Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM 2 TLV 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.37 KB, 31 trang )

1
1. Cơ sở đề xuất giải pháp:
1.1. Sự cần thiết hình thành giải pháp:
Giáo dục có vai trò hết sức quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của
một dân tộc cũng như toàn thể nhân loại. Giáo dục tác động đến cấu trúc xã hội,
đến các bộ phận đồng thời giáo dục là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã
hội. Vì thế từ trước đến nay Đảng và nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến công tác
giáo dục, coi giáo dục là quốc sách hàng đầu để xây dựng và phát triển đất nước.
Đất nước ta đã bước vào thời kì đổi mới với quyết tâm công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu “ Dân giàu nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ văn minh”. Để thực hiện được điều đó đòi hỏi mỗi
chúng ta phải có một nguồn lực, vừa có tài, vừa có đức, vừa có tri thức cuộc
sống. Nơi tạo ra những nền móng vững chắc cho quá trình học tập của mỗi con
người chính là trường Tiểu học. Muốn vậy đòi hỏi nhà trường phải không ngừng
nâng cao chất lượng dạy và học. Việc nâng cao chất lượng dạy học trong các
nhà truờng nói chung và trường Tiểu học nói riêng là vấn đề trọng tâm của hoạt
động giáo dục trong nhà trường. Vì đây là cấp học nền móng: “Giáo dục Tiểu
học là bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân, có nhiệm vụ xây dựng
và phát triển tình cảm, đạo đức, trí đức, thẩm mĩ và thể chất cho trẻ em nhằm
hình thành cho học sinh nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa”.
Trong các mặt giáo dục ở Tiểu học thì Tiếng Việt là công cụ giúp các em
giao tiếp, nhận biết được vốn kiến thức của nhân loại thành trí thức của riêng
mình. Thông qua Tiếng Việt giúp các em nhận thức được các môn học khác.
Chẳng hạn, muốn giải một bài toán thì điều đầu tiên là các em phải đọc đầu bài
sau đó bằng tư duy sự hiểu biết về môn học, các em trình bày bài giải qua nói,
viết, giúp cho người khác hiểu được bài làm của mình. Trong trường Tiểu học,
môn Tiếng Việt có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với học sinh bởi nó là môn
học cung cấp cho các em những kiến thức cần thiết trong giao tiếp hàng ngày.
Nó giúp các em phát triển toàn diện, hình thành ở các em những cơ sở của thế
giới khoa học, góp phần rèn luyện trí thông minh, hình thành tình cảm, thói quen
đạo đức tốt đẹp của con người mới. Dạy học Tiếng Việt là dạy học tiếng mẹ đẻ.




2
Dạy học Tiếng Việt giúp các em hình thành 4 kĩ năng cơ bản: nghe, nói, đọc,
viết. Phân môn Tập làm văn trong môn Tiếng Việt hội tụ đủ cả 4 kĩ năng trên.
Nó là phân môn tổng hợp toàn bộ kiến thức đã học ở trong tuần từ các phân
môn: Tập đọc, Tập viết, Chính tả, Kể chuyện, Luyện từ và câu. Đối với học
sinh lớp 2 thì đây là một phân môn khó. Bởi ở lứa tuổi của các em, vốn kiến
thức và hiểu biết còn hạn hẹp. Bên cạnh đó, còn có một số khó khăn khách quan
như điều kiện hoàn cảnh sống của học sinh ở địa bàn dân cư đa phần cha làm
nghề biển, mẹ ở nhà nội trợ chăm lo hết mọi việc trong gia đình ít có thời gian
quan tâm đến các em, việc diễn đạt ngôn ngữ cỏn hạn chế nhiều, việc tiếp thu
kiến thức khá chậm, học sinh nghèo vốn từ ngữ,… Điều này ảnh hưởng đến việc
học tập nói chung, học phân môn Tập làm văn nói riêng. Với mục tiêu rèn học
sinh ở cả bốn kỹ năng nghe, đọc, nói, viết trong đó kĩ năng viết “một đoạn
văn ngắn" là yêu cầu cơ bản khá trọng tâm ở phân môn Tập làm văn lớp 2.
Đây là sự cần thiết mà tôi chọn và viết Sáng kiến kinh nghiệm với nội dung: “
Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn cho học sinh
lớp 2” nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy - học phân môn Tập làm văn lớp
2.
2.2. Tổng quan các vấn đề liên quan đến giải pháp:
Nghiên cứu chương trình SGK, tài liệu tham khảo để nắm được nội dung,
mức độ yêu cầu của môn Tập làm văn.
Nghiên cứu phương pháp dạy viết đoạn văn ngắn nhằm phát huy tính tích
cực nhận thức của học sinh.
Tìm hiểu thực tế để đánh giá tình hình viết văn của học sinh, tìm hiểu
nguyên nhân dẫn đến tình trạng học sinh gặp khó khăn khi học phân môn Tập
làm văn.
Từ những lý luận và kinh nghiệm thực tế để đưa ra các biện pháp giúp
học sinh lớp 2 viết đoạn văn ngắn.

Dạy thử nghiệm theo biện pháp đã đề xuất.
2.3. Mục tiêu của giải pháp:


3
Đề tài góp phần khắc phục được hạn chế về cách viết một đoạn văn ngắn với
câu văn cộc lốc, không đúng ngữ pháp, hay câu văn không rõ ràng, sự sắp xếp các câu
văn không lôgíc... Qua đó bồi dưỡng lòng say mê yêu thích con người, cảnh vật xung
quanh các em.
Góp phần vào đổi mới cách dạy tiếng Việt, giúp học sinh có kĩ năng viết
đoạn văn ngắn trong phân môn Tập làm văn lớp 2 theo hướng phát huy tính cực,
chủ động, sáng tạo của học sinh.
Từ cách đổi mới phương pháp dạy của thầy góp phần đổi mới cách học của
trò. Phát huy hết khả năng tự phát hiện của học sinh thông qua cách tổ chức câu,
ý sao cho lôgíc, cách sử dụng từ chính xác và hay khi viết.
2.4. Các căn cứ đề xuất giải pháp:
Quá trình dạy học là một quá trình tư duy sáng tạo - người giáo viên là một
kĩ sư của tâm hồn, hơn nữa còn là một nhà nghệ thuật. Và việc dạy học ngày nay
luôn dựa trên cơ sở phát huy tính tích cực chủ động của học sinh. Chính vì thế,
nó đòi hỏi người giáo viên phải luôn có sự sáng tạo, tự cải tiến phương pháp dạy
học của mình nhằm mục đích nâng cao chất lượng dạy học. Mỗi môn học ở Tiểu
học đều góp phần hình thành và phát triển nhân cách của trẻ, cung cấp cho trẻ
những kiến thức cần thiết.
Phân môn Tập làm văn ở Tiểu học có nhiệm vụ rất quan trọng là rèn kĩ
năng nói và viết. Thế nhưng hiện nay, đa số các em học sinh lớp 2 đều rất sợ học
phân môn Tập làm văn vì không biết nói gì? Viết gì? Ngay cả bản thân giáo viên
đôi khi cũng không tự tin lắm khi dạy phân môn này so với các môn học khác.
Trong chương trình Tập làm văn lớp 2, ngay từ đầu năm học, các em được
làm quen với đoạn văn và được rèn kĩ năng viết đoạn văn từ 3 đến 5 câu. Tôi dự
giờ thăm hỏi một số lớp, tôi nhận thấy các em còn lúng túng, nhiều học sinh làm

bài chưa đạt yêu cầu. Các em thường lặp lại câu đã viết, dùng từ sai, cách chấm
câu còn hạn chế có em viết không đúng yêu cầu của đề bài hoặc có những bài
làm đảm bảo về số câu nhưng viết không đủ ý. Việc dạy cho học sinh viết đoạn
văn chính là quá trình giáo viên khơi dậy sự hiểu biết và cảm nhận của các em
về người, vật và cuộc sống xung quanh. Điều đó đòi hỏi giáo viên dạy cho học


4
sinh có cách tổ chức, sắp xếp câu, ý sao cho lôgic, cách sử dụng từ chính xác và
hay khi viết. Song thực tế chỉ ra rằng một số học sinh lớp 2 khó nhận thức được
việc sắp xếp ý (cảm nhận của mình) theo trật tự đúng. Vốn sống của các em còn
hạn chế, do đó khi diễn đạt học sinh gặp rất nhiều khó khăn. Sự sắp xếp tổ chức
câu trong đoạn còn rời rạc. Các câu độc lập về nội dung chưa có sự liên kết và
lôgic … Đôi khi các em còn viết câu không rõ ý, từ lặp lại nhiều… Là một giáo
viên đứng lớp nhiều năm, tôi rất băn khoăn và trăn trở: Làm thế nào để giúp các
em thực hiện được mục tiêu đã đề ra? Bản thân tôi luôn cố gắng để tìm ra những
biện pháp nâng cao chất lượng học tập cho học sinh.
2.5. Phương pháp thực hiện:
2.5.1. Phương pháp điều tra:
Mục đích để tìm hiểu các phương pháp dạy học của giáo viên; tìm hiểu
tính tích cực nhận thức của học sinh.
2.5.2. Phương pháp thực nghiệm:
Dạy thực nghiệm tại lớp 2D, 2E để đối chiếu kiểm nghiệm, đánh giá
hiệu quả nghiên cứu.
2.5.3. Phương pháp trực quan:
Tìm hiểu nội dung sách giáo khoa, sách giáo viên, vở bài tập… Trao đổi
với giáo viên - học sinh để tìm hiểu thực trạng dạy - học phân môn Tập làm văn.
2.6. Đối tượng và phạm vi áp dụng:
2.6.1. Đối tượng:
Nội dung, chương trình, Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2, đặc biệt là

phân môn Tập làm văn lớp 2 và một số tài liệu tham khảo.
Các giải pháp đưa ra để giúp học sinh lớp 2 viết đoạn văn ngắn trong giờ
Tập làm văn.
2.6.2. Phạm vi áp dụng:
Với khuôn khổ của một Sáng kiến kinh nghiệm, tôi nghiên cứu vấn đề:
“Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng viết đoạn văn ngắn cho học sinh
lớp 2 ”, trong đó làm sáng tỏ một số vấn đề nghiên cứu về việc dạy - học phân
môn Tập làm văn lớp 2. Qua đó đưa ra một số biện pháp giúp học sinh lớp 2


5
viết đoạn văn ngắn được tốt hơn. Kinh nghiệm này có thể áp dụng cho việc dạy
viết đoạn văn cho học sinh lớp 2 nói riêng ở Trường Tiểu học Phước Hải 3.
2. Quá trình hình thành và nội dung giải pháp:
2.1. Quá trình hình thành giải pháp:
2.1.1. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh:
Học sinh Tiểu học, đặc biệt là học sinh lớp 2, các em vừa chuyển hoạt động
chủ đạo từ vui chơi sang học tập. Các em hiếu động, ham chơi, sự tập trung cho
học tập và chú ý chưa cao. Tư duy của các em nặng về trực quan cụ thể, tư duy
trừu tượng chưa phát triển. Do đó, khi tổ chức dạy học, giáo viên phải linh hoạt
sáng tạo thì mới có hiệu quả.
2.1.2. Đặc điểm về chương trình, sách giáo khoa:
Như chúng ta đã biết, ở lớp 1 học sinh mới chỉ dừng lại ở mức độ tập nói
hoặc viết câu có nội dung theo chủ đề bài học hoặc tìm tiếng nói có âm vần vừa
học. Các em được ghép tiếng và nói những câu đơn giản, riêng lẻ có nội dung
gần gũi với cuộc sống của các em hoặc ở các bài tập đọc. Đến lớp 2 các em đã
phải viết đoạn từ 1 đến 3 câu rồi cao hơn từ 4 đến 5 câu kể về một sự việc đơn
giản mình cũng chứng kiến (tham gia) hoặc tả sơ lược về người, vật xung quanh
các em. Ở học kỳ I, chủ yếu các em được viết đoạn từ 3 đến 5 câu kể về người
thân như: Cô giáo, ông, bà, anh, chị, em và rộng hơn là toàn thể gia đình. Song

đến học kỳ II các em được viết đoạn tả con vật (chim ), tả cảnh (biển), tả cây
cối, tả người (ảnh Bác Hồ). Tuần 34 và 35 học sinh được kể về những việc làm
mà bản thân chứng kiến hoặc tham gia ….
Xen kẽ giữa các bài tập có yêu cầu kể (tả) nói trên có 2 dạng bài kể (tả) con
vật được viết đầy đủ song sáo trộn trật tự câu nhằm mục đích củng cố về liên kết
câu, gắn kết ý …
Mở đầu ngay ở tuần 1, sách giáo khoa đã giới thiệu cách kể theo nội dung
tranh sau đó viết thành đoạn. Đây chính là hình thức giúp học sinh vận dụng linh
hoạt kỹ năng vốn hiểu biết khi học phân môn kể chuyện vào viết đoạn văn ngắn.
2.1.3. Vị trí, nhiệm vụ, nội dung của phân môn tập làm văn lớp 2:
* Vị trí:


6
Ở tiểu học nhất là lớp 2, Tập làm văn là một trong những phân môn có tầm
quan trong đặc biệt ( ở lớp 1 các em chưa được học, lên lớp 2 học sinh mới bắt
đầu được học, được làm quen ). Môn tập làm văn giúp học sinh có kỹ năng sử
dụng Tiếng Việt được phát triển từ thấp đến cao, từ luyện đọc cho đến luyện nói,
luyện viết thành bài văn theo suy nghĩ của từng cá nhân. Tập cho các em ngay từ
nhỏ có những hiểu biết sơ đẳng đó cũng là rèn cho các em tính tự lập, tự trọng.
Con người văn hóa sẽ hình thành từ các em từ những việc nhỏ nhặt, tưởng như
không quan trọng đó.
* Nhiệm vụ:
Làm văn có nghĩa là tạo lập văn bản. Nhiệm vụ chính của phân môn Tập
làm văn là rèn luyện cho học sinh kỹ năng tạo lập văn bản. Ở đây thuật ngữ “
văn bản” được dùng để chỉ sản phẩm hoàn chỉnh của lời nói trong một hoàn
cảnh giao tiếp cụ thể. Đó không nhất thiết là một bài văn gồm nhiều câu; nhiều
đoạn; cũng không nhất thiết phải ở dạng viết; càng không phải chỉ là loại văn kể
chuyện hay miêu tả theo phong cách nghệ thuật. Trong hoàn cảnh giao tiếp cụ
thể, sản phẩm lời nói mà một người tạo lập được có thể chỉ là một câu chào, một

lời cảm ơn hay một vài dòng thăm hỏi, chúc mừng trên tấm thiếp… Đối với lớp
2, dạy Tập làm văn là trước hết là rèn luyện cho học sinh kỹ năng phục vụ học
tập và giao tiếp hàng ngày, cụ thể là:
Dạy các nghi thức lời nói tối thiểu, như: chào hỏi, tự giới thiệu, cảm ơn, xin lỗi,
yêu cầu, khẳng định, phủ định, tán thành,... Dạy một số kỹ năng phục vụ học tập
và đời sống, như :khai bản tự thuật ngắn, viết những bức thư ngắn, nhận và gọi
điện thoại, đọc và lập danh sanh sách học sinh,... Cuối cùng cũng như các phân
môn và môn học khác, phân môn Tập làm văn, thông qua nội dung dạy học của
mình, có nhiệm vụ trao dồi cho học sinh thái độ ứng xử có văn hóa, tinh thần
trách nhiệm trong công việc, bồi dưỡng những tình cảm lành mạnh cho các em.
* Nội dung:
Cũng như nội dung các bài học về Tập làm văn ở lớp 2 giúp các em thực
hành rèn luyện các kỹ năng nói, viết, nghe phục vụ cho học tập và giao tiếp hàng
ngày, cụ thể là:


7
Thực hành về các nghi thức lời nói tối thiểu : chào hỏi, tự giới thiệu, cảm
ơn, xin lỗi,…
Thực hành về kỹ năng phục vụ học tập và đời sống hàng ngày, như : viết bản
tự thuật ngắn, lặp danh sách học sinh, tra mục lục sách,...Thực hành rèn kỹ năng
diễn đạt ( nói, viết ), như : kể về người thân, tả biển, tả cây cối, … Thực hành
rèn kỹ năng nghe.
Với cách biên soạn này, giờ dạy Tập làm văn trở nên linh hoạt hơn, gắn với cuộc
sống đời thường hơn và giúp học sinh hứng thú trong học tập.
2.1.4. Về kiến thức trong sách giáo khoa:
Nói chung kiến thức trong sách giáo khoa được sắp xếp một cách hợp lí,
lôgic đi từ đơn giản đến phức tạp, từ cách nhìn thực tế đến sự vận dụng vốn
sống, vốn hiểu biết để viết đoạn văn. Học sinh được dạy các kĩ năng kể (tả) đơn
giản. Song không phải kể lại hoặc tả lại câu chuyện cảnh vật theo nội dung bài

tập đọc dựa vào lời kể (tả) của tác giả mà các em được kể (tả) những gì có và
diễn ra trong cuộc sống xung quanh. Điều này đã phát huy tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của học sinh trong kĩ năng viết đoạn văn. Do đó, ta có thể khẳng
định rằng: “ Sách giáo khoa Tiếng Việt 2 đặc biệt chú trọng tới rèn kĩ năng viết
đoạn văn cho học sinh.”
2.1.5. Về những phát sinh, hạn chế khi viết đoạn văn:
Tất cả chứng ta điều biết các em học sinh lớp 2 vốn sống còn ít, vốn hiểu
biết về Tiếng Việt còn rất sơ sài, chưa định rõ trong giao tiếp, viết văn câu còn
cụt lủn. Hoặc câu có thể có đủ ý nhưng chưa có hình ảnh. Các từ ngữ được dùng
về nghĩa còn chưa rõ ràng. Việc trình bày, diễn đạt ý của các em có mức độ rất
sơ lược, đặc biệt là khả năng miêu tả.
Học sinh có hứng thú trong giờ Tập làm văn song chủ yếu tập trung vào
các bài tập làm miệng với các yêu cầu nói lời cảm ơn, xin lỗi, đáp lại lời khẳng
định, phủ định… Học sinh thích thú nói về các con vật, người, quang cảnh và
những gì diễn ra xung quanh. Song vốn từ các em còn chưa nhiều, kỹ năng diễn
đạt bằng ngôn ngữ viết của học sinh còn hạn chế nên đôi khi các em chưa nhận
ra được sự khác biệt giữa các ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.


8
Ví dụ: Khi học bài tập làm văn tuần 10: Dựa theo lời kể bài 1 hãy viết
một đoạn văn ngắn (từ 3 đến 5 câu) kể về ông, bà hoặc người thân của em.
Bài viết của học sinh :" Bà em đã lên 65 tuổi rồi . Da mịn màng. Tóc dài
óng ả. Bà cho em ăn bánh. Bà rủ em đi chợ sau đó hai bà cháu lại đi chơi."
Học sinh thường viết theo ý hiểu bằng ngôn ngữ của mình cho nên câu văn
chưa giàu hình ảnh, dùng từ chưa phù hợp.
Ví dụ: Cũng viết đoạn văn ngắn kể về ông, bà hoặc người thân ở bài tập
làm văn nói trên có một học sinh viết: " Ông đã già, 70 tuổi. Nghề là thợ xây. Hôm
nào ông cũng đi tập thể dục vào sáng sớm."
Một số bài viết của học sinh còn lộn xộn về câu, ý, dùng từ chưa đúng vào

văn cảnh, câu rời rạc thiếu sự liên kết.
Ví dụ: Đây là đoạn văn của một học sinh khi viết đoạn văn tả về một loài
chim mà em thích ( Tập làm văn tuần 21) như sau: " Những ngày đi học về em
cảm thấy rất nhớ nó. Mỏ nó mượt và nó hót rất hay. Em rất thương nó và nó đẹp.
Bộ lông nó mượt. Hình dáng của con bồ câu rất thích thú".
Đôi khi học sinh viết câu dùng cụm từ so sánh để diễn tả nội dung song sự
so sánh ấy rất khập khiễng.
Ví dụ: Khi viết đoạn văn kể về bà có em viết : " Da mặt bà em nhăn nheo như
quả bưởi héo". Có em lại viết“ Mỗi khi bà cười để lộ vài chiếc răng sữa trông rất
duyên.” Một lỗi nữa mà học sinh hay mắc là trả lời theo kiểu nắp đuôi cho nên
câu văn thiếu sự hấp dẫn, sinh động.
Ví dụ : Khi dạy bài Tập làm văn tuần 8 để viết đoạn văn kể về cô giáo
(thầy giáo) cũ của em sách giáo khoa có mấy câu hỏi gợi ý trong đó có câu hỏi:
+ Tình cảm của cô đối với học sinh như thế nào?
+ Em nhớ nhất điều gì ở cô ( thầy)?
+ Tình cảm của em đối với thầy (cô) như thế nào?
Có em viết như sau : Tình cảm của cô đối với em rất tốt. Em nhớ nhất
điều là cô giáo rất dịu dàng và viết chữ rất đẹp. Tình cảm của em đối với cô rất
kính trọng.
2.1.6. Nguyên nhân của thực trạng:


9
Do học sinh chưa có kỹ năng quan sát. Do tâm lý lứa tuổi, do chưa được
rèn luyện thường xuyên nên các em chưa có cách quan sát cụ thể chi tiết. Các
em chỉ quan sát thoáng qua, hời hợt, thậm chí có em còn không để ý đến đối
tượng cần quan sát. Thêm vào đó khả năng tưởng tượng còn hạn chế, thiếu vốn
sống thực tế. Do vậy khi viết đoạn văn còn có những câu văn lạc lõng không sát
thực với yêu cầu của đề bài.
Do học sinh chưa biết dùng từ, đặt câu. Vốn từ của học sinh lớp 2 còn

nghèo nàn, chưa hiểu hết nghĩa của từ , chưa hiểu nhiều về cấu tạo của câu nên
khi viết đoạn văn các em còn nhiều hạn chế. Các em không biết viết thế nào,
viết từ đâu để thành một đoạn văn.
Do học sinh chưa có kỹ năng sắp xếp câu thành đoạn. Từ chỗ nói chưa
thành câu, nói câu cộc lốc nên khi viết các em bị chi phối nhiều. Hơn nữa các
em còn không biết viết câu nào trước, câu nào sau, viết chưa thành câu đã chấm
hết câu, viết xuống dòng tùy tiện do vậy nhiều bài văn của các em viết không
thành đoạn theo dung yêu cầu.
Một phần giáo viên dạy lý thuyết chưa tốt. Giáo viên chưa chuẩn bị kĩ nội
dung bài trước khi lên lớp, chưa thực sự đổi mới phương pháp, chưa tự giác tự
nghiên cứu trau dồi thêm chuyên môn nghiệp vụ để phục vụ công tác giảng dạy.
2.1.7. Tiến hành khảo sát:
Sau khi dạy xong bài tập làm văn tuần 8 tôi khảo sát 2 lớp: lớp 2D và 2E
với đề bài như sau:
Đề bài: Em hãy viết một đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu kể về cô giáo lớp 1 của
em.
• Thời gian: 15 phút
Kết quả đạt được như sau:
Mức độ

Hoàn thành

Hoàn thành

đánh giá
Lớp Sĩ số

tốt

khá


2D

32

Hoàn thành

SL

%

SL

%

SL

%

4

12.5

8

25

11

34.4


Chưa hoàn
thành
SL
%
9

28.1


10
2E

32

3

9.4

7

21.9

12

37.5

10

31.3


Nhìn vào bảng số liệu ta nhận thấy ngay rằng tỉ lệ bài viết của các em
hoàn thành và chưa hoàn thành còn chiếm tỉ lệ khá cao. Bởi khi viết đoạn văn kể
về cô giáo, các em thường bộc lộ các điểm yếu sau:
+ Về cách diễn đạt như: Từ bị lặp nhiều, dùng từ không chính xác. Ví dụ
có em viết :" Cô giáo em tên là Lan. Cô Lan có dáng người cao, cô Lan có mái
tóc dài, cô Lan có đôi bàn tay rất khéo viết chữ rất đẹp...". Hay có em viết: Cô
giáo em có đôi mắt to tròn xoe như hai hòn bi.
+ Câu không rõ nghĩa, câu không đủ bộ phận, các câu trong đoạn văn còn
lộn xộn, viết đoạn văn mang tính chất trả lời câu hỏi. Ví dụ có em viết : "Cô
giáo em dạy lớp 1. Có nụ cười tươi. Em rất yêu quý cô. có hàm răng trắng. cô
giảng dễ hiểu. Em rất quý cô"....
+ Có em viết đoạn văn theo cách trả lời nắp đuôi như sau: Tình cảm của
cô đối với em rất tốt.
Trước thực trạng đó tôi đã tìm tòi, tham khảo nghiên cứu và đưa ra một số
giải pháp cụ thể.
2.2. Giải pháp đề xuất:
Giảng dạy phân môn Tập làm văn lớp 2 là vấn đề được nhiều giáo viên lưu
tâm vì phân môn này là phân môn mới (chưa được học ở lớp 1), bên cạnh đó
việc tìm ra biện pháp dạy học sinh lớp 2 viết một đoạn văn cũng là điều mà
nhiều giáo viên trăn trở, cũng có nhiều đề tài viết về vấn đề này đã đạt được
những hiệu quả, song các đề tài trên đã đưa ra những biện pháp giảng dạy của
môn Tập làm văn thể loại viết đoạn văn ngắn nói chung mà chưa có những biện
pháp có những ví dụ cụ thể về một đề bài cụ thể. Xuất phát từ tình hình nêu trên
và thực tế ở trường nơi tôi công tác nên tôi đã nghiên cứu tiếp về vấn đề “ Kinh
nghiệm giúp học sinh lớp 2 viết đoạn văn ngắn”.
2.6. Nội dung của các giải pháp:
Giải pháp 1: Rèn các kỹ năng cơ bản cho học sinh viết đoạn văn ngắn.



11
Giáo viên cần chú trọng việc rèn viết đoạn văn ngắn cho học sinh. Cần coi
đây là công việc có vị trí quan trọng trong chương trình Tiếng Việt lớp 2. Vì có
viết đoạn văn tốt thì học sinh mới có nền tảng vững chắc để học văn sau này.
* Tạo cho học sinh có thói quen quan sát.
Giáo viên yêu cầu học sinh có thói quen quan sát những sự vật hiện tượng
xung quanh để ghi nhận lại và sử dụng khi thật cần thiết. Vì qua thực tế đôi khi
tôi cho các em một bài tập tả về cảnh biển, có em bảo là con chưa bao giờ nhìn
thấy biển. Quả đúng như vậy, vì các em được sinh ra và lớn lên ở nông thôn nên
các em không nhìn thấy biển là đúng. Bởi thế giáo viên cũng cần sưu tầm những
phim ảnh để có thể trình chiếu cho các em, cho các em quan sát về cảnh biển, …
hoặc vào dịp nghỉ hà các em hay được ba mẹ cho đi tham quan tắm biển, nhân
đó, giáo viên có thể yêu cầu học sinh quan sát kỹ để có ý tưởng cho tập làm văn
tả cảnh biển.
* Cung cấp vốn từ ngữ cho học sinh.
Để các em có thể làm được một bài văn tốt, các em phải có vốn từ ngữ
phong phú. Mà vốn từ đó, có em tích lũy khá nhiều nhưng chưa biết vận dụng.
Có em thì có rất ít hoặc chưa hề có. Bởi vậy, giáo viên chính là người cung
cấp.Mà cung cấp ở đâu? Tôi nghĩ trong các bài tập đọc có khá nhiều. Mỗi chủ đề
của môn Tiếng Việt thì môn tập đọc đều có những bài văn, bài thơ nói về chủ
để đó. Trong các tiết dạy, giáo viên nên tập cho học sinh trả lời thành câu đủ ý
và chú ý đến những bài tập đọc có liên quan đến tiết tập làm văn. Từ đó học
sinh có thể rút ra những câu văn hay, từ ngữ đẹp và ghi nhớ sau này vận dụng .
Ví dụ : qua bài Tôm Càng và Cá Con học sinh rút ra được đoạn văn tả về chú
Cá Con trong bài “ Con vật thân dẹt, trên đầu có đôi mắt tròn xoe, toàn thân
phủ một lớp vẩy bạc óng ánh”. Vốn từ còn có trong phân môn luyện từ và
câu. Giáo viên có thể cho các em chơi trò chơi, thi đua tìm từ ngữ tả về chú cá.
Các em sẽ rất hứng thú và tìm được rất nhiều từ.
Để hỗ trợ cho học sinh, giáo viên cần cung cấp cho học sinh : Nhiều từ
ngữ gợi tả, từ láy, từ tượng thanh, tượng hình … Ví dụ : Mặt biển xanh và rộng

thành mặt biển xanh ngắt và rộng mênh mông. Nối các câu văn lại thành
những từ ngữ liên kết như : và, thì, nếu, vậy là ….


12
Lưu ý học sinh trong đoạn văn tránh lặp lại từ nhiều lần mà phải thay
những từ ngữ lặp lại bằng từ có ý nghĩa tương tự, ví dụ: Bác Hồ thành Bác,
Người… thay những từ ngữ thông thường thành những từ ngữ trau chuốt hơn.
Ví dụ: buổi sáng thành buổi sớm mai, buổi bình minh.
Ví dụ: Sau khi thành lập sơ đồ, có thể các em sẽ thành lập một đoạn văn như
sau : “ Nhà em có nuôi một chú gà . Nó có bộ lông màu đỏ tía. Nó gáy rất to.
Em rất yêu nó”. Giáo viên có thể khuyến khích học sinh là “con làm đúng
nhưng chưa hay. Từ những ý tưởng ban đầu của con, chúng ta sẽ hình thành một
đoạn văn hay hơn nhé : “ Chú gà trống nhà em trông mới oai vệ làm sao !
Toàn thân nó phủ một lớp lông vũ màu đỏ tía. Sáng sáng, trống tía nhảy tót
lên ụ rơm đầu hè mà rướn cổ gáy vang ò ó o. Mỗi khi đi học về, em thường
rải cho nó một ít thóc và vuốt ve cái đuôi dài, cong cong của nó”. Khi đó,
học sinh sẽ thấy được vẫn là ý tưởng cũ nhưng đoạn văn đã được lột xác, thêm
thắt những từ ngữ trau chuốt hơn làm cho đoạn văn đẹp hơn, nghệ thuật hơn.
Giáo viên có thể sưu tầm những bài văn hay và đọc cho học sinh nghe để
học sinh học hỏi. Trưng bày những bài văn hay của các bạn trong lớp để các em
noi gương. Tập ghi chép những từ hay, ý đẹp khi bắt gặp ở đâu đó vào một
quyển từ điển riêng của mình. Từ đó, vốn từ của các em sẽ ngày càng nhiều,
càng phong phú.
* Giúp học sinh nắm chắc bố cục của đoạn văn.
Tạo cho các em thói quen làm văn phải có bố cục 3 phần : mở bài (giới
thiệu), thân bài (nội dung), kết luận (tình cảm) và lập sơ đồ trước khi làm tập
làm văn. Tôi xin gợi ý một cách lập sơ đồ thông qua một trò chơi “em và chú
gà” như sau. Ví dụ: Khi tả một chú gà, giáo viên cho hai em lên sắm vai, một
em là “chú gà”, một em là “người tả”. Cùng lúc đó, giáo viên cho học sinh vẽ sơ

đồ trên vở nháp.
• “Người tả” sẽ nói một câu để giới thiệu chú gà “ Nhà em có nuôi một
chú gà”
• Còn “chú gà” thì vừa nói vừa diễn tà: “tôi có bộ lông nhiều màu sắc.
Tôi có cái màu trên đầu. Tôi gáy rất to …”
• Người tả lúc này nói về tình cảm của mình đối với chú gà:“ Em
thường rải thóc cho gà ăn …”


13
Hoặc có thể tinh giảm em “người tả” chỉ cần một em sắm vai “chú gà”.
Sau khi nghe tả và quan sát xong các em thành lập ra một sơ đồ như sau:
Chú gà ở nhà em
Gáy to

Mào đỏ
Con gà

Lông nhiều màu

Ăn thóc
Em yêu mến chú gà

Từ đó các em đã nắm được đặc điểm của con vật cần tả mà phát triển thành một
đoạn văn. Hoặc ta có thể cho em hình thành một đoạn văn qua trò chơi “tiếp
sức”. Hay từ sơ đồ đã thành lập ở trên, giáo viên yêu cầu học sinh tạo thành câu,
cứ thể nối tiếp nhau thành lập thành đoạn văn. Trong lúc đó, giáo viên có thể ghi
lại trên bảng, thế là đã có bốn đoạn văn mẫu. Có thể câu văn lúc ấy còn lủng
củng nhưng ta có thể sửa chữa.
Giải pháp 2: Trang bị cho học sinh về vốn từ và kĩ năng viết đoạn văn ngắn.

* Cung cấp vốn từ.
Mỗi đoạn văn là cả một thực tế sinh động diễn ra xung quanh các em.
Song có được đoạn văn theo yêu cầu của bài là cả một quá trình học sinh phải tư
duy, phân tích, tổng hợp, sắp xếp…. Giáo viên cần trang bị cho học sinh một số
từ thuộc chủ đề hoặc phù hợp với văn cảnh.
Ví dụ: Tả nắng của mùa hè: nắng chói chang, nắng gắt gỏng, nắng như
thiêu như đốt… Tả về tiếng hót của chim: hót líu lo, hót véo von, hót vang lừng
… Tả về hình dáng người.
+ Thân hình : mảnh khảnh, gầy gò, béo tròn, thon thả …
+ Nước da : đen sạm, trắng hồng, xanh xao, đỏ đắn, ngăm đen …
+ Mái tóc: đen bóng, óng mượt, bồng bềnh, loăn xoăn….
+ Khuôn mặt: Trái xoan, đầy đặn, tròn trịa, xương xương, vuông vức....


14
Giáo viên đưa một số câu văn hay đến với học sinh một cách tự nhiên
không gò ép.
Ví dụ: Khi dạy học sinh viết đoạn văn tả cảnh biển tuần 26 giáo viên gợi
mở: Câu“ Những cánh buồm đủ màu sắc được nắng sớm chiếu vào sáng rực lên,
trông xa như những đàn bướm bay lượn giữa trời xanh cùng với cánh chim hải
âu”. Có thể trả lời cho câu hỏi nào? (Trên mặt biển có những gì ?)
* Kĩ năng viết đoạn văn.
Để có kĩ năng viết đoạn văn tốt giáo viên cần rèn cho học sinh kĩ năng
nói gãy gọn, trọn vẹn ý, không nói câu cụt.
Ví dụ: Khi tả về con chim mà em yêu thích có học sinh nói: “ Chim chích
chòe cứ sáng sớm, trên cây dừa nhà em nó đậu rồi nó hót”. Giáo viên cần phải
phân tích cho học sinh. Ý của em nói: "Cứ vào thời điểm buổi sáng, ở trên cây
dừa nhà em có một con chim chích chòe đến và hót ”. Vậy em cần nói cho gãy
gọn và hay hơn: “ Sáng nào cũng vậy, chim chích chòe lại bay đến đậu trên cây
dừa nhà em, cất tiếng hót líu lo”. Hoặc khi nói về tình cảm của cô giáo với học

sinh không nên nói: "Tình cảm của cô đối với em rất tốt", mà phải nói: "Cô giáo
rất yêu quý chúng em..."
Giáo viên nhắc nhở học sinh lưu ý giữa ngôn ngữ nói và ngôn ngữ viết.
Khi viết đoạn văn dẫn lời nói của người khác em phải cho trong ngoặc kép.
Ví dụ : Muốn kể lại lời nói của Dì trong đoạn viết về người thân của em,
cần phải viết trong ngoặc kép như: Dì em bảo: “ Cháu cứ lấy kẹo ra mà ăn ".
Hoặc khi trích dẫn lời nói của chú vẹt khi viết về một loài chim mà em thích.
Mỗi khi có khách đến chơi chú lại nhanh nhảu: "Có khách! Có khách !".
Việc rèn cho học sinh viết đoạn cần tạo điều kiện phát huy tính tích cực,
chủ động của học sinh. Phải làm sao cho mỗi đoạn văn là một cơ hội sáng tạo
cho học sinh thâm nhập, quan sát, phân tích từ thực tế.
Giáo viên cần hướng dẫn học sinh chuẩn bị trước thật tốt bài học, tiết học
hôm sau.
Ví dụ: Khi dạy học sinh viết 2 đến 3 câu về loài chim mà em thích. Từ
hôm trước giáo viên yêu cầu mỗi học sinh quan sát kỹ con chim trong thực tế


15
mà mình yêu thích. Cụ thể là : Các bộ phân đầu, mình, chân, hoạt động, tiếng
hót… của chim.
Giải pháp 3: Các bước tiến hành dạy học sinh viết đoạn văn ngắn.
Bài tập viết đoạn văn ngắn là loại bài sản sinh lời nói. Học sinh tập viết
đoạn văn là tập sản sinh lời nói, văn bản. Vì vậy, giáo viên cần dựa vào các bước
sau để hướng dẫn học sinh làm bài tâp .
Bước 1:
- Xác định yêu cầu bài.
+ Học sinh nêu yêu cầu bài tập.
+ Giáo viên phân tích yêu cầu.
- Định hướng học sinh viết.
+ Tả (kể) về ai (cái gì) ?

+ Viết mấy câu ?
+ Viết với tình cảm như thế nào ?
+ Hướng dẫn học sinh sắp xếp ý.
- Dù mới là học sinh lớp 2, bài viết chưa yêu cầu cao với bố cục một bài
văn như lớp 4 - 5, cũng chưa có khái niệm lập dàn ý. Song với đoạn viết từ 3
đến 5 câu với 2 đến 3 ý cũng cần sự sắp xếp ý. Ở học kỳ I học sinh được kể về
những người thân thiết với mình như: Cô giáo, thầy giáo, ông, bà, anh, chị,
em… Do đó giáo viên nên gợi ý học sinh trước tiên tự giới thiệu về người đó
(Tên là gì?, mối quan hệ với bản thân?). Tiếp đó là hình dáng, tính cách, công
việc hoặc ý thích của người kể và cuối cùng là tình cảm của học sinh đối với
người mình kể.
- Sang học kỳ II, học sinh được tả về một số con vật, cảnh vật xung
quanh mình. Đầu tiên cần gợi mở cho học sinh giới thiệu về vật (cảnh vật) định
tả. Chi tiết nổi bật của cảnh, vật đó. Cuối cùng là tình cảm của bản thân đối với
cảnh vật và con vật đó…
- Hướng dẫn học sinh phát triển thành đoạn văn. Ở khâu này học sinh bộc
lộ rất rõ nhược điểm về tư duy cách viết câu, sử dụng từ. Giáo viên không nên
làm thay cho học sinh mà nên trang bị một số tình huống, một số cách dùng từ,


16
một số cách liên kết phù hợp với nội dung đoạn viết để học sinh vận dụng viết
bài.
Bước 2: Học sinh viết bài vào vở. (Trước khi viết vào vở cho học sinh
nêu miệng bài văn)
Bước 3: Nhận xét bài làm, chữa lỗi.
- Học sinh đổi chéo vở đọc bài, sửa câu từ, nhận xét bài lẫn cho nhau.
- Giáo viên yêu cầu một số học sinh đọc bài viết của mình và đọc bài viết
đã được bạn sửa (câu, từ) trước lớp. Học sinh dưới lớp nhận xét sửa chữa bổ
sung. Sau đó, giáo viên nhận xét và chữa một số lỗi cơ bản (từ, câu, ý).

- Giáo viên đọc đoạn văn mẫu mà giáo viên đã chuẩn bị để học sinh tham
khảo.
Ví dụ: Khi dạy học sinh viết một đoạn văn từ 3 đến 5 câu nói về mùa hè,
giáo viên cần hướng dẫn theo các bước như sau:
Bước 1: Xác định yêu cầu bài. Định hướng học sinh viết.
- Học sinh đọc yêu cầu bài: “Hãy viết từ 3 đến 5 câu nói về mùa hè”.
- Giáo viên phân tích yêu cầu.
- Hướng dẫn học sinh định hướng viết.
+ Viết đoạn gồm mấy câu? (Viết đoạn từ 3 đến 5 câu).
+ Viết về cái gì? (Viết về mùa hè).
- Hướng dẫn học sinh sắp xếp ý.
+ Mùa hè bắt đầu từ tháng nào trong năm? (Mùa hè bắt đầu từ tháng 4
trong năm).
+ Mặt trời mùa hè như thế nào? (Mặt trời mùa hè rất chói chang).
+ Cả hai câu trên cho em biết về thời điểm và nét tiêu biểu của mùa
nào? (Đó là mùa hè).
- Giáo viên khẳng định đây là ý 1 của bài.
+ Bà Đất nói về mùa hè như thế nào? (Mùa hè cho ta trái ngọt hoa
thơm).
+ Vậy câu nói của Bà Đất có thể trả lời được cho câu hỏi nào trong bài?
(Cây trái trong vườn như thế nào?).


17
- Đây chính là ý 2 của đoạn viết.
+ Em có thích mùa hè không? (Có).
+ Vì sao? (Vì mùa hè em không phải đi học mà được nghỉ hè).
+ Học sinh thường làm gì vào dịp nghỉ hè? (Học sinh được đi tham
quan, thắng cảnh, thăm ông bà…).
- Đây chính là ý 3 của đoạn viết.

+ Đoạn viết có mấy ý? (3 ý)
- Giáo viên giảng mùa hè đến khiến cho cây tươi tốt trái trĩu cành và học
sinh được nghỉ hè.
+ Ý nào là kết quả của ý nào đem tới? (ý 2 và ý 3 là kết quả của ý 1 đem
tới). Vậy đoạn văn có thể viết :

Ý1----- Ý2------- Ý3

Hoặc:

Ý1----- Ý3------- Ý2

Hoặc:

Ý1----- Ý3 lồng Ý2

+ Hướng dẫn học sinh phát triển thành đoạn văn. Với 3 ý này học sinh có
thể phát triển mỗi ý thành 1 hoặc 2 câu. Từ câu này sang câu khác phải có sự
liên kết tránh lặp lại từ ý này phát triển tiếp ý kia. Giáo viên gợi ý:
Với ý 1 nói về thời điểm và đặc điểm tiêu biểu của mùa hè các em cần
lưu ý không nên lặp lại từ mùa hè trong 2 câu liên tiếp. Khi viết về ánh nắng mặt
trời nên dùng cách so sánh như: Nắng như thiêu như đốt, nắng cháy da cháy thịt,
nắng chang chang, nắng rát cả mặt…
+ Ánh nắng mùa hè em đã cảm nhận bằng những giác quan nào? (Em đã
cảm nhận bằng mắt, da…).
+ Em có ngửi thấy mùi hương của hoa không? (Có).
+ Có được ăn hoa quả trong mùa hè không? (Có).
+ Đó là hương, vị ta cảm nhận được bằng gì? (Cảm nhận được bằng mũi
và lưỡi).
+Vậy với nội dung ý 2 các em cần lưu ý điều gì? (Em cần đội mũ nón…)

Tóm lại: Không nhất thiết cứ mỗi câu hỏi viết được một câu trong đoạn
văn. Cần viết với sự cảm nhận bằng nhiều cách: Nhìn, ngửi, ăn… xen lồng với
tình cảm của bản thân về mùa hè.


18
Bước 2: Học sinh làm bài vào vở.
- Giáo viên hướng dẫn cách trình bày một văn bản. Khi bắt đầu viết đoạn
cách lề một ô, viết hết câu này tiếp sang câu khác, ý này tiếp sang ý kia, viết hết
đoạn mới xuống dòng.
- Khi học sinh làm bài giáo viên quan sát giúp đỡ những học sinh yếu.
Bước 3: Nhận xét bài làm, chữa lỗi.
- Học sinh đổi chéo bài, đọc bài viết của bạn sau đó nhận xét về cách trình
bày, sửa câu, từ sai có trong đoạn viết.
- Một số học sinh đọc bài viết của mình, đọc câu bạn đã sửa giúp. Học
sinh khác góp ý bổ sung.
- Giáo viên nhận xét bài làm, chữa một số lỗi cơ bản (từ, câu, ý).
- Giáo viên đọc đoạn văn mẫu cho học sinh tham khảo.
3. Hiệu quả của giải pháp:
3.1. Áp dụng thử nghiệm giải pháp:
3.1.1. Các bước tiến hành dạy thực nghiệm:
Xây dựng kế hoạch bài dạy, Tập làm văn lớp 2 các bài có yêu cầu viết
đoạn: Tuần 8, tuần 10, tuần 11, tuần 13, tuần 15, tuần 16, tuần 20, tuần 21, tuần
26, tuần 28, tuần 31, tuần 33, tuần 34.
Dạy thực nghiệm.
Chọn 02 lớp có trình độ tiếp thu kiến thức ngang nhau, chất lượng học tập
tương đương nhau:
* Lớp đối chứng: Lớp 2B.
* Lớp dạy thực nghiệm: Lớp 2A.
Tiến hành khảo sát lần 1, lần 2, để lấy số liệu đánh giá chất lượng viết

đoạn văn của học sinh.
Tổng kết và đánh giá kết quả thực nghiệm.
3.1.2. Bài dạy thực nghiệm:
Tiến hành dạy bằng phương pháp nói trên tất cả các tiết Tập làm văn có
bài tập yêu cầu viết đoạn văn.
Bài: “Chia vui. Kể về anh chị em”.


19
I. Mục đích cần đạt:
1. Kiến thức:
Học sinh hiểu được thế nào là nói chia vui và ích lợi của việc nói chia vui.
Nắm được cách kể ngắn về anh chị em của mình.
2. Kĩ năng:
Học sinh biết nói lời chia vui (chúc mừng) hợp với tình huống giao tiếp.
Viết được đoạn văn ngắn kể về anh, chị, em, của mình.
3. Thái độ:
Giáo dục học sinh có thái độ đồng cảm, chia sẻ vui buồn với mọi người và
lòng yêu mến anh, chị, em trong gia đình.
II. Đồ dùng dạy học:
Tranh minh họa bài tập 1 (SGK).
III . Các hoạt động dạy- học:
1. Ổn định: (1’)

- Hát

2. Kiểm tra bài cũ: (5’)
- Giáo viên gọi một học sinh.

- Học sinh nói: Bà đừng tiếc


+ Em hãy nói lời an ủi của em với ông (bà)

nữa bà nhé! Ngày mai mẹ cháu

khi kính đeo mắt của ông (bà) bị vỡ.

sẽ bảo bố cháu mua tặng bà
chiếc kính khác.
- Học sinh nhận xét.

- Giáo viên nhận xét.
- Giáo viên gọi 2 học sinh khác đọc đoạn văn
“Kể ngắn về gia đình em”.
- Giáo viên nhận xét.
3. Dạy bài mới:
a. Giới thiệu bài: (2’)
Các em đã biết kể ngắn về gia đình, biết an
ủi khi người khác gặp nỗi buồn hay có sự bất
hạnh. Vậy khi bạn bè hoặc người thân có
niềm vui ta cần phải làm gì? Cần kể về anh,

- Hai học sinh đứng tại chỗ đọc.


20
chị, em trong gia đình bằng tình cảm như thế
nào? Cô mời các em đi tìm hiều bài học ngày
hôm nay : “Chia vui – Kể ngắn về anh chị
em”.

- Giáo viên ghi bảng.

-2 học sinh nhắc lại đầu bài.

b. Hướng dẫn học sinh làm bài tập: (28’)
Bài 1: (Miệng).
- Giáo viên yêu cầu học sinh quan sát tranh -Học sinh quan sát tranh.
trong sách giáo khoa.
+ Tranh vẽ mấy nhân vật?

+Tranh vẽ 2 nhân vật.

+ Đó là những ai?

+Đó là bé Nam và chị Liên.

+ Bé Nam đang làm gì?

+ Nam đang cầm hoa tặng chị.

+ Nét mặt hai chị em như thế nào?

+Nét mặt 2 chị em rất vui.

- Giáo viên giảng: Chị Liên vừa đoạt giải nhì
trong kỳ thi học giỏi tỉnh. Chị rất vui vì đã đạt
được thành tích này. Là em trai bé Nam đem
hoa tặng chị và Nam còn nói gì với chị ? Em
hãy nhắc lại lời của bé Nam.


- Học sinh nối tiếp nhau nói lời
của Nam (Em chúc mừng chị
sang năm được giải nhất.)

- Giáo viên nhắc nhở học sinh nói tự nhiên
thể hiện sự vui mừng của em trai trước thành
công của chị.
- Giáo viên khen học sinh nói lời chia vui của
Nam tốt nhất.
+ Nam đã nói lời chia vui với chị khi nào ?

+Nam nói lời chia vui khi chị
Liên có 1 niềm vui lớn.

GV kết luận: Khi bạn hoặc người thân có
niềm vui ta cần biết chúc mừng bạn, người
thân đó. Sự chúc mừng đem lại niềm vui cho


21
mình và niềm vui cho bạn. Để hiểu kĩ hơn
nữa chúng ta cùng tìm hiểu bài tập 2
Bài 2: (Miệng)

-Học sinh đọc yêu cầu bài: “Em

- GV phân tích lại yêu cầu.

sẽ nói gì để chúc mừng chị
Liên”.


+ Bài yêu cầu em làm gì?

+ Yêu cầu nói lời của em.

+ Để làm gì ?

+ Để chúc mừng chị Liên.

- Giáo viên nhắc học sinh không được nhắc
lại lời của Nam.

- Học sinh nối tiếp nhau phát
biểu ý kiến.

- GV khuyến khích học sinh bày tỏ lời chúc Ví dụ: Em xin chúc mừng chị
mừng theo nhiều cách khác nhau bằng cách hoặc: Chúc chị học giỏi hơn
cho học sinh thảo luận cặp đôi.

nữa. hoặc Chúc mừng chị đoạt
giải

- Giáo viên yêu cầu một vài cặp đóng vai - Học sinh đóng vai nói lời chia
trước lớp.

vui.

- Giáo viên tổ chức học sinh bình xét cặp thể
hiện thái độ và nói lời chúc mừng tốt. Nhận
xét cặp chưa đạt.

+ Khi nói lời chia vui với người khác em cần + Em cần nói tự nhiên với thái
nói với thái độ thế nào?
GV kết luận: Cần nói tự nhiên với thái độ
chân thành, vui mừng,… khi chia vui với
người khác.
Chuyển ý: Buồn vui và tình cảm của mỗi con
người rất cần có sự cảm thông chia sẻ của
người khác. Còn việc kể về người thân thiết
trong gia đình thì kể như thế nào? Cách viết
đoạn văn ra sao thầy mời các em tìm hiểu tiếp
sang bài 3 - GV ghi bảng.

độ chân thành và vui mừng.


22
Bài 3: (viết)
Bước 1:

- Học sinh đọc yêu cầu bài.

- GV phân tích yêu cầu bài

- Lớp đọc thầm theo: “ Hãy viết
từ 3 đến 5 câu kể về anh, chị,
em ruột hoặc anh, chị em họ

- Hướng dẫn HS định hướng viết.

của em”.


+ Viết mấy câu?

+ Viết từ 3 đến 5 câu.

+ Viết về ai?

+ Viết về anh, chị, em ruột
(hoặc anh, chị, em họ)

+ Viết về một hay nhiều người?

+Viết về một người.

+ Đoạn văn viết yêu cầu kể hay tả về người +Yêu cầu em kể về người đó.
đó?
- Hướng dẫn học sinh sắp xếp ý.

- HS tự trả lời.

+ Tên người em định kể là ai?
+ Người đó hình dáng như thế nào?
+ Tính nết người đó ra sao?
+Tình cảm của em đối với người đó như thế
nào?
+ Khi kể về anh (chị, em) em cần kể những + Trước tiên là giới thiệu tên
gì?

sau đó đến hình dáng, tính cách
và cuối cùng là tình cảm của

em.

GV kết luận: Ý 1 giới thiệu người định kể; ý
2 hình dáng tính nết người mình định kể; ý 3
tình cảm của bản thân đối với người đó.
- Hướng dẫn học sinh phát triển thành đoạn
văn:
+ Khi kể về mái tóc có thể dùng các từ: óng
mượt, đen nhánh, bồng bềnh, loăn xoăn …
+Về thân hình : gầy gò, mảnh mai, vạm vỡ …


23
+Về nước da: hồng hào, trắng hồng, xanh
xao…

- Học sinh chú ý lắng nghe.

+Về tính cách : Có thể dùng các từ: hiền hòa,
hòa nhã, thân mật, gắt gỏng.
- Là anh chị phải dùng các từ tỏ ý kính trọng:
quý mến, kính yêu, hoà nhã, hiền lành. Nếu
viết về em bé có thể dùng các từ thể hiện sự
trìu mến : ngây thơ, ngộ nghĩnh. Cần dùng
một cách xưng hô khi viết đoạn, 2 câu liền
nhau tránh lặp lại từ…
Bước 2: Học sinh viết bài vào vở
- GV hướng dẫn HS viết đoạn : chữ đầu đoạn
cách lề 1 ô câu này nối câu kia. Hết đoạn mới
chấm xuống dòng


- HS làm vào vở.

Bước 3 : Nhận xét, chữa lỗi.
- GV nhận xét bài làm, sửa một số lỗi cơ bản
về (từ, câu, ý).

- HS đổi vở đọc bài, nhận xét và
sửa câu, từ cho bài của bạn.
- Nhiều học sinh đọc bài viết
trước lớp đồng thời đọc câu bạn
đã sửa cho mình , học sinh khác
bổ sung.

- GV đọc đoạn văn mẫu cho học sinh tham
khảo:“ Anh trai của em tên là Minh, năm nay
đang học lớp 8. Anh không mập lắm, nước da
trắng hồng, mái tóc bồng bềnh trông thật
đáng yêu. Em rất thích được nghe anh kể
chuyện và nhìn thấy anh cười. Em sẽ học thật
giỏi để lúc nào anh cũng có thể tự hào về
em".


24
4. Củng cố - dặn dò (2’)
+ Hôm nay chúng ta học bài Tập làm văn gì?
+ Bài chia vui. Kể về anh chị
+ Khi nào ta cần nói lời chia vui?


em.

+ Nói lời chia vui với thái độ như thế nào?

+ Khi người khác có niềm vui.
+Giọng tự nhiên, thái độ chân

- GV nhận xét, đánh giá tiết học.

thành, vui mừng.

- Dặn học sinh về đọc lại đoạn văn, tiếp tục - Học sinh theo dõi, chú ý lắng
sửa lỗi về ( câu, từ, ý) và thực hành nói lời nghe để về thực hiện theo yêu
chia vui khi bạn hoặc người thân có niềm vui. cầu của thầy
3.2. Hiệu quả đạt được:
Sau một thời gian áp dụng biện pháp nói trên trong việc dạy học sinh viết
đoạn văn ngắn, tôi đã kiểm tra học sinh 2 lớp 2D và 2E để lấy số liệu.
Lần 1: Tuần 15 ngày 7 tháng 12 năm 2015.
Đề bài: Em hãy viết đoạn văn ngắn từ 3 đến 5 câu nói về anh, chị, em ruột
của em ( hoặc anh, chị, em họ của em).
Thời gian làm bài :15 phút
Đối tượng 64 học sinh của hai lớp 2.
Kết quả đạt được như sau:
Mức độ

Hoàn thành

Hoàn thành

đánh giá

Lớp Sĩ số

tốt

khá

Hoàn thành

SL

%

SL

%

SL

%

Chưa hoàn
thành
SL
%

2D

32

7


21.9

11

34.4

8

25

6

18.8

2E

32

4

12.5

9

28.1

11

34.4


8

25

Lần 2: Tuần 26 ngày 08 tháng 03 năm 2016.
Đề bài: Em hãy viết đoạn văn ngắn (từ 4 đến 5) câu nói về con vật mà em
yêu thích.
Thời gian: 15 phút
Đối tượng 64 học sinh của hai lớp 2.


25
Kết quả đạt được như sau:
Mức độ

Hoàn thành

Hoàn thành

đánh giá
Lớp Sĩ số

tốt

khá

SL

%


SL

%

SL

%

2D

32

10

31.3

12

37.5

8

25

2

6.3

2E


32

6

18.8

10

31.3

10

31.3

6

18.8

Hoàn thành

Chưa hoàn
thành
SL
%

Nhìn vào các bảng kết quả trên cho thấy cách tổ chức học sinh viết đoạn
ngắn theo hướng đã trình bày ở trên giúp học sinh có kĩ năng viết đoạn văn chắc
chắn, thành thạo, chất lượng đoạn văn viết của học sinh tăng lên rõ rệt qua từng
đợt kiểm tra tại lớp thực nghiệm.

Mặt khác qua quá trình dạy thực nghiệm trên lớp 2D tôi thấy giờ học diễn
ra sôi nổi. Học sinh tiếp thu bài một cách chủ động. Song điều đáng nói hơn cả
là hiện tượng nói câu không rõ nghĩa, không trọn ý không còn nữa. Học sinh đã
biết dùng những từ ngữ giàu hình ảnh, câu viết khá sinh động. Khi viết về các
con vật và con người xung quanh mình. Thời gian hoàn thành đoạn viết trong
các lần kiểm tra cũng nhanh hơn so với lớp đối chứng. Điều đó chứng tỏ cách
dạy viết đoạn văn theo hướng đã trình bày ở trên đã đem lại kết quả đầy khả
quan, cần được phát triển để thực sự nâng cao chất lượng viết đoạn văn nói riêng
và học Tiếng Việt nói chung cho học sinh lớp 2.
3.3. Khả năng triển khai áp dụng giải pháp:
Sau một thời gian nghiên cứu và áp dụng vào thực tế, với năng lực và kinh
nghiệm của bản thân tôi đã trình bày cụ thể một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng: “ Dạy học sinh lớp 2 viết đoạn văn ngắn”. Với mong muốn nâng
cao chất lượng môn Tập làm văn giúp học sinh có kĩ năng viết đoạn văn ngắn
trong phân môn Tập làm văn lớp 2 theo hướng phát huy tính cực, chủ động sáng
tạo. Phát huy hết khả năng tự phát hiện của học sinh thông qua cách sắp xếp câu,
ý sao cho lôgíc, cách sử dụng từ chính xác và hay khi viết. Việc dạy học sinh
viết đoạn văn theo hướng nêu trên đã đem tới sự tiến bộ vượt bậc không chỉ ở


×