phẩm chất tâm lí mà người giáo dục mong muốn.
2. Mục đích của hoạt động giáo dục trong hoạt động tư pháp:
Thứ nhất, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa đồng thời tăng cường ý thức
pháp luật của mọi công dân. Thông qua hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật
trong các quá trình tố tụng để giáo dục ý thức tuân thủ pháp luật của công dân.
Thứ hai, phòng ngừa hành vi phạm tội và hành vi vi phạm pháp luật. Thực tế
cho thấy nhiều người thiếu hiểu biết, coi thường pháp luật nên cần phải giáo dục ý
thức pháp luật cho mọi người vừa có tác dụng răn đe vừa có tác dụng phòng ngừa
tội phạm.


Thứ ba, giáo dục, cải tạo và cảm hoá người phạm tội. Đây là mục tiêu chủ
yếu, quan trọng nhất của hoạt động giáo dục trong hoạt động tư pháp. Giáo dục phải
hướng đến loại bỏ những phẩm chất tâm lý tiêu cực ở người phạm tội làm nảy sinh
và phát triển các phẩm chất tâm lý tích cực dể đưa họ trở về với xã hội.
3. Đặc điểm của hoạt động giáo dục trong hoạt động tư pháp:
Trước hết, hoạt động giáo dục là một quá trình tác động không mang tính tự phát
mà là quá trình tác động có chủ định, có mục đích rõ ràng. Quá trình giáo dục trong
hoạt động tư pháp là một quá trình tác động có hệ thống, có nghĩa là chức năng giáo


dục được tiến hành một cách đồng bộ và có sự kế tục. Kết quả của hoạt động giáo
dục ở giai đoạn trước sẽ là tiền đề, là cơ sở để tiến hành hoạt động giáo dục ở giai
đoạn tiếp theo.
Thứ hai, hoạt động giáo dục không những hướng tới các công dân mà còn hướng tới
một đối tượng đặc biệt, đó là người phạm tội.
Thứ ba, hoạt động giáo dục trong hoạt động tư pháp được tiến hành trong những
điều kiện đặc biệt. Trong giai đoạn điều tra, hoạt động giáo dục được tiến hành
thông qua hoạt động điều tra như xét hỏi, đối chất…Trong giai đoạn xét xử, hoạt
động giáo dục được tiến hanh thông qua hoạt động xét xử công khai, trực tiếp tại
phiên tòa…Trong giai đoạn cải tạo, hoạt động giáo dục được tiến hành trong điều
kiện của trại cải tạo, thông qua các chế độ giam giữ, sinh hoạt, học tập và lao động
đặc biệt dành cho phạm nhân.
Thứ tư, giáo dục trong hoạt động tư pháp mang tính cưỡng chế cao. Người phạm tội
là người không phù hợp với xã hội. Để họ có thể hòa nhập với cộng đồng và được
xã hội công nhận thì buộc phải giáo dục và cải tạo lại nhân cách của người phạm
tội.


II. VAI TRÒ CỦA HOẠT ĐỘNG GIÁO DỤC TRONG CÁC GIAI ĐOẠN TỐ
TỤNG
Vai trò của hoạt động giáo dục trong điều tra vụ án hình sự
Ở giai đoạn điều tra vụ án hình sự, vai trò của hoạt động giáo dục chủ yếu được
thực hiện thông qua các điều tra viên.
- Trong khi tiến hành điều tra, mỗi một cử chỉ, hành vi của điều tra viên cần được
cân nhắc và mang tính giáo dục nhất định. Điều tra viên có thể cung cấp các tin tức
bổ sung cho người làm chứng, người bị hại, hoặc gợi ý, động viên họ để đánh giá,
giải thích đúng nội dung sự kiện, cũng như các hiện tượng xoay quanh sự kiện. Do
đó trong giai đoạn điều tra cần phải xây dựng cơ sở cho hoạt động giáo dục sau này.
Sự hình thành cơ sở giáo dục cho các giai đoạn hoạt động tư pháp khác có thể biểu
hiện bằng sự thu thập thông tin cần thiết để tổ chức quá trình giáo dục tiếp theo của

Toà án và các tổ chức khác được giao nhiệm vụ giáo dục người phạm tội. Điều tra
viên cũng cần thu thập những thông tin cần thiết về: cá nhân bị can để cung cấp cho
các cơ quan sẽ tiếp tục giáo dục họ, đó là những thông tin về phẩm chất cá nhân của
bị can, về các thói quen, phẩm chất tiêu cực của nó, môi trường xung quan tác động
đến các phẩm chất tiêu cực của bị can và còn phải giáo dục và hình thành ý thức
pháp luật cho các công dân. Thông qua tác phong làm việc nghiêm túc, khoa học
của mình, nêu một tấm gương sang trong việc tuân thủ pháp luật. Qua đó, tiến hành
giáo dục ý thức pháp luật cho các công dân và thực hiện việc phòng ngừa tội phạm.
- Hoạt động giáo dục của điều tra viên nhằm loại bỏ những tổn thương ở tinh thần
của người bị hại và người làm chứng. Bởi vì hành vi của bị can có thể gây ra cho
những người này những trạng thái tâm lý tiêu cực. Bằng những hành động mang
tính giáo dục và nhân văn điều tra viên có thể giúp họ trấn an tinh thần, bình tĩnh
nhớ lại những vấn đề của vụ án, loại bỏ những ý nghĩ tiêu cực...


- Chức năng giáo dục của điều tra viên thể hiện rõ nét trong hoạt động đấu tranh với
bị can buộc họ phải báo đúng sự thật, từ bỏ con đường phạm tội, khắc phục những
hậu quả đã gây ra… Ở đây sự đấu tranh của điều tra viên có tác động, ảnh hưởng rất
lớn đến bị can. Sự tác động này theo hướng làm khơi dậy trong bị can cảm xúc về
tội lỗi của mình. Sự đối xử công bằng, lịch sự và nhân đạo của điều tra viên sẽ kích
thích sự suy nghĩ của bị can về lỗi của mình, sẽ làm cho họ phân tích đúng đắn
những sai lầm của mình, vạch ra những phẩm chất tiêu cực mà mình mắc phải, đồng
thời suy nghĩ đúng về hình phạt mà Toà án sẽ áp dụng đối với họ. Tuy nhiên, trong
quá trình phân tích hành vi phạm tội của bị can, điều tra viên cần chú ý thận trọng
khi rút ra kết luận về tính chất nghiêm trọng của tội phậm, về nguyên nhân tội
phạm, động cơ phạm tội của họ.
Giáo dục thông qua việc đấu tranh với bị can được thể hiện cụ thể ở việc điều tra
viên có thể công khai tranh luận về các tình tiết của vụ án, song cũng có thể bí mật
nêu ra các câu hỏi và giải đáp các câu hỏi của nhau. Thông thường là bị can tự đấu
tranh với bản thân họ, điều quan trọng là điều tra viên phải nắm bắt được các trạng

thái này để tạo cho “con người chân chính” trong bị can chiến thắng. Để tác động
giáo dục đối với bị can, điều tra viên còn có thể thông qua những sự việc, hiện
tượng và các nguồn thông tin khác. Bởi vì nhiều khi sự thuyết phục của điều tra
viên lại không đem lại kết quả, song nếu điều tra viên biết sử dụng những sự việc,
thông tin có giá trị thuyết phục đối với bị can thì sẽ có những chuyển biến tốt hết
sức bất ngờ.
Vấn đề kích thích và khơi dậy lòng tự trọng và nguyện vọng tự giáo dục của bị can
là một quá trinh phức tạp xong có thể thực hiện được. Trong bất kỳ quá trình cảm
hoá nào, sự giáo dục cũng có hai bước phát triển – quá trình cung cấp tri thức, kinh
nghiệm, thói quen; quá trình tự giáo dục một cách tích cực, sáng tạo sử dụng các tri
thức, kinh nghiệm và thói quen mới. Nếu như không có quá trình cải tạo thì không
thể đạt được mục đíc giáo dục. Dưới sự tác động tích cực của điều tra viên trong bị
can dần dần trỗi dậy ý thức mong muốn tự giáo dục. Biểu hiện rõ nét nhất là sự
thành khẩn nhìn nhận tội lỗi và nghiêm khắc tự phê phán hành vi của bản thân. Biểu


hiện tích cực nhất là lòng mong muốn được tự giáo dục chính là việc bị can trực
tiếp trình bày với điều tra viên hoặc với tập thể của họ về nguyện vọng được phấn
đấu, rèn luyện để trở thành một con người tốt. Khi điều tra viên khơi dậy được tính
tích cực tự giáo dục của bị can thì hoạt động giáo dục trong giai đoạn điều tra sẽ
nhanh chóng đạt hiệu quả.
Mặt khác, sau khi kết thúc giai đoạn điều tra ở bị cáo đã hình thành trạng thái tâm lý
tích cực, sẵn sàng tiếp nhận các tác động giáo dục của Toà án và cơ quan cải tạo
phạm nhân sau này.
Thực tế cho thấy, do không làm tốt công tác giáo dục đối với người bị hại, không
giải tỏa được những ức chế tâm lí ở họ, nên trong một số trường hợp đã dẫn đến
những hành vi quá khích, gây rối, làm ảnh hưởng uy tín của các cơ quan bảo vệ
pháp luật và ảnh hưởng tới việc điều tra vụ án.
Như vậy, từ sự phân tích trên có thể khẳng định rằng hoạt động giáo dục có vai trò
quan trọng và không thể thiếu trong giai đoạn điều tra vụ án hình sự. Tuy nhiên, nó

không đóng vai trò chủ đạo. Sở dĩ như vậy là xuất phát từ nhiệm vụ của giai đoạn
điều tra là thu thập những tài liệu, thông tin nhằm xác định sự thật vụ án. Nên hoạt
động nhận thức mới là hoạt động chủ đạo của giai đoạn này. Tuy nhiên, sẽ không
thực hiện được nếu thiếu đi hoạt động giáo dục.
2. Vai trò của hoạt động giáo dục trong xét xử vụ án hình sự
Hoạt động giáo dục trong xét xử cũng như trong điều tra đều hướng tới giáo
dục bị can và mọi công dân. Toà án giáo dục mọi người ý thức tôn trọng pháp luật,
rèn luyện thói quen tuân thủ pháp luật, cần làm cho mọi người tin rằng bất cứ hành
vi vi phạm pháp luật nào cũng sẽ bị Toà án và xã hội lên án, giáo dục mọi công dân
có ý thức tham gia vào hoạt động dấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm. Toà án
cần giáo dục cho mọi người có mặt tại phòng xử án ý thức tôn trọng đối với hoạt
động xét xử.


Tác động giáo dục của Toà án là một hình thức hoạt động thông qua chính
phiên toà xét xử: qua việc nghiên cứu công khai, trực tiếp, đầy đủ, khách quan, cụ
thể các tình tiết của vụ án tại phiên toà. Hiệu quả tác động giáo dục của Toà án thể
hiện ở tính chất cụ thể, trực tiếp khi xét xử, nó tác động vào nhận thức của những
người tham dự phiên toà về các chứng cứ cho dù mỗi chứng cứ đó có thể gây xúc
động tích cực hoặc tiêu cực.
Phiên toà có tính chất giáo dục đối những người tham gia tố tụng và tiến hành
tố tụng nói riêng mà còn đối với mọi công dân. Hoạt động giáo dục của Toà án thực
hiện trong phiên toà và ngoài phiên toà. Hoạt động giáo dục của Toà án ngoài phiên
toà được thể hiện bằng cách thẩm phán trò chuyện với bị cáo, với nhân thân của họ,
với người dại diện của cơ quan, tổ chức và đồng thời được thực hiện trong lời phát
biều công khai về kế hoach sắp tới. Hoạt động giáo dục trong phiên toà được thực
hiện bởi cá nhân thẩm phán, bởi hội đồng xét xử và những người tham gia xét xử
như kiểm sát viên, luật sư…từ đó, giáo dục, nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với
những lãnh đạo tập thể đã có những thiếu sót, tạo điều kiện cho tội phạm, cụ thể:
* Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử , Toà án không chỉ lập kế hoạch nhận thức

trong giai đoạn xét hỏi mà còn lập kế hoach thực hiện tác động giáo dục. Vì vậy, có
thể mời thêm người làm chứng, đại diện đoàn thể xã hội, nghiên cứu điều kiện sống
và điều kiện giáo dục của bị cáo…để thực hiện mục đích nói trên.
* Trong giai đoạn xét xử, đặc điểm của những phương pháp tác động giáo dục là
cùng một lúc phải tác động đến cả bị cáo và tất cả những người có mặt tại phiên toà.
Thẩm phán, kiểm sát viên, luật sư phải luôn ý thức đước rằng mọi hoạt động của họ
phải đảm bảo cả chức năng giáo dục. Họ phải tác động đến cả bị cáo, thức tỉnh
trong bị cáo cảm nhận được lỗi lầm và mong muốn được sử chữa lỗi lầm đó. Họ cần
phải tác động đến tất cả những người có mặt tại phiên toà hình thành cho họ ý thức
tôn trọng pháp luật, chỉ ra cho họ biện pháp đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm, củng cố tâm lý cần thiết cho họ.


Tác động giáo dục của Toà án thể hiện cả khi tuyên án. Vì lẽ đó mà bản án của Toà
án tuyên phải đúng, đáp ứng với những yêu cầu của pháp luật đó là hình phạt phải
phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân cách của
bị cáo, bản án phải rõ ràng, sáng sủa, cụ thể và dễ hiểu. Bản án của Toà án càng
nhiều người biết càng tốt, do đó Toà án cần công bố rộng rãi nội dung của bản án.
Điều này rất quan trọng vì nó giúp Toà án thực hiện tác động giáo dục chung đối
với mọi công dân.
Tác động giáo dục của Toà án có thể được tiếp tục sau khi Toà án đã tuyên án. Nếu
sau khi kết án người bị kết án được hưởng án treo hoặc bị phạt cải tạo không giam
giữ thì Toà án cần kết hợp chặt chẽ với tập thể nơi cư chú hoặc làm việc, để giúp họ
tổ chức quá trình tự giáo dục và kiểm tra quá trình cải tạo của họ. Còn trong trường
hợp người bị kết án bị phạt tù, hoạt động giáo dục của Toà án phải được thể hiện rõ
ràng, cụ thể trong giai đoạn thi hành án vì đối tượng giáo dục đã thu hẹp. Vì vậy các
phương pháp tác động giáo dục cũng thay đổi. Tác động giáo dục đối với bị cáo với
sự có mặt của tất cả mọi người tại phiên toà.
Như vậy, từ những luận điểm trên có thể thấy rằng cũng như trong giai đoạn điều tra
vụ án hình sự thì hoạt động giáo dục chỉ có vai trò quan trọng, cần thiết mà thôi. Ở

giai đoạn xét xử, hoạt động thiết kế mới là hoạt động chính, chủ đạo. Lý giải về
điều này, chúng ta có thể thấy rằng nhiệm vụ của xét xử chính là việc tổ chức, điều
khiển việc xét xử người phạm tội đảm bảo pháp chế nhà nước, bảo vệ quyền lợi hợp
pháp bị xâm hại nên chức năng giáo dục không thể trở hoạt động chủ yếu, trung
tâm.
3. Vai trò của hoạt động giáo dục trong giáo dục, cải tạo phạm nhân:
Xuất phát từ nhiệm vụ của giai đoạn này nên trong giai đoạn giáo dục, cải tạo
phạm nhân hoạt động giáo dục giữ vai trò chính, chủ đạo và có vị trí trung tâm.
Trong quá trình giáo dục, cải tạo phạm nhân, hoạt động giáo dục cá nhân phạm


nhân được thể hiện rõ ràng. Đây là chức năng giáo dục đặc biệt. Chức năng giáo
dục đặc biệt này được thể hiện qua những nét đặc trưng cơ bản dưới đây của hoạt
động giáo dục:
Thứ nhất, ở giai đoạn giáo dục, cải tạo phạm nhân phương pháp giáo dục đặc
thù được vạch ra rõ ràng. Đây chính là quá trình giáo dục, cải tạo phạm nhân có
những thói quen và những phẩm chất tiêu cực nhất định. Muốn giáo dục cho họ
những phẩm chất tích cực thì phải loại bỏ ở họ những phẩm chất tiêu cực đó.
Thứ hai, điều kiện giáo dục đặc biệt, có sự kiểm tra xã hội nghiêm khắc, ngặt
nghèo, đó là phạm nhân phải sống cách ly khỏi xã hội và phải chấp hành chế độ của
trại. Quá trình giáo dục phải luôn luôn kết hợp với thuyết phục và cưỡng chế.
Trong điều kiện giáo dục đặc biệt ở trại thì yếu tố cưỡng chế giữ vai trò quan trọng
hơn cả. Chế độ của trại tạo điều kiện làm thay đổi những nhu cầu, thói quen xấu và
phẩn chất nhân cách tiêu cực của phạm nhân… Xuất hiện mối quan hệ bất bình
đẳng một cách rõ rệt giữa Ban giám thị trại và phạm nhân. Quan hệ bất bình đẳng
này do pháp luật quy định. Pháp luật quy định Ban giám thị trại giam được quyền
kiểm tra, giám sát các phạm nhân trong cuộc sống, lao động, dạy nghề và giao tiếp;
đối với các phạm nhân bị hạn chế thì hoạt động giáo dục được thể hiện thông qua sự
tác động của chính quyền xã, phường, trị trấn hoặc cơ quan, tổ chức nơi trước đây
phạm nhân cư trú hoặc làm việc.

Thứ ba, cải tạo trong trại được tiến hành trong nhóm các phạm nhân, trong
nhóm luôn luôn tồn tại những phẩm chất tâm lý tiêu cực nhất định vì họ là những
người phạm tội. Do đó, khi tiến hành hoạt động giáo dục, cải tạo, ban giám thị trại
phải luôn luôn cân nhắc những mâu thuẫn trong giáo tiếp giữa các phạm nhân. Điều
đó đòi hỏi ban giám thị trại phải chuẩn bị và sử dụng các phương pháp tác động đặc
thù với mục đích giáo dục, cải tạo, và các phương pháp phải được sử dụng thường
xuyên trong các hoàn cảnh cụ thể được tạo ra trong nhóm phạm nhân. Muốn cải tạo
phạm nhân thì phải đồng thời tiến hành cải tạo cả nhóm các phạm nhân khác. Ở đây


tác động giáo dục phải được tiến hành song song đồng thời đến nhóm phạm nhân và
cá nhân phạm nhân được đặt trong nhóm này. Chính vì vậy hoạt động giáo dục
trong trại cải tạo được phát triển theo hai hướng, đó là giáo dục nhóm phạm nhân và
giáo dục một phạm nhân cụ thể. Giáo dục một phạm nhân cụ thể chỉ có thể đạt hiệu
quả nếu không chỉ nhà giáo dục tham gia vào hoạt động này, mà còn đòi hỏi nhóm
phạm nhân cũng tham gia vào. Mặt khác, mỗi một phạm nhân cụ thể cũng ảnh
hưởng đến nhóm phạm nhân. Trong hoạt động giáo dục, ban giám thị trại giam phải
đặc biệt chú ý đến quá trình thành lập, hình thành nhóm phạm nhân. Hoạt động giáo
dục luôn được thực hiện trên cơ sở cân nhắc những đặc điểm tâm lý của mỗi phạm
nhân và sự phát triển các phẩm chất nhân cách của họ.
III. MỘT SỐ KẾT LUẬN CẦN THIẾT:
Một là: Sự cần thiết của hoạt động giáo dục trong hoạt động tư pháp. Như chúng ta
đã đã biết, chủ thể và đối tượng tác động của các hoạt động tư pháp là con người.
Mục đích cuối cùng là đều nhằm tạo ra những con người có phẩm chất tâm lý tốt,
phù hợp với yêu cầu của xã hội. Do đó, giáo dục chính là biện pháp mà chúng ta
buộc phải hướng đến để sử dụng sao cho có hiệu quả.
Trong các giai đoạn tố tụng, không một giai đoạn nào có thể bỏ qua chức
năng giáo dục đó. Nó giống như một hoạt động bắt buộc phải thực hiện và các chủ
thể tiến hành tố tụng luôn phải cân nhắc, chú ý để sao cho hoạt động giáo dục phát
huy hiệu quả cao nhất có thể. Mặc dù là hoạt động cuối cùng trong các hoạt động tư

pháp nhưng hoạt động giáo dục lại chính là yếu tố quyết định, cuối cùng, là thước
đo hiệu quả chức năng giáo dục của các chủ thể tiến hành tố tụng trong các giai
đoạn tố tụng. Sản phẩm cuối cùng của nó là giúp cho tất cả những người liên quan
và toàn xã hội có ý thức đúng đắn về một vấn đề nào đó, phát triển nhân nhân cách
theo xu hướng chuẩn mực của xã hội.
* Trong giai đoạn điều tra vụ án: hoạt động của các điều tra viên là thu thập
các nguồn tin, tài liệu cần thiết cho vụ án. Từ đó mà sẽ xây dựng lên được mô hình


phạm tội, cũng như hành vi của người phạm tội. Tuy nhiên nếu chỉ dừng lại ở hoạt
động nhận thức và thiết kế đơn thuần này thì có thể khẳng định rằng hoạt động điều
tra chưa thể hoàn thiện. Sự hiệu quả trong điều tra chỉ có khi điều tra viên tiến hành
các hoạt động trên hướng đến việc giáo dục bị can, khiến họ tranh đấu với chính
bản thân mình và thành khẩn khai báo, hướng đến việc giáo dục các chủ thể khác
tham gia tố tụng giúp họ có được tâm lý tốt, niềm tin vào sự công bằng, đúng đắn
của pháp luật. Mỗi hoạt động của điều tra viên trong cử chỉ, lời nói...đều phải hướng
đến chức năng giáo dục ban đầu. Đây cũng là việc giúp cho những người tham gia
tố tụng và đặc biệt là bị can có được tâm lý ổn định cần thiết đối diện với những
hành vi mà mình gây ra, từ đó tích cực cải tạo trở thành con người mới. Vì vậy
trong giai đoạn này, giáo dục không phải chức năng chính nên cũng không phải hoạt
động chính, chủ đạo, trung tâm. Nó chỉ đóng vai trò quan trọng, cần thiết, là cơ sở
để thực hiện các hoạt động giáo dục tiếp theo.
* Trong giai đoạn xét xử: Để Tòa án có thể ra được những quyết định tố tụng
khách quan và đúng pháp luật, xử phạt đúng người đúng tội, không bỏ lọt tội phạm
và không xét xử và làm oan sai người vô tội. Đặc biệt khiến bị cáo tâm phục khẩu
phục, nhận ra những sai lầm trong hành vi lệch lạc của mình và chấp nhận thay đổi
chính mình thì những người tiến hành tố tụng cũng cần đặt hoạt động giáo dục là
một chức năng hướng đến sau cùng và không thể thiếu. Tuy không giữa vai trò chủ
đạo thay cho hoạt động thiết kế được nhưng hoạt động giáo dục vẫn đóng một vai
trò quan trọng và rất cần thiết trong quá trình xét xử. Xét cho cùng hoạt động xét xử

của Toà án chỉ mang lại hiệu quả khi giáo dục được một phần đối với bị can cũng
như các cá thể khác liên quan. Nếu xét xử không kèm theo giáo dục thì đó chỉ thể
hiện những chế tài hình sự cứng nhắc mà chưa thấy mục đích cao cả, nhân đạo của
nhà nước ta hướng đến.
* Trong giai đoạn cải tạo và giáo dục phạm nhân: mục đích cuối cùng của giai đoạn
này là giáo dục họ thành những con người tốt và giúp họ hoàn lương tốt. Do đó ở
giai đoạn này chức năng giáo dục là chức năng trọng tâm, chủ yếu nên hoạt động
giáo dục động vai trò chủ đoạ, trung tâm. Những phương án cải tạo, giáo dục phù


hợp sẽ cảm hóa được con người phạm nhân sẽ trở thành những con người tốt sau
khi đã chấp hành xong hình phạt.
Tuy nhiên, điều kiện của hoạt động giáo dục trong giai đoạn cải tạo có nhiều hạn
chế: môi trường giáo dục không trong sạch; việc kết hợp mục đích trừng trị với mục
đích giáo dục sẽ gây ra ức chế tâm lí cho phạm nhân.
Hai là: Hoạt động giáo dục là mục đích cao nhất và là phương tiện để tiến hành thực
hiện các hoạt động tư phápn có hiệu quả. Đúng như vậy, hoạt động nhận thức và
hoạt động thiết kế nếu chỉ dừng lại ở đó thì hoạt động cải tạo, giáo dục sau cùng sẽ
không đạt được hiệu quả cao. Muốn vậy, nhất thiết bất kể một giai đoạn tố tụng nào
cũng cần phải hướng đến chức năng giáo dục bởi sự giáo dục là cần thiết, lâu dài.
Do đó nó được tiến hành song song bên cạnh các hoạt động khác trong các giai
đoạn tố tụng cụ thể.
Ba là: Hoạt động giáo dục, cải tạo và các hoạt động tư pháp khác (hoạt động thiết
kế, hoạt động nhận thức) có mối quan hệ biện chứng với nhau. Bởi vì trong hoạt
động tư pháp, tuy các hoạt động có vị trí và vai trò khác nhau trong mỗi giai đoạn
nhưng về mặt tổng thể thì chúng đều có sự tác động qua lại với nhau, hỗ trợ cho
nhau và hướng tới mục tiêu cuối cùng là làm cho hoạt động tư pháp diễn ra thống
nhất, khách quan và đúng pháp luật. Đồng thời mang tính giáo dục chung đối với
cộng đồng.
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ:

Hoạt động giáo dục tuy trong mỗi giai đoạn có một vị trí, vai trò khác nhau nhưng
nó là một hoạt động không thể thiếu. Các hoạt động tâm lý tư pháp khác chính là cơ
sở cho hoạt động giáo dục có hiệu quả nhất. Do đó, các chủ thể khi tiến hành tố
tụng cần phải quan tâm đến hoạt động giáo dục như là một hoạt động cần thiết, cần
hướng đến để giúp các giai đoạn tố tụng thực hiện một cách có hiệu quả nhất.



×