Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

ÔN tập tư TƯỞNG HCM HK2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (242.58 KB, 32 trang )

ÔN TẬP TƯ TƯỞNG HCM HK2
Câu 1: - Khái niệm tư tưởng HCM.
( giáo trình, tr.12)
- Ý nghĩa của việc học tập, nghiên cứu tư tưởng HCM.
( tài liệu)
Câu 2: Cơ sở và các giai đoạn hình thành, phát triển tư tưởng HCM.
( tài liệu)


• Câu 1: Khái niệm tư tưởng HCM. Khái niệm tư tưởng HCM.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII ( tháng 6-1991), Đảng ta đã khẳng định: Đảng lấy chủ
nghĩa Mac – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động. Văn kiện của Đại hội định nghĩa: “tư tưởng Hồ Chí Minh chính là kết quả sự vận dụng
sáng tạo chủ nghĩa Mac-Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta và trong thực tế tư tưởng Hồ
Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của cả dân tộc. Sau đó Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4-2001) và Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI của Đảng (tháng 1-2011) xác định khá toàn diện và có hệ thống những vấn đề cốt yếu
thuộc nội hàm khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh. “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, kết quả của
sự vận dụng và phát triển, sáng tạo chủ nghĩa Mac-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
thừa kế và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa
nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, mãi mãi soi
đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.”
Trong định nghĩa này, Đảng ta đã làm rõ:
Một là, bản chất cách mạng, khoa học và nội dung của tư tưởng Hồ Chí Minh: Đó là hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, phản ánh
những vấn đề có tính qui luật của cách mạng Việt Nam; tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ
nghĩa Mac-lênin là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của Đảng và dân tộc Việt Nam
Hai là, nguồn gốc tư tưởng, lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh: chủ nghĩa Mac-Lênin, giá trị
văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại.
Ba là, giá trị, ý nghĩa, sức hấp dẫn, sức sống, lâu bên của tư tưởng Hồ Chí Minh: là tài sản tinh


thần to lớn của Đảng và dân tộc, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta
giành thắng lợi.
“ Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ
bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội
chủ nghĩa; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mac-Lênin vào điều
kiện cụ thể nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.”- các nhà khoa học đã đưa ra định
nghĩa dự trên định hướng cơ bản các văn kiện đại hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh được nhìn nhận với tư cách là một hệ thống lý luận, có cấu trúc logic
chặt chẽ và có hật nhân cốt lõi/ Đó là tư tưởng về độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội;
độc lập dân tộc gắn liền với chủa nghĩa xã hội nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và
giải phóng con người.
• Ý nghĩa của việc học tập, nghiên cứu tư tưởng HCM
Trong thời kỳ đẩy mạnh CN hóa, hiện đại hóa đất nước thì việc học tập và nghiên cứu tư tưởng Hcm
ngày càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, nhất là đối với đối tượng sinh viên, những mầm non tương
lai làm chủ đất nước.
Trước hết, sinh viên tham gia học tập tư tưởng HCM để nâng cao năng lực tư duy lý luận và phương
pháp công tác. Cụ thể, thông qua việc làm rõ và truyền thụ nội dung hệ thống quan điểm lý luận của


HCM về những vấn đề cơ bản của CM Việt Nam giúp cho sinh viên nâng cao nhận thức về vai trò, vị
trí của tư tưởng HCM đối với đời sống CM Việt Nam, làm cho tư tưởng của Người ngày càng giữ vai
trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của thế hệ trẻ nước ta.
Thông qua học tập, nghiên cứu tư tưởng HCM để bồi dưỡng, củng cố cho sinh viên, thanh niên lập
trường, quan điểm cách mạng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xh, tích cực,
chủ động đấu tranh, phê phán những quan điểm sai trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác LN, tư tưởng HCM,
đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta, biết vận dụng tư tưởng HCM
vào giải quyết các vấn đề đặt ra trong cs.
Bên cạnh đó, tư tưởng HCM còn giúp sinh viên bồi dưỡng phẩm chất đạo đức CM và rèn luyện bản
lĩnh chính trị. Cụ thể như sau:

Tư tưởng HCM giáo dục đạo đức, tư cách, phẩm chất CM cho cán bộ, đảng viên và toàn dân biết
sống hợp đạo lý, yêu cái tốt, cái thiện, ghét cái ác, cái xấu. Học tập tư tưởng Hcm giúp nâng cao lòng
tự hào về Người, về Đảng Cộng sản, về Tổ quốc VN, tự nguyện “Sống, chiến đấu, lao động và học
tập theo gương Bác Hồ vĩ đại.”
Như vậy, trên cơ sở kiến thức đã được học, sinh viên vận dụng vào cs, tu dưỡng, rèn luyện bản thân,
hoàn thành tốt chức trách của mình, đóng góp thiết thực và hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng theo
con đường mà chủ tịch HCM và Đảng ta đã lựa chọn.
Câu 2: Cơ sở và các giai đoạn hình thành, phát triển tư tưởng HCM
a. Cơ sở hình thành tư tưởng HCM
Tư tưởng HCM được hình thành dựa trên những cơ sở khách quan và những tiền đề tư tưởng,
lý luận.
Thứ nhất, về cơ sở khách quan, ta xét trong bối cảnh lịch sử hình thành ở nước ta cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỷ XX và bối cảnh thời đại. Cụ thể như sau:
Trước hết, ở Việt Nam, năm 1858 thực dân Pháp tiến hành xâm lược. Năm 1884, chúng bắt
đầu quá trình khai thác thuộc địa. Từ đây, nước ta diễn ra nhiều biến đổi lớn.
Một là, về tính chất xã hội, từ một quốc gia phong kiến độc lập, Việt Nam bị biến thành quốc
gia thuộc địa nửa phong kiến
Hai là sự thay đổi trong kết cấu giai cấp, bao gồm 4 giai cấp là nông dân, địa chủ, công nhân,
tư sản và một tầng lớp tiểu tư sản tri thức.
Ba là mâu thuẫn cơ bản trong xã hội, bao gồm mâu thuẫn giữa nông dân VN với giai cấp địa
chủ và mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc VN và thực dân Pháp. Song, mâu thuẫn cơ bản chủ yếu
thời điểm này vẫn là mâu thuẫn thứ hai. Bởi lẽ toàn thể giai cấp trong xh bị biến thành nô lệ
của nước khác. Trong khi trong mâu thuẫn thứ nhất vốn đã là mâu thuẫn đương thời hàng trăm
năm, chỉ âm ỉ, chưa phát sinh bùng nổ. Sự mâu thuẫn bị đè thêm 1 cấp bậc cho mâu thuẫn lớn
hơn là mâu thuẫn thứ 2 luôn trong tình trạng gay gắt cần giải quyết triệt để.
Như vậy, trong thời kì này nhiều phong trào đấu tranh của nhân dân VN đã nổ ra với nhiều
đường lối khác nhau nhưng đều thất bại. Cách mạng VN rơi vào khủng hoảng về đường lối
cứu nước. Tuy điều này thể hiện phần nào tinh thần quật cường của nhân dân ta, song vẫn
không thể nào phủ nhận một sự thật, rằng: Cách mạng VN lúc này thật sự bị bế tắc. Trước tình
cảnh đó, Hồ Chí Minh đã ra đi tìm đường cứu nước ms cho dân tộc.



Trong khi đó, bối cảnh thời đại cũng diễn ra hàng loạt sự kiện lớn. Một là, nền kinh tế hàng
hóa TBCN phát triển rực rỡ khiến cho nhu cầu về thị trường ngày càng cao. Các nước đế quốc
bắt đầu cuộc xâm lược thuộc địa dẫn đến bùng nổ phong trào đấu tranh dân tộc để tự giải
phóng khỏi ách thực dân bùng phát dữ dội. Hai là Cách mạng Tháng Mười Nga thành công
vào năm 1917. Sự kiện này đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào CM trên thế giới chống CN Đế
quốc. Một sự kiện khác cũng đáng chú ý là Quốc tế Cộng Sản được thành lập vào tháng 3 năm
1919. Từ đây, Quốc tế Cộng Sản trực tiếp đề ra phương hướng đấu tranh giải phóng các dân
tộc bị áp bức.
Bên cạnh đó, tư tưởng HCM còn được hình thành dựa trên những tiền đề tư tưởng, lý luận sau:
Một là giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc VN. Lịch sử dựng nước và giữ nước lâu đời đã
hình thành nên những giá trị truyền thống hết sức đặc sắc và cao quý của dân tộc Việt Nam,
trở thành tiền đề tư tưởng, lý luận xuất phát hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong những
giá trị đó, chủ nghĩa yêu nước truyền thống là tư tưởng, tình cảm cao quý, thiêng liêng nhất, là
cội nguồn của trí tuệ sáng tạo và long dũng cảm của người Việt Nam, cũng là chuẩn mực đạo
đức cơ bản của dân tộc. Chính sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước đã làm động lực thúc giục
HCM ra đi tìm đường cứu nước và giải phóng dân tộc.
Hai là khi nói đến nét đặc sắc trong quá trình hình thành tư tưởng, nhân cách và văn hóa
HCM, không thể không kể đến sự kết hợp những tinh hoa giá trị truyền thống của văn hóa
phương Đông với các thành tựu hiện đại của văn minh phương Tây. Đối với văn hóa phương
Đông: đó là các triết lí hành động, tư tưởng nhập thế, hành đạo, giúp đời, đó là ước vọng về
một xã hội bình trị, hòa mục, hòa đồng, là triết lí nhân sinh, tu thân dưỡng tính, đề cao văn hóa
lễ giáo, tạo ra truyền thống hiếu học. Chẳng hạn như tư tưởng từ bi, bác ái, cứu khổ, cứu nạn
của Phật giáo hay Chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn với dân quyền tự do, dân sinh độc
lập. Còn đối với văn hóa phương Tây: Người trực tiếp đọc và tiếp thu các tư tưởng về tự do,
bình đẳng, bác ái qua các tác phẩm, người tiếp thu các giá trị của bản Tuyên ngôn nhân quyền
và dân quyền của Đại cách mạng Pháp, các giá trị về quyền sống, quyền tự do, quyền mưu cầu
hạnh phúc của Tuyên ngôn độc lập ở Mỹ năm 1776.
Ba là chủ nghĩa Mác –Lê nin- cơ sở thể giới quan và phương pháp luận của tư tưởng HCM. Nó

cung cấp cho HCM phương pháp duy vật biện chứng. Từ khi tiếp cận chủ nghĩa Mác Lê-nin,
tư tưởng HCM có sự phát triển về chất. Toàn bộ quan điểm của HCM về CM Việt Nam được
hình thành trên cơ sở nền tảng là CN Mác Lê-nin. Người đã tiếp thu có chọn lọc và vận dụng
một cách sáng tạo CN Mác LN vào hoàn cảnh cụ thể của VN. Do đó, tư tưởng của Người thể
hiện tính khoa học sâu sắc và tính CM triệt để. Mục tiêu CM của HCM không chỉ dừng lại ở
việc giải phóng dân tộc mà còn tiến đến giải phóng giai cấp đem lại tự do, ấm no thực sự cho
nhân dân. Có thể nói, Chủ nghĩa Mác LN là nguồn gốc lý luận trực tiếp quyết định bản chất tư
tưởng HCM. Mặt khác, HCM luôn có những đóng góp quan trọng nhằm bổ sung, phát triển
chủ nghĩa Mác LN. Đồng thời, Người luôn tranh đấu bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác
LN trước những luận điệu xuyên tạc, xét lại.


Bốn là nhân tố chủ quan từ khả năng tư duy, trí tuệ của Bác và phẩm chất đạo đức cùng năng
lực hoạt động thực tiễn. Trước hết, nói về khả năng tư duy và trí tuệ, trong quá trình tìm đường
cứu nước, Hồ Chí Minh khám phá các quy luật vận động xã hội, đời sống văn hóa và cuộc đấu
tranh của các dân tộc trong hoàn cảnh cụ thể để khái quát thành lý luận, đem lý luận chỉ đạo
hoạt động thực tiễn và được kiểm nghiệm trong thực tiễn. Nhờ vào con đường nhận thức chân lí
như vậy mà lý luận của Hồ Chí Minh mang giá trị khách quan, cách mạng và khoa học. Mặt
khác, khi nói về phẩm chất đạo đức và năng lực hđ thực tiễn, phẩm chất, tài năng đó được biểu
hiện trước hết ở tư tưởng độc lập, tự chủ, sáng tạo, cộng với đầu óc phê phán tinh tường, sáng
suốt trong việc nhận xét, đánh giá các sự vật, sự việc chung quanh. Phẩm chất đó còn được biểu
hiện ở bãn lĩnh kiên định, luôn tin vào nhân dân, khiêm tốn, bình dị, ham học hỏi, nhạy bén với
cái mới, có phương pháp biện chứng, có đầu óc thực tiễn. Phẩm chất cá nhân của Hồ Chí Minh
còn biểu hiện ở sự khồ công học tập để chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức nhân loại, là tâm hồn của
một nhà yêu nước chân chính, một chiến sĩ cộng sản nhiệt thành cách mạng, một trái tim yêu
nước thương dân, sẵn sang chịu đựng hi sinh vì độc lập tự do của tổ quốc, hạnh phúc của đồng
bào.
b. Giai đoạn hình thành và phát triển tư tưởng HCM.
Thời kì trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước
19/5/190: Bác sinh ra tại Kim Liên, Nam Đàn, Nghệ An. Trong thời kì này, ở Hồ Chí

Minh đã hình thành tư tưởng yếu nước, thương dân tha thiết, bảo vệ giá trị tinh thần
truyền thống của dân tộc, ham muốn học hỏi tư tưởng của nhân loại.
Thời kì 1911-1920: Tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Năm 1911, Nguyễn Tất Thành rời Tổ quốc sang phương Tây tìm đường cứu nước. Với lòng yêu
nước nồng nàn, HCM kiên trì chịu đựng mọi khó khăn gian khổ. Người chú ý xem xét tình hình
các nước, suy nghĩ về những điều mắt thấy tai nghe, hang hái học tập, tham gia các cuộc diễn
thuyết của nhiều nhà chính trị và triết học. Năm 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước
tại Pháp, NAQ gởi “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” tới Hội nghị Véc – xây đòi chính phủ
Pháp thừa nhận các quyền tự do, dân chủ và bình đẳng của nhân dân VN. Việc biểu quyết thành
Đệ tam Quốc tế (Quốc tế III), tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp (tháng 12/1920), trở thành
người cộng sản VN đầu tiên, đã đánh dấu bước chuyển biến về chất trong tư tưởng NAQ, từ chủ
nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Lê – nin, từ giác ngộ dân tộc đến giác ngộ giai cấp, từ người
yêu nước trở thành người cộng sản.
- Thời kì 1921-1930: hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam
Cách mạng dân tộc trong thời đại mới phải đi theo con đường cách mạng vô sản và là
một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Giải phóng dân tộc phải gắn liền với giải
phóng nhân dân lao động, giải phóng giai cấp công nhân. Cách mạng giải phóng dân tộc
ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ khắng khít với nhau
nhưng không phụ thuộc vào nhau. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân
chứ không phải việc của một vài người. Vì vậy cần phải tập hợp, giác ngộ và từng bước
tổ chức quần chúng đấu tranh từ thấp lên cao. Đây là quan điểm cơ bản đầu tiên của


HCM về nghệ thuật vận động quần chúng và tiến hành đấu tranh cách mạng. Trong 9
năm, tư tưởng HCM về CMVN đã hình thành cơ bản, Người đã kết hợp nghiên cứu xây
dựng lý luận với tuyên truyền tư tưởng giải phóng dân tộc, vận động quần chúng tổ chức
đấu tranh xây dựng tổ chức cách mạng, chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản VN.
3/2/1930, thành lập ĐCSVN.
- Thời kì 1930-1945: thời kì vượt qua thử thách, kiên trì giữ vững lậo trường cách mạng
Trên cơ sở tư tưởng về con đường CMVN, đã hình thành về cơ bản, HCM đã thành lập

được ĐCSVN, xây dựng cương lĩnh, định ra đường lối CMTS dân quyền và thổ địa cách
mạng để đi tới cách mạng cộng sản, tổ chức quần chúng đấu tranh trong mấy năm đầu
của những năm 30. HCM đã kiên trì giữ vững quan điểm cách mạng của mình, vượt qua
khuynh hướng đang chia phối Quốc tế Cộng sản, chi phối BCH trung ương Đảng, phát
triển thành chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc, xác lập tư tưởng độc lập tự do, dẫn
đến thắng lợi của nước VN dân chủ cộng hòa vào 2/0/1945.
- Thời kì 1945-1969: tư tưởng HCM tiếp tục phát triển và hoàn thiện.
Xuất phát từ thực tiễn, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta, tư tưởng HCM
về nhiều vấn đề đã tiếp tục được bổ sung và phát triển, hợp thành một hệ thống những
quan điểm lý luận về CMVN. Đó là: tư tưởng về chủ nghĩa xã hội và con đường quá độ
lên CNXH, tư tưởng về Nhà nước của dân, do dân, vì dân; tư tưởng và chiến lược về
con người; tư tưởng về Đảng Cộng sản và xây dựg Đảng với tư cách là Đảng cầm
quyền…
Câu 3:
A. Tư tưởng HCM về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp
Mác Ăng – ghen chưa có điều kiện nghiên cứu về vấn đề giai cấp vì trong thời kì ấy, việc 1 quốc
gia có tiềm lực về tài chính và quân sự đi xâm chiếm quốc gia khác biến thành thuộc địa của
mình chưa trở nên phổ biến. Trong lòng xã hội châu Âu chỉ tồn tài 1 mâu thuẫn cơ bản có tính
chất đối kháng gay gắt giữa vô sản và tư sản. Do đó, Mác Ang –ghen tập trung nghiên cứu vạch
ra phương hướng đấu tranh cho phong trào công nhân đạt hiệu quả.
Khi CNTB chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, một mâu thuẫn thứ 2 xuất hiện với tính
chất đối kháng gây gắt không kém là mâu thuẫn giữa các dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa đế
quốc. Do đó, Lê – nin có điều kiện nghiên cứu về vấn đề dân tộc. Tuy nhiên, xuất phát từ hoàn
cảnh lich sư nước Nga, những nghiên cứu của Lê – nin về vấn đề giai cấp vẫn mang tính chất
giai cấp.
HCM tiếp thu có chọn lọc và vận dụng có sáng tạo CN Mác – Lê- nin vào hoàn cảnh cụ thể của
VN. Người nhận thấy trong XH VN cùng tồn tại 2 vấn đề cần giải quyết. Một là vấn đề dân tộc,
gắn liền với 2 chữ “độc lập” nghĩa là phải đánh đổ chế độ thực dân chủ nghĩa trên nước VN. Hai
là, vấn đế giai cấp gắn liền với 2 chữ “tự do”, nghĩa là phải đánh đổ chế độ phong kiến đã lỗi thời
lạc hậu. Từ thực tế ấy, HCM đã nêu ra quan điểm về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề

giai cấp như sau:
a. Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt chẽ với nhau.
HCM coi trọng độc lập dân tộc, đề cao sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, nhưng Người luôn đứng
trên quan điểm giai cấp để nhận thức, giải quyết vấn đề dân tộc. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa vấn


đề giai cấp và vấn đề dân tộc đó là: vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, quyền lãnh đạo duy nhất
của Đảng cộng sản. Chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng lien minh công-nông-tri
thức. Lấy bạo lực cách mạng của quần chúng chống bạo lực cách mạng của kẻ thù; thiết lập nhà nước
của dân, do dân, vì dân; gắn mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội.
b. Giải phóng dân tộc là vấn đề trước hết, trên hết; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội:
+ 1920, HCM chọn con đường cách mạng VN là cách mạng vô sản, có sự gắn bó thống nhất giữa dân
tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
+ Chỉ có xóa bỏ tận gốc chế độ áp bức, bóc lột, thiết lập nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân
mới đảm bảo cho người lao động quyền làm chủ. Phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội, độc lập
dân tộc với tự do, hạnh phúc của mỗi người. Sauk hi giành độc lập phải tiến lên chủ nghĩa xã hội,
làm dân giàu, nước mạnh, nhân dân ấm no, hạnh phúc.
c. Giải phóng dân tộc tạo tiền đề giải phóng giai cấp
Giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của chủ nghĩa thực dân là điều kiện để giải phóng giai cấp. Vì
vậy lợi ích của giai cấp phải phục tùng lợi ích dân tộc.
d. Giữ vững độc lập dân tộc mình, đồng thời tôn trọng độc lập dân tộc khác
HCM đấu tranh cho độc lập dân tộc ở VN cũng như độc lập dân tộc của các dân tộc bị áp bức trên
thế giới. Người nhiệt liệt ủng hộ cuộc kháng chiến chống Nhật của nhân dân Trung Quốc, cuộc
kháng chiếng chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ của nhân dân Lào, Campuchia. Tư tưởng HCM về
vấn đề dân tộc mang tính khoa học và cách mạng sâu sắc, thể hiện sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa dân
tộc và giai cấp, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế trong sáng.
VẬN DỤNG:
- Khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực mạnh
mẽ để xây dựng và bảo vệ tố quốc.
- Quán triệt tư tưởng HCM về nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm giai

cấp.

B. Tư tưởng HCM về chủ nghĩa dân tộc
Tư tưởng đặc sắc của Hồ Chí Minh về "chủ nghĩa dân tộc" của Người đối với nhân dân Việt
Nam; về mối quan hệ khăng khít giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong cách mạng vô
sản nói chung và cách mạng dân tộc dân chủ ở Việt Nam nói riêng. Ra đi tìm đường cứu nước
từ năm 1911, Nguyễn Tất Thành bôn ba hải ngoại và hoạt động cách mạng dưới cái tên
Nguyễn Ái Quốc. Trở về nước năm 1941, Người đã trực tiếp lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám
năm 1945 thành công và trở thành Chủ tịch đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Đầu năm 1946, Người bày tỏ tâm tư của mình: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột
bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai
cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành"(1). Có thể nói, động lực làm nên chí khí và
sự nghiệp Hồ Chí Minh chính là điều mà Người gọi là chủ nghĩa dân tộc. Đây là tư tưởng nền


tảng và nhất quán trong hệ tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh. Bởi vậy, trên thế giới vẫn còn
có nghi vấn rằng, Hồ Chí Minh là "một nhà dân tộc chủ nghĩa hay người cộng sản"? Đối với
dân tộc Việt Nam và những người tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh là một người cộng sản.
Việc tìm hiểu người cộng sản Hồ Chí Minh đã quan niệm như thế nào về chủ nghĩa dân tộc là
một vấn đề quan trọng. Bởi lẽ, có hiểu được đúng đắn quan điểm của Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa dân tộc thì mới có thể hiểu được đầy đủ sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin
vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, để thấy được đóng góp
to lớn của Người vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc và giai
cấp. Ai đã từng đọc Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản (1848) thì đều nhớ rằng, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã kết thúc tác phẩm nổi tiếng này bằng khẩu hiệu: "Vô sản tất cả các nước đoàn
kết lại". Trong khẩu hiệu này, C.Mác nhấn mạnh đến yếu tố giai cấp trong sự đoàn kết quốc
tế. 72 năm sau (1920), V.I.Lênin đã bổ sung, phát triển thêm khẩu hiệu chiến lược này bằng
yếu tố dân tộc như sau: "Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới
đoàn kết lại". Như vậy, V.I.Lênin là người đã bảo vệ, kế thừa và phát triển một cách sáng tạo
chủ nghĩa Mác trong thời đại mới - thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách mạng vô sản. V.I.Lênin

cũng chính là người đã đề ra học thuyết cách mạng không ngừng đối với các nước thuộc địa,
nửa thuộc địa và phụ thuộc; vạch ra cho họ con đường tự giải phóng mình. Với phương Đông
và châu Á, V.I.Lênin còn là tác giả của học thuyết "châu Á thức tỉnh", mở rộng là phương
Đông thức tỉnh. Chính Nguyễn Ái Quốc đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Lênin mà
tìm ra con đường giải phóng, con đường cứu nước cho dân tộc mình.
Năm 1924, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam đang
đấu tranh giải phóng dân tộc hồi đầu thế kỷ XX, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam
kỳ gửi Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định: "Chủ nghĩa dân
tộc là động lực lớn của đất nước. Chính nó đã gây nên cuộc nổi dậy chống thuế năm 1908, nó
dạy cho những người culi biết phản đối, nó làm cho những người "nhà quê" phản đối ngầm
trước thuế tạp dịch và thuế muối. Cũng chủ nghĩa dân tộc đã luôn luôn thúc đẩy các nhà buôn
An Nam cạnh tranh với người Pháp và người Trung Quốc; nó đã thúc giục thanh niên bãi
khóa, làm cho những nhà cách mạng trốn sang Nhật Bản và làm vua Duy Tân mưu tính khởi
nghĩa năm 1917"(3). Tiếp đó, Nguyễn Ái Quốc đã có những phân tích sâu sắc về sự biến đổi
và phát triển của chủ nghĩa dân tộc dưới tác động của chiến tranh như sau: 1. Chủ nghĩa dân
tộc đã hiện đại hoá và người chỉ đạo chủ nghĩa dân tộc chính là giới thanh niên An Nam. 2.
Chủ nghĩa dân tộc ngày càng ăn sâu vào quần chúng. 3. Trong chủ nghĩa dân tộc có cả lòng
căm ghét bọn xâm lược Trung Quốc và người Ấn Độ sinh cơ lập nghiệp trên đất nước này. 4.
Chủ nghĩa dân tộc có xu huớng hợp pháp hóa các hình thức biểu hiện và yêu sách của nó; và
lớp thanh niên ngày càng đóng vai trò quan trọng hơn, có ý nghĩa hơn những lớp người già đi
trước. Trong khoảng hơn một trang in (tiếng Việt), đã có ít nhất 16 lần Nguyễn Ái Quốc dùng
tới thuật ngữ "chủ nghĩa dân tộc". Nhận thức rõ vai trò đặc biệt quan trọng của chủ nghĩa dân
tộc trong phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở Việt Nam khi đó, trong phần cương lĩnh
và phương hướng hành động chung, Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ của Nguyễn Ái
Quốc đề nghị "phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản... Giờ đây,
người ta sẽ không thể làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại,
và duy nhất của đời sống xã hội của họ". Ở Việt Nam khi đó, một phương hướng, nhiệm vụ


như vậy là đúng đắn và phù hợp với lôgíc. Bởi khi đó, ở phương Đông, Đông Dương và cụ

thể là, ở Việt Nam, "cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra như ở phương Tây"; người lao
động, nhân dân bị áp bức tuyệt đại đa số là nông dân; trí thức có vai trò đặc biệt quan trọng, ý
thức dân tộc của họ rõ ràng mạnh hơn ý thức giai cấp (vì ngay giai cấp công nhân Việt Nam
trước năm 1924 cũng vẫn còn là giai cấp "tự phát"). Cho nên, trong khi tuyên truyền giác ngộ
ý thức giai cấp cho họ, thì đồng thời cũng phải "phát động chủ nghĩa dân tộc" của họ, bởi vấn
đề độc lập dân tộc là vấn đề chủ yếu, nổi lên hàng đầu ở một nước thuộc địa, nửa phong kiến
như Việt Nam thời thuộc Pháp. Chủ nghĩa dân tộc được phát động như vậy sẽ là một trong
những tiền đề, điều kiện vô cùng quan trọng cho một cuộc khởi nghĩa vũ trang thắng lợi ở
Đông Dương.
Ở đây, cần nhấn mạnh rằng, trong khi nêu cao vấn đề dân tộc, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí
Minh không bao giờ hạ thấp hoặc coi thường vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp. Nhiều nhà
nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh đều có chung nhận định rằng: "Hồ Chí Minh đã giải
quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, độc lập dân tộc, dân chủ và
chủ nghĩa xã hội trong quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam". Theo Hồ Chí Minh, đối
với Việt Nam, không thể giải quyết vấn đề giai cấp trước rồi mới giải quyết vấn đề dân tộc
như ở các nước tư bản phát triển phương Tây. Mà ngược lại, chỉ có giải phóng dân tộc thì mới
giải phóng được giai cấp, giải phóng dân tộc đã bao hàm một phần giải phóng giai cấp và tạo
tiền đề cho giải phóng giai cấp". Sở dĩ như vậy là vì, "ở Việt Nam, cùng với sự tồn tại của
mâu thuẫn giai cấp và đấu tranh giai cấp trong nội bộ dân tộc, nổi lên mâu thuẫn dân tộc và
đấu tranh giữa toàn dân tộc với chủ nghĩa thực dân đế quốc và bè lũ tay sai". Nói tóm lại,
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh đã vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh, điều kiện
lịch sử cụ thể của Việt Nam để đề ra con đường cách mạng đầy sáng tạo của Việt Nam là:
"giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội (giai cấp), giải phóng con người với khẩu hiệu: "Đoàn
kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công, thành công, đại thành công"(10). Như vậy, vấn đề
"chủ nghĩa dân tộc" trong tư tưởng Hồ Chí Minh là khá rõ ràng. Đối với Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc chân chính và chủ nghĩa quốc tế vô sản thống nhất với nhau.
Hơn thế, trong những điều kiện nhất định, chủ nghĩa dân tộc có thể phát triển thành chủ nghĩa
quốc tế vô sản. Trong Báo cáo về Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ, Nguyễn Ái Quốc cho rằng,
"khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi, thì đã lâu lắm rồi, phần lớn thế giới sẽ xôviết hoá và
lúc đó, nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế". Bởi vậy, "chủ nghĩa
dân tộc theo Hồ Chí Minh, hoàn toàn không phải là thứ chủ nghĩa dân tộc phong kiến, tư sản

hay của Quốc tế II, (càng không phải là chủ nghĩa dân tộc cải lương), mà là chủ nghĩa dân tộc
chân chính, theo lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin, gắn dân tộc với quốc tế, dân tộc với giai
cấp, hướng tới triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người". Như
vậy, chủ nghĩa dân tộc mà Hồ Chí Minh dùng ở đây, nói như C.Mác, không phải như giai cấp
tư sản đã hiểu, mà là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của người dân bản
xứ.
Như vậy, khi tiếp thu học thuyết Mác về đấu tranh giai cấp, Nguyễn Ái Quốc cũng thừa nhận
đấu tranh giai cấp là một động lực trong xã hội có giai cấp, nhưng Người không cho đó là
động lực duy nhất. Xuất phát từ điều kiện cụ thể của một nước thuộc địa, mất nước với nhiệm
vụ cứu nước giành độc lập dân tộc đang đặt lên hàng đầu, thì "chủ nghĩa dân tộc là một động


lực lớn của đất nước". Bởi vì, chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc chân chính của nhân
dân Việt Nam đã được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử, vốn là động lực tinh thần vô giá
trong các cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ độc lập dân tộc. Hơn nữa, ở một nước
thuộc địa nửa phong kiến, nông nghiệp lạc hậu, sự phân hoá giai cấp đã bắt đầu nhưng chưa
triệt để và sâu sắc, xung đột giai cấp chưa gay gắt và mạnh mẽ, cả dân tộc đang đấu tranh
chống chủ nghĩa đế quốc giành độc lập, tự do, thì chủ nghĩa dân tộc là động lực vĩ đại.
C. Tư tưởng HCM về cách mạng giải phóng dân tộc
• Tính chất, nhiệm vụ và mục tiêu của CM giải phóng dân tộc:
Sự phân hóa của XH thuộc địa và mâu thuẫn của XH thuộc địa dẫn đến CM ở thuộc địa là cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc. Đối tượng của CM thuộc địa là CN thực dân và tay sai phản động. Có 4 giai
câp cơ bản trong XH VN và 1 tầng lớp. Đó là: địa chủ phong kiến, nông dân, tư sản (Tư sản mại bản
– cấu kết với Pháp và tư sản dân tộc – quy mô nhỏ, bị chèn ép) và tầng lớp tiểu tư sản, trí thức.
Nhiệm vụ hàng đầu của CM thuộc địa là lật đổ ách thống trị của CN đế quốc, giành độc lập dân tộc
và giành chính quyền về tay nhân dân.
* Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách mạng vô sản.
- Để giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị của thực dân Pháp, ông cha ta đã sử dụng nhiều con udờng
gắn với những khuynh hướng chính trị khác nhau, sử dụng những vũ khí tư tưởng khác nhau, tuy
nhiên đều bị thực dân Pháp dìm trong biển máu.

- Người đã nghiên cứu con đường cách mạng tư sản của các nước như Anh, Pháp, Mĩ và cho rằng
đây là cuộc cách mạng không triệt để, vì sau khi giải phóng, quyền lợi thuộc về giai cấp tư sản, giai
cấp khác vẫn bị bóc lột.
- 07/1920, HCM đọc được bản sơ thảo luận cương lần thứ 1 về những vấn đề dân tộc và thuộc địa
của Lênin. Từ đó người bắt đầu lựa chọn con đường cách mạng vô sản.
* Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng Sản lãnh đạo.
- Trong tác phẩm Đường cách mệnh, Người khẳng định: “ Trước hết phải có đảng cách mệnh, để
trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì lien lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp
mọi nới. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới
chạy.”
- Theo HCM, Đảng Cộng Sản VN là đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân
tộc VN. Người cho rằng ĐCSVN là Đảng của giai cấp vô sản, đồng thời là Đảng của dân tộc VN.
* Lực lượng của CMGPDT bao gồm toàn dân tộc.
- Về mặt lý luận, HCM đã dựa trên quan điểm của CN Mac-Lênin cho rằng: Cách mạng là sự nghiệp
của quần chúng, dựa vào nhiệm vụ cốt yếu của CMGPDT nên HCM đã xác định lực lượng tiến hành
cuộc cách mạng là toàn dân VN trên cơ sở lien minh công nông.
- Để có thể huy động và phát huy sức mạnh của toàn dân cứu nước, HCM đã sắp xếp các lực lượng
cách mạng theo quan điểm giai cấp, người chỉ rõ lực lượng công nông là gốc cách mạng, còn học trò,


nhà buôn, điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức song không cực khổ bằng công nông, 3 hạng ấy chỉ là
bầu bạn cách mạng của công nông mà thôi.
- Khẳng định giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng. Mặc dù giai cấp nông dân chiếm
90% nhưng HCM chỉ khẳng định họ chỉ là đồng minh của giai cấp công nhân, vì gắn với nông
nghiệp tiểu nông.
- Đưa tất cả người dân yêu nước vào mặt trận dân tộc thống nhất để phát huy toàn bộ sức mạnh để
giành độc lập tự do.
* Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng
lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
** Cơ sở lý luận:

Mác đã khẳng định sự nghiệp giải phóng giai cấp chỉ có thể được thực hiện bởi chính giai cấp công
nhân. HCM đã vận dụng quan điểm này khẳng định công cuộc giải phóng nhân dân các thuộc địa chỉ
có thể được thực hiện bởi sự nỗ lực của chính nhân dân các thuộc địa. Mặt khác, theo quan điểm của
Lê – nin, giai cấp vô sản của thuộc địa có khả năng tự giải phóng nếu có sự giúp đỡ của giai cấp vô
sản ở chính quốc.
** Cơ sở thực tiễn:
HCM nhận thấy sức sống của CNTB tập trung ở các thuộc địa. Thuộc địa là nơi cung ứng tài nguyên
và con người trong chính quốc nhưng nhân dân thuộc địa không hề nhận được sự bảo hộ mà phải
hứng chịu những chính sách trấn áp, khủng bố. Do đó, tất yếu sẽ nổ ra những cuộc đầu tranh chống
CN thực dân. Người nhận thấy rằng CN dân tộc ở các thuộc địa luôn được phát huy mạnh mẽ. Do đó,
đối diện với ách xâm lược và thống trị, tất yếu sẽ là những cuộc đấu tranh CM giải phóng dân tộc. So
với hoàn cảnh khốn cùng phải chịu nhiều tầng áp bức của nhân dân thuộc địa, thì nhân dân chính
quốc dễ bị ru ngủ bởi những chính sách thỏa hiệp của chính phủ nước mình. Do đó, khả năng nổ ra
cách mạng sẽ thấp hơn ở thuộc đi.
Như vậy, từ cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, HCM khẳng định: “CM giải phóng dân tộc ở thuộc
địa không những không phụ thuộc hoàn toàn vào CM vô sản ở chính quốc mà còn có khả năng nổ ra
và giành thắng lơi trước. Chẳng hạn như CM tháng 8 của VN đã nổ ra trước CM vô sản của nhân dân
Nhật. Từ đây, ta nhận thấy kết luận của HCM mang ý nghĩa sáng tạo.
Câu 4:
A. Tư tưởng HCM về đặc trưng của Chủ nghĩa xã hội
Đó là một chế độ chính trị do nhân dân làm chủ. VN đã xây dựng về cơ bản chế độ chính trị do
nhân dân làm chủ và đang nỗ lực để hoàn thiện nền dân chủ nhân dân. Cụ thể như sau:
Một là, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 do nhân dân làm chủ.
Hai là vào ngày 6/1/1946, nhân dân bầu cử Quốc hội.
Ba là, vào tháng 11/1946, Quốc hội họp phiên lần thứ nhất thông qua Hiến pháp để bảo đảm
quyền làm chủ nhân dân.
Bốn là ngày nay, nhân dân giám sát những đại biểu Quốc hội.


Đó là một chế độ xã hội có nền kinh tế phát triển cao. Thực chất, đây là mục tiêu mà nhà nước

CM xã hội chủ nghĩa VN đang hướng tới. Muốn như vậy thì dân tộc ta cấp thiết cần công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Việt Nam đã ra khỏi tốp các nước chậm phát triển cách đây
5 năm và đang ở nấc thang thứ 3 của trình độ đang phát triển (trong khi Trung Quốc ở nấc
thang thứ 7). Mục tiêu hiện tại của chúng ta là về cơ bản, các vùng có thể vươn tới nền CN
hiện đại.
Trên hết, Chủ nghĩa xh là một chế độ không còn người bóc lột người, song vẫn tồn tại hiện
tượng người bóc lột người.
Mặt khác, CNXH là một xh phát triển cao về văn hóa và đạo đức. Con người được giải phóng,
có điều kiện phát triển toàn diện, có sự hài hòa trong phát triển của xh và tự nhiên. Việt Nam
được biết đến là một quốc gia có nền tảng văn hóa đạo đức sâu rộng. Hồ chủ tịch một phần đã
tạo nên nét rất riêng đặc trưng của dân tộc VN.
Cuối cùng, CNXH chính là công trình tập thể của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
sản. Việc giành chính quyền, xây dựng chính quyền và ủng hộ chính quyền đều do nhân dân.
B. Tư tưởng HCM về con đường quá độ lên chủ nghĩa xh ở VN.
- Theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mac-Lênin, có hai con đường quá
độ lên CNXH
+ Con đường thứ nhất là con đường quá độ trực tiếp lên CNXH từ những nước tư bản phát
triển ở trình độ cao.
+ Con đường thứ hai là quá độ gián tiếp lên CNXH ở những CNTB còn phát triển thấp,
hoặc như Lênin cho rằng, những nước có nền kinh tế lạc hậu, chưa trải qua thời kì phát
triển của Chủ nghĩa tư bản, cũng có thể đi lên CNXH được trong điều kiện cụ thể nào đó,
nhất là trong điều kiện đảng kiểu mới của giai cấp vô sản nắm quyền lãnh đạo (trở thành
Đảng cầm quyền) và được một hay nhiều nước tiên tiến giúp đỡ.
- Trên cở sở vận dụng lý luận về cách mạng không ngừng, về thời kì quá độ lên CNXH
của chủ nghĩa Mac-Lênin và xuất phát từ đặc điểm tình hình thực tế VN, HCM đã khẳng
định con đường cách mạng VN là tiến hành giải phóng dân tộc, hoàn thành cách mạng
dân tộc dân chủ nhân dân, tiến dần lên CNXH.
- Như vậy quan niệm của HCM về thời kì quá độ lên CNXH ở VN là quan niệm về một
hình thái quá độ giái tiếp cụ thể - quá độ từ một xã hội thuộc địa nửa phong kiến, nông
nghiệp lạc hậu sau khi giành được độc lập dân tộc đi lên CNXH.

Theo HCM khi bước vào thời kì quá độ lên CNXH nước ta có đặc điểm lớn nhất là một nước nông
nghiệp lạc hậu tiến lên CNXH không phải trải qua giai đoạn phát triển TBCN.
C. Phương thức biện pháp tiến hành xây dựng CNXH
Công cuộc xây dựng CNXH ở nước ta là một sự nghiệp CM mang tính toàn diện. HCM
đã xác định rõ nhiệm vụ cụ thể và biện pháp tiến hành cho từng lĩnh vực:


- Thực hiện cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới, kết hợp cải tạo với xây dựng, lấy xd
làm nòng cốt, chủ chốt và lâu dài.
- Xây dựng nền tảng vật chất và kĩ thuật cho CNXH, xd các tiền đề về kinh tế, chính trị,
văn hóa, tư tưởng cho CNXH.
- Kết hợp xd và bảo vệ, đồng thời tiến hành 2 nhiệm vụ chiến lược ở 2 miền Nam – Bắc
khác nhau trong phạm vi một quốc gia
- Xd CNXH phải có kế hoạch, biện pháp, định hướng cụ thể, quyết tâm để thực hiện
thắng lợi kế hoạch đặt ra.
- Xd XHCN phải đặt ra nhiều biện pháp tích cực khác nhau: đẩy mạnh phát triển kinh tế,
xd chính trị vững mạnh, tăng cường đầu tư giáo dục văn hóa, đào tạo con người…
- Quan trọng nhấ là phát huy tài dân, sức dân, của dân. HCM nhấn mạnh đến vấn đề xây
dựng con người mơi.s
- Trong điều kiện nước ta, biện pháp cơ bản, quyết định và lâu dài là đem tài dân sức dân
để làm lợi cho dân dưới sự lãnh đạo của Đảng.
- Giữ vững và phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng. Đảng phải luôn luôn tự đổi mới và tự
chỉnh đốn, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, có hình thức tổ chức phù hợp
để đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ mới.
Câu 5: Cơ sở và quan điểm cơ bản của HCM về đại đoàn kết dt, đoàn kết quốc tế. Liên hệ thực
tiễn.
A. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
1) Vai trò của đại đoàn kết dân tộc
a. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công của cách
mạng

- Đại đoàn kết dân tộc là chiến lược tập hợp mọi lực lượng cso thể tập hợp được nhằm hình
thành sức mạnh to lớn của dân tộc trong cuộc đấu tranh với kẻ thù của dân tộc và giai cấp.
- Theo HCM, trong thời đại mới, để đánh bại các thế lực đế quốc, thực dân nếu chỉ có tinh
thần yêu nước thì chưa đủ, cách mạng muốn thành công và thành công đến nơi phải tập hợp
được mọi lực lượng có thể tập hợp, xây dựng khối đàon kết dân tộc bền vững. Chính vì vậy
trong tư tưởng HCM, đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, nhất
quán và lâu dài xuyên suốt tiến trình cách mạng.
b. Đoàn kết dân tộc là mục tiêu hàng đầu của Đảng và của dân tộc
- Trong tư tưởng HCM, yêu nước – nhân nghĩa – đoàn kết là sức mạnh, là mạch nguồn của
mọi thắng lợi. Do đó, đại đoàn kết dân tộc phải được xác định là mục tiêu, nhiệm vụ hàng
đầu của Đảng, phải được quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực từ đường lối, chủ trương,
chính sách tới hoạt động thực tiễn của Đảng.
- Đại đoàn kết dân tộc chính là đòi hỏi của bản thân quần chúng nhân dân trong cuộc đấu
tranh để tự giải phóng, là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng, vì quần chúng. Đảng


có sứ mệnh thức tỉnh, tập hợp, hướng dẫn chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của
nhân dân thành sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân tộc, tự do cho nhân
dân và hạnh phúc cho con người.
2) Nội dung của đại đoàn kết dân tộc
a. Đoàn kết dân tộc là đại đoàn kết toàn dân
- Theo quan điểm HCM, dân là mọi con dân nước Việt, không phân biệt già trẻ, gái trai,
giàu nghèo, quý tiện. Dân là gốc rễ, là nền tảng của nước, là chủ thể của khối đại đoàn kết,
là nguồn sức mạnh quyết định mọi thắng lợi của cách mạng.
- Dân là một khối không đồng nhất gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, dân tộc có lợi ích chung
và riêng khác nhau. Bởi vậy, muốn xây dựng đại đoàn kết toàn dân phải xác định rõ vị trí
các giai tầng trong xã hội.
- Trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân phải đứng trên lập trường của giai
cấp công nhân để tập hợp lực lượng, không bỏ sót một lực lượng nào miễn là lực lượng ấy
sẵn sang phục vụ tổ quốc, không phản bội lại dân chúng là dược. HCM đã đưa ra cái mẫu

số chung về đoàn kết dân tộc là: ý thức về cộng đồng dân tộc và ý thức về nên độc lập tự do
của dân tộc.
b. Điều kiện để thực hiện đại đoàn kết dân tộc
- Phải kế thừa truyền thống yêu nước, đoàn kết, nhân nghĩa của dân tộc.
- Phải có tấm long khoan dung độ lượng.
- Phải hiểu dân, tin dân, dựa vào dân tránh quan điểm giai cấp tôn giáo, tín ngưỡng, xóa bỏ
mọi thành kiến, phải thật thà đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi.
4. Hình thức của khối đại đoàn kết dân tộc
a. Hình thức của khối đại đoàn kết dân tộc là mặt trận dân tộc thống nhất
- Trong tư tưởng HCM, đại đoàn kết dân tộc không thể chỉ dừng lại ở quan niệm, ở những
lời keu gọi, những lời hiệu triệu mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, phải trở
thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân tộc. Nó phải biến thành sức mạnh vật
chất, trở thành lực lượng có tổ chứuc. Tổ chứuc đó chính là mặt trận dân tộc thống nhất.
- Mặt trận dân tộc thống nhất là một tổ chức chính trị rộng rãi, tập hợp đông đủ các giai
cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và các cá nhân yêu nước ở trong và
ngoài nước phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập thống nhất của tổ quốc, là tự do, hạnh
phúc của nhân dân. Mặt trận phải có cương lĩnh và điều lệ phù hợp với yêu cầu của nhiệm
vụ của từng thời kì, từng giai đoạn cách mạng,
b. Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của mặt trận dân tộc thống nhất
- Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng khối lien minh công – nông
– trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng,


- Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc
và quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
- Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
- Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đoàn kết chặt chẽ lâu dài, đoàn kết thật sự, chân thành
thân ái, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
B. TƯ TƯỞNG HCM VỀ ĐOÀN KẾT QUỐC TẾ
1. Sự cần thiết xây dựng đoàn kết quốc tế

a) Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, tạo
sức mạnh tổng hợp cho cách mạng
+ Tập hợp lực lượng bên ngoài, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của bạn bè quốc
tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của các trào lưu cách mạng thế giới tạo ra sức mạnh
tổng hợp cho cách mạng chiến thắng kẻ thù.
+ Sức mạnh dân tộc là tổng hợp các yếu tố vật chất và tinh thần, song trước hết là chủ nghĩa
yêu nước truyền thống, ý thức tự lực, tự cường của dân tộc.
+ Sức mạnh quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng: Phong trào đấu tranh giải phóng
dân tộc; Phong trào cách mạng của công nhân và nhân dân lao động các nước chính quốc và
TBCN nói chung; Phong trào XHCN; Phong trào vì Hòa bình, ĐLDT, Dân chủ và tiến bộ xã
hội; Phong trào cách mạng của nhân dân Đông Dương...
Sức mạnh thời đại mà Hồ Chí Minh nhận thức còn là sức mạnh của tiến bộ khoa học công
nghệ, làm thay đổi có tính cách mạng về các lĩnh vực như: năng lượng, vật liệu, công nghệ sinh
học, giao thông vận tải…, loài người đã tiến một bước dài trong việc chinh phục thiên nhiên.
“50 năm qua thế giới đã có những chuyển biến lớn... đặc biệt là sức mạnh nguyên tử, nhiều hơn
thế kỷ trước cộng lại”.
+ Theo Hồ Chí Minh thực hiện đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế. Đoàn
kết dân tộc phải là cơ sở cho thực hiện đoàn kết quốc tế. Đoàn kết quốc tế là nhân tố thường
xuyên và hết sức quan trọng giúp cho cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi.
b) Thực hiện đoàn kết quốc tế nhằm góp phần cùng nhân dân thế giới thực hiện thắng
lợi các mục tiêu cách mạng
+ Kết hợp nhuần nhuyễn các vấn đề DT-GC, ĐLDT-CNXH, CNYNTT-CNQTVSTS không
chỉ vì sự thắng lợi của cách mạng mỗi nước mà còn vì sự nghiệp chung của nhân loại: Hòa bình,
ĐLDT, Dân chủ, Tiến bộ xã hội, và XHCN.
+ Muốn đoàn kết quốc tế trong cuộc đấu tranh vì mục tiêu chung, các đảng cộng sản phải
kiên trì chống lại mọi khuynh hướng cơ hội, vị kỷ dân tộc, chủ nghĩa sôvanh...
+ Thắng lợi của cách mạng Việt Nam là thắng lợi của tư tưởng Hồ Chí Minh: Kết hợp
nhuần nhuyễn các vấn đề dân tộc-giai cấp, ĐLDT-CNXH, CNYNTT-CNQTVSTS mà cốt lõi là
Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội.
Công lao to lớn đầu tiên của Người là đã đặt phong trào cách mạng Việt Nam vào hàng

ngũ, vào quỹ đạo của cách mạng thế giới, đưa dân tộc Việt Nam đi từ chủ nghĩa yêu nước đến
với chủ nghĩa Mác-Lênin.
2. Nội dung và hình thức đoàn kết quốc tế
a) Các lực lượng cần đoàn kết
- Phong trào cộng sản, phong trào công nhân thế giới là lực lượng nòng cốt của đoàn kết
quốc tế.


+ Tiếp nhận chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã tìm thấy phương hướng cho cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc, đồng thời Người cũng tìm thấy một lực lượng ủng hộ mạnh mẽ công
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa, đảm bảo cho sự nghiệp cách mạng của
nước nhà đi đến thắng lợi vẻ vang. Đó là phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; là Liên Xô
và sau này là các nước XHCN; là Quốc tế III và sau này là Cục thông tin quốc tế.
+ Thực tế, Người nhận thấy, chủ nghĩa đế quốc là một lực lượng phản động quốc tế, là kẻ
thù chung của nhân dân lao động toàn thế giới. Vì vậy, chỉ có sự đoàn kết, nhất trí, đồng tình và
ủng hộ lẫn nhau của lao động thế giới theo tinh thần “bốn phương vô sản đều là anh em” mới có
thể thắng được những âm mưu thâm độc của chủ nghĩa thực dân.
+ Chủ trương đoàn kết giai cấp vô sản các nước, đoàn kết giữa các đảng Cộng sản trong tư
tưởng Hồ Chí Minh còn xuất phát từ tính tất yếu về vai trò của giai cấp vô sản trong thời đại
ngày nay, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới.
+ Thắng lợi của hai cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc ta không tách rời sự đồng tình,
ủng hộ của Liên Xô và các nước XHCN, của các Đảng Cộng sản và công nhân quốc tế.
- Đoàn kết với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của các nước thuộc địa.
+ Ra đi tìm đường cứu nước từ một nước nô lệ nên trái tim Người cùng nhịp đập với nổi thống
khổ của các dân tộc khác cùng hoàn cảnh với dân tộc mình.
+ Từ sớm, Hồ Chí Minh đã phát hiện ra âm mưu chia rẽ dân tộc để dễ bề cai trị của các
nước đế quốc, tạo sự thù ghét, đối kháng dân tộc, chủng tộc,… nhằm làm suy yếu sức mạnh của
các phong trào giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa.
Người đề nghị Quốc tế cộng sản phải làm sao cho các dân tộc hiểu biết lẫn nhau, xích lại
gần nhau (“làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau

hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một liên minh phương Đông tương lai, khố liên minh này sẽ
là một trong những cái cánh của cách mạng vô sản”[1]) và bằng mọi cách phải làm cho “đội tiên
phong của lao động thuộc địa tiếp xúc mật thiết với giai cấp vô sản phương Tây để dọn đường
cho một sự hợp tác thật sự sau này”[2].
- Đoàn kết với các lực lượng tiến bộ, những người yêu chuộng hoà bình, dân chủ, tự do và
công lý
+ Xuất phát từ mục tiêu chung của nhân loại tiến bộ là đấu tranh cho hoà bình, độc lập,
thống nhất và tiến bộ, Hồ Chí Minh quan tâm đến việc khơi dậy lương tri của loài người, tạo nên
tiếng nói ủng hộ mạnh mẽ từ các tổ chức quần chúng, các nhân sĩ trí thức và từng người cụ thể
trên hành tinh đối với cuộc cách mạng chính nghĩa của nhân dân ta.
+ Quan điểm ngoại giao này cũng thể hiện chủ nghĩa nhân văn trong tư tưởng Hồ Chí
Minh. Người đã tìm thấy bạn ngay trong các nước đi xâm lược. Bởi vậy, mà Người chủ trương
chống thực dân, chống bọn xâm lược chứ không phải chống người Pháp, người Mỹ nói chung.
b) Hình thức đoàn kết quốc tế
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề đoàn kết quốc tế đối với cách mạng dân tộc,
ngay từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã quan tâm đến việc thành lập các mặt trận. Đó là:
- Chủ trương thành lập một liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung giữa 3 nước Đông
Dương.
Năm 1941, để khơi dậy sức mạnh và quyền tự quyết của mỗi dân tộc, Người quyết định
thành lập mặt trận riêng biệt, Mặt trận độc lập đồng minh, cho từng nước Việt Nam, Lào, Cao
Miên, tiến tới thành lập Đông Dương độc lập đồng minh.


Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Hồ Chí Minh đã chỉ đạo việc hình
thànhMặt trận đoàn kết Việt - Miên - Lào, phối hợp, giúp đỡ nhau cùng chiến đấu, cùng thắng
lợi.
- Thiết lập mặt trận trong phe dân chủ
+ Người chăm lo củng cố mối quan hệ đoàn kết hữu nghị, hợp tác nhiều mặt theo tinh thần
“vừa là đồng chí, vừa là anh em” với Trung Quốc, nước láng giềng có quan hệ lịch sử - văn hoá
lâu đời với ViệtNam.

+ Thực hiện đoàn kết với các dân tộc châu Á và châu Phi đang đấu tranh giành độc lập
Từ những năm 1920,cùng với việc sáng lập Hội liên hiệp thuộc địa tại Pháp, Hồ Chí Minh
đã tham gia sáng lập Hội liên hiệp các dân tộc bị áp bức tại Trung Quốc. Đây là hình thức sơ
khai của mặt trận thống nhất các dân tộc bị áp bức theo xu hướng vô sản, lần đầu tiên xuất hiện
trong lịch sử phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Với sự kiện này, Người đã góp phần đặt
cơ sở cho sự ra đời của Mặt trận nhân dân Á - Phi đoàn kết với Việt Nam.
- Thiết lập mặt trận đối với các lực lượng yêu chuộng hoà bình, công lý
Trong những năm đấu tranh, Hồ Chí Minh đã tiến hành những hoạt động ngoại giao không
mệt mỏi nhằm xây dựng các quan hệ với Mặt trận dân chủ và các lực lượng đồng minh chống
phát xít, đoàn kết với nhân dân tiến bộ ở các nước trên thế giới, kể cả ở Mỹ và Pháp, hình
thành Mặt trận nhân dân thế giới đoàn kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược.
Như vậy, tư tưởng đại đoàn kết vì thắng lợi của cách mạng của Hồ Chí Minh đã đặt cơ sở
cho việc hình thành bốn tầng mặt trận: Mặt trận đại đoàn kết dân tộc, Mặt trận đoàn kết Việt Miên - Lào, Mặt trận nhân dân Á - Phi đoàn kết với Việt Nam, Mặt trận nhân dân thế giới đoàn
kết với Việt Nam chống đế quốc xâm lược. Đây thực sự là sự phát triển rực rỡ và thắng lợi to lớn
của tư tưởng đại đoàn kết của Hồ Chí Minh.
3. Nguyên tắc xây dựng khối đại đoàn kết quốc tế
a) Đoàn kết trên cơ sở thống nhất mục tiêu và lợi ích, có lý có tình
- Đối với phong trào cộng sản công nhân quốc tế, dứt khoát giương cao ngọn cờ độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dựa trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa quốc
tế vô sản, có lý, có tình.
+ Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, để thực hiện đoàn kết thống nhất trong phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế thì đoàn kết giữa các Đảng là “điều kiện quan trọng để đảm bảo cho phong
trào cộng sản và công nhân toàn thắng trong cuộc đấu tranh vĩ đại cho tương lai tươi sáng của
toàn thể loài người”[3]. Thực hiện sự đoàn kết đó cũng phải đứng vững trên lập trường của giai
cấp công nhân, quán triệt sâu sắc những nguyên tắc của chủ nghĩa quốc tế vô sản.
+ “Có lý” tức là phải tuân thủ những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, phải xuất
phát từ lợi ích chung của cách mạng thế giới; đồng thời phải biết vận dụng linh hoạt, sáng tạo,
có hiệu quả vào hoạt động thực tiễn của mỗi nước, mỗi đảng.
+ “Có tình” là sự cảm thông, tôn trọng lẫn nhau trên tinh thần, tình cảm của những người
cùng chung lý tưởng, chung mục tiêu đấu tranh; phải khắc phục tư tưởng “sô vanh”, nước lớn,

áp đặt, hoặc dung các giải pháp về kinh tế, chính trị, … để gây sức ép với nhau. Có tình còn đòi
hỏi trong mọi vấn đề phải chờ đợi nhau để cùng nhận thức, cùng hành động vì lợi ích chung.
Tôn trọng lợi ích của mỗi dân tộc, mỗi đảng nếu lợi ích đó không phương hại đến lợi ích chung,
lợi ích của đảng khác, dân tộc khác.
+ “Có lý, có tình” vừa thể hiện nguyên tắc, vừa là một nội dung của chủ nghĩa nhân văn Hồ
Chí Minh - chủ nghĩa nhân văn cộng sản. Nó có tác dụng to lớn trong việc củng cố khối đoàn
kết quốc tế của giai cấp công nhân và tình đoàn kết trong nhân dân lao động.


- Đối với các dân tộc trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ độc lập, tự do và
quyền bình đẳng giữa các dân tộc.
+ Độc lập tự do cho mỗi dân tộc theo Hồ Chí Minh là quyền trời cho, là “lẽ phải không ai
chối cải được”. Suốt cuộc đời mình, Người không chỉ đấu tranh cho độc lập, tự do của dân tộc
mình mà còn cho các dân tộc khác trên thế giới.
+ Trong quan hệ với các nước láng giềng cũng như các nước khác, Hồ Chí Minh thực hiện
nhất quán quan điểm có tính nguyên tắc: Dân tộc Việt Nam tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn
vẹn lãnh thổ, quyền tự quyết của tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, đồng thời mong muốn
các quốc gia, dân tộc trên thế giới quan hệ hợp tác, hữu nghị với Việt Nam trên cơ sở những
nguyên tắc đó. Người cũng khẳng định nhất quán chính sách ngoại giao của Việt Nam là: “làm
bạn với tất cả các nước dân chủ, không gây thù oán với một ai”[4].
Nêu cao tư tưởng độc lập, tự do và quyền bình đẳng giữa các dân tộc, Hồ Chí Minh trở
thành người khởi xướng và là hiện thân của những khát vọng của các dân tộc trong việc khẳng
định bản sắc dân tộc mình, đồng thời thúc đẩy cho sự hiểu biết lẫn nhau, thực hiện đoàn kết,
hữu nghị giữa các dân tộc trên thế giới với Việt Nam vì thắng lợi của cách mạng mỗi nước.
- Đối với các lực lượng tiến bộ trên thế giới, Hồ Chí Minh giương cao ngọn cờ hoà bình
trong công lý.
+ Giương cao ngọn cờ hoà bình và đấu tranh bảo vệ hoà bình, chống chiến tranh xâm lược
là tư tưởng bất di bất dịch của Hồ Chí Minh, nhưng đó phải là “một nền hoà bình chân chính
xây trên công bình và lý tưởng dân chủ”[5]. Người khẳng định: “Chính sách ngoại giao của
Chính phủ Việt Nam thì chỉ có một điều tức là thân thiện với tất cả các nước dân chủ trên thế

giới để giữ gìn hoà bình”[6], “thái độ của Việt Nam đối với những nước Á châu là thái độ anh
em, đối với ngũ cường là thái độ bạn bè”[7].
+ Chính quan điểm này của Hồ Chí Minh và lòng khao khát hoà bình của nhân dân
Việt Nam đã làm rung động trái tim của nhân dân tiến bộ trên thế giới. Bởi vậy, trong hai cuộc
kháng chiến, dân tộc ta đã nhận được sự đồng tình, ủng hộ to lớn của rất nhiều lực lượng yêu
chuộng hoà bình, nhờ vậy chúng ta đã làm nên những chiến thắng vẻ vang, lừng lẫy năm châu,
chấn động địa cầu.
Đánh giá vai trò và cống hiến của Hồ Chí Minh trong công tác tập hợp lực lượng cách
mạng xây dựng khối đại đoàn kết, Rômét Chanđra, nguyên Chủ tịch hoà bình thế giới cho rằng:
“Bất cứ nơi nào chiến đấu cho độc lập, tự do, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ Chí Minh
bay cao. Bất cứ ở đâu chiến đấu cho hoà bình và công lý, ở đó có Hồ Chí Minh và ngọn cờ Hồ
Chí Minh bay cao. Bất cứ ở đâu, nhân dân chiến đấu cho một thế giới mới, chống lại đói nghèo,
ở đó có ngọn cờ Hồ Chí Minh bay cao” (Rômét Chanđra, Hồ Chí Minh trong trái tim nhân loại,
báo Nhân Dân, ngày 21/5/1980).
b) Đoàn kết trên cơ sở độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường
- Nội lực luôn là nhân tố quyết định hàng đầu, còn nguồn lực ngoại sinh chỉ có thể phát huy
tác dụng thông qua nguồn lực nội sinh. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn nêu cao tinh thần “tự
lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”, “muốn người khác giúp mình thì trước hết tự mình
phải giúp lấy mình đã”. Người còn chỉ rõ “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ
dân tộc khác giúp đỡ thì dân tộc đó không xứng đáng được độc lập”[8].
Trong quan hệ quốc tế, Người nhấn mạnh: phải có thực lực, thực lực là cái chiêng, ngoại
giao là cái tiếng, chiêng có to tiếng mới lớn…
- Vì vậy, muốn tranh thủ được sự ủng hộ quốc tế, Đảng phải có đường lối độc lập, tự chủ và
đúng đắn.


- Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, chính nhờ thực hiện chính sách ngoại giao
theo tư tưởng Hồ Chí Minh này mà chúng ta đã nhận được nhiều sự ủng hộ quý báu của rất
nhiều nước và tổ chức trên thế giới.
KẾT LUẬN

1. Sáng tạo của Hồ Chí Minh trong tư tưởng về đại đoàn kết
- Đại đoàn kết dân tộc là một chiến lược cách mạng được Hồ Chí Minh đề ra từ rất sớm, trở
thành tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam, là cội nguồn sức mạnh làm
nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, một đóng góp quan trọng vào kho tàng kinh nghiệm
cách mạng thế giới.
- Nhận thức của Hồ Chí Minh về truyền thống đoàn kết của dân tộc và quan điểm về tập
hợp lực lượng của chủ nghĩa Mác-Lênin.
+ Truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam xuất hiện cùng quá trình dựng nước và giữ
nước. Đó là vốn quý của dân tộc ta chiến thắng hoạ xâm lăng và âm mưu đồng hoá của kẻ thù.
Nhưng nó chỉ là đoàn kết một cách tự phát, thiếu lý luận khoa học, cách mạng chỉ đường.
+ Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin do những đặc điểm của thời đại mình đã
chưa đánh giá đầy đủ vấn đề dân tộc và vấn đề đoàn kết dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống
nhất. Khẩu hiệu của Mác là: “Vô sản tất các nước đoàn kết lại”, Lênin phát triển trong điều kiện
mới thành: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.
- Hồ Chí Minh đã nâng truyền thống đoàn kết của dân tộc lên tầm cao mới: lấy lý luận
Mác-Lênin dẫn đường dựa trên điều kiện thực tế của Việt Nam
+ Mở rộng khối đại đoàn kết với biên độ lớn.
+ Hiện thực hoá qua việc thành lập các mặt trận qua mỗi thời kỳ để tập hợp lực lượng cách
mạng.
- Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã và đang chứng minh sức sống kỳ diệu của tư tưởng đại
đoàn kết Hồ Chí Minh. Trung thành và kiên định đi theo ngọn cờ đại đoàn kết của Hồ Chí Minh,
nghiên cứu để kế thừa, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng này của Người là một trong
những nhân tố quan trọng giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, hoàn thành nhiệm
vụ, góp phần nước Việt Nam độc lập, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh.
2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết trong giai đoạn hiện nay.
- Trong công cuộc đổi mới đất nước, đại đoàn kết phải được củng cố và phát triển nhằm rửa
được cái nhục đói nghèo và lạc hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới; khơi dậy tinh
thần tự hào, tự tôn dân tộc, quyết tâm chấn hưng đất nước; phát huy tính năng động của mỗi
người dân, của cả cộng đồng, khắc phục những mặt trái của kinh tế thị trường, giữ vững và phát

huy nền văn hoá đậm đà bản sức dân tộc.
- Xây dựng Đảng cầm quyền thật sự trong sạch, vững mạnh; xây dựng một chế độ dân chủ,
một Nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân; một hệ thống chính trị có hiệu quả và hiệu lực
thực tế.
- Chủ động xác định rõ các bước hội nhập quốc tế, củng cố khối đoàn kết với mọi lực lượng
tiến bộ trên thế giới vì mục tiêu hoà bình, độc lập, dân chủ và phát triển.
3. Ý nghĩa của việc học tập
+ Thấy rõ vai trò, sức mạnh to lớn của đại đoàn kết; tin tưởng vào tiềm năng cách mạng của
quần chúng nhân dân.
+ Đóng góp sức mình vào xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế;
thật sự đoàn kết trong tập thể nhằm tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.


Câu 6: Tư tưởng HCM về Đảng CSVN
A. Về sự ra đời của Đảng
Theo quan điểm Lê-nin, Đảng CS là sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác và phong trào Công
nhân. Trong đó, Chủ nghĩa Mác đóng vai trò cơ sở lý luận vạch ra phương hướng đúng đắn
cho phong trào CN, giúp cho cuộc đấu tranh giai cấp CN đạt đc mục tiêu lật đổ ách thống
trị của giai cấp vô sản.
Ngược lại, phong trào CN đóng vai trò là cơ sở thực tiễn kiểm nghiệm tính đúng đắn của
CN Mác. Đó là quan điểm của Lê-nin.
Song, theo quan điểm của HCM, Đảng CSVN lại là sự kết hợp giữa Chủ nghĩa Mác Lê-nin,
phong trào CN và phong trào yêu nước.
Thứ nhất, HCM đánh giá cao vai trò của chủ nghĩa Mác LN đối với CM Việt Nam. Nhờ có
ánh sáng của CN Mác LN, CM Việt Nam đã thoát khỏi tình trạng khủng hoảng về đường
lối. Từng bước định hình con đường đấu tranh để giành lấy thành công. Do đó, CN Mác
Lê-nin đóng vai trò là cơ sở lý luận, nền tảng tư tưởng cho sự ra đời của Đảng.
Thứ hai, khi đánh giá về vai trò phong trào chủ nghĩa VN, HCM khẳng định: Giai cấp công
nhân tuy nhỏ bé về số lượng nhưng hội đủ 4 đặc điểm của giai cấp công nhân thế giới. Đó
là:

Một là, Mác khẳng định: Giai cấp công nhân bị bóc lột nặng nề nhất nên hẳn nhiên có tinh
thần CM triệt để nhất.
Hai là, giai cấp CN tiếp cận trực tiếp thành tựu KH-KT nên là giai cấp tiên tiến nhất trong
sản xuất.
Ba là, người công nhân có ý thức tổ chức cao, kỷ luật cao nhất.
Bốn là, giai cấp công nhân từ các quốc gia khác nhau có tính liên kết quốc tế. Bởi lẽ sự ra
đời tổ chức đa quốc gia và thị trường độc quyền cạnh tranh.
Ngoài ra còn có một số điểm riêng, bao gồm: thừa hưởng truyền thống yêu nước dân tộc,
nguồn gốc xuất thân từ giai cấp nông dân và ra đời trc giai cấp tư sản VN.
Như vậy, xét tổng quan tình hình, giai cấp CN rõ ràng có lợi cho phong trào CM. Phong
trào CN đóng vai trò là cơ sở thực tiễn, kiểm nghiệm tính đúng đắn của Chủ Nghĩa Mác
LN.
Thứ ba, trong xh Việt Nam, ngoài phong trào công nhân, HCM nhận thấy sự sôi nổi quyết
liệt và rộng khắp của phong trào yêu nước và suy cho cùng, phong trào CN là một biểu hiện
cụ thể của phong trào yêu nước. Do đó HCM đã thêm phong trào yêu nước vào thành cơ sở
thực tiễn thứ hai cho sự ra đời thực tiễn của Đảng với những lí do sau:
Một là, phong trào yêu nước có vị trí, vai trò cực kỳ to lớn trong quá trình phát triển của dt
VN. Nói rõ ra, dân tộc ta chiến đấu ngoan cường bất khuất, giành đc độc lập năm 938 với
chiến thắng trên sông Bạch Đằng của ng anh hùng Ngô Quyền, sau đó là những cuộc kháng
chiến chống giặc ngoại xâm và đã giữ vững độc lập trường kỳ đến năm 1858.


Hai là, phong trào CN kết hợp đc với phong trào yêu nước bởi vì hai phong trào đó đều có
mục tiêu chung, lớn hơn là giành độc lập cho đất nước.
Ba là, phong trào nông dân kết hợp với phong trào công nhân. Do ở VN, điều kiện lịch sử
chi phối, không có công nhân nhiều mà họ xuất thân trực tiếp từ ng nông dân nghèo.
Bốn là, phong trào yêu nc của trí thức VN là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự kết hợp các
yếu tố cho sự ra đời của Đảng CS VN. Trong lịch sử VN, trí thức đã thể hiện rõ nét vai trò
của họ, tuy số lượng không nhiều nhưng lại là những “ngòi nổ” cho các phong trào yêu nc.
Họ là lớp người dám nghĩ, dám làm và dám xông pha. Chúng ta có thể kể tên một số gương

mặt tiêu biểu như cụ Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh hay HCM (Người không những tìm
thấy con đường cứu nc mà còn tập hợp những tri thức khác và đào tạo, chèo lái họ. Một số
học trò nổi tiếng của Người bao gồm Nguyễn Văn Cừ, Trường Chinh và Võ Nguyên
Giáp…)
B. Những luận điểm chủ yếu của HCM về ĐCSVN
1. ĐCS là nhân tố quyết định hàng đầu đưa CMVN đến thắng lợi
- Để đưa CMVN đi đến thắng lợi cần phải có nhiều nhân tố, yếu tố như phải có đường lối cách mạng
đúng, phải động viên được lực lượng của toàn dân thực thi đường lối… Nhưng muốn xây dựng được
đường lối cách mạng đúng, muốn vận động và tổ chức được nhân dân thực hiện đường lối đó thì phải
có ĐCS lãnh đạo. HCM viết “ Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức
dân chúng, ngoài thì lien lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững cách
mệnh mới thành công cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.”
- Theo HCM, sở dĩ ĐCSVN có thể dảm đương được vai trò lãnh đạo cách mạng Việt Nam vì Đảng
“là đội tiền phong, là bộ tham mưa của giai cấp vô sản, của nhân dân lao động và của cả dân tộc”.
“Bao giờ Đảng cũng tận tâm, tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân”, “trung thành tuyệt đối với lợi
ích giai cấp, của nhân dân, của dân tộc”, “ ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng
ta không có lợi ích gì khác”.
- Lợi ích của nhân dân, của dân tộc mà Đảng ta theo đuổi là độc lập cho dân tộc, tự do, ấm no, hạnh
phúc cho nhân dân, xây dựng đất nước giàu mạnh đi lên chủ nghĩa xã hội, sống hòa bình hữu nghị
với tất cả các dân tộc khác. Người viết “ Hễ còn một người VN bị bóc lột, bị nghèo nàn, thì Đảng vẫn
đau thương, cho đó là mình chưa làm tròn nhiệm vụ… Đảng ta vĩ đại vì nó bao trùm cả nước, đồng
thời vì nó gần gũi tận trong long của mỗi đồng bào.”
2. ĐCSVN – Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc VN
- Xuất phát từ quy luật ra đời đặc thù của ĐCS, từ mục tiêu phấn đấu của Đảng, của CM, cũng như từ
thực tiễn lãnh đạo CM của Đảng, HCM đa khẳng định ĐCSVN là Đảng của giai cấp công nhân, của
nhân dân lao động và của cả dân tộc VN.
- Khi nói Đảng ta là Đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc VN
không có nghĩa là HCM đã xem nhẹ bản chất giai cấp của Đảng. Người vẫn luôn khẳng định Đảng ta



mang bản chất của giai cấp công nhân, là “đội tiền phong của vô sản giai cấp”. Theo Người, cái gì
quyết định bản chất giai cấp công nhân của Đảng không phải là số lượng đảng viên xuất thân từ công
nhân nhiều hay ít mà cơ bản là nền tảng tư tưởng của Đảng là chủ nghĩa Mac-Lênin, ở mục tiêu,
đường lối của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, ở việc Đảng tuân thủ những
nguyên tắc xây dựng Đảng kiểu mới của giai cấp công nhân mà lãnh tụ Lênin đã đưa ra.
Câu 7: Tư Tưởng HCM về nhà nước pháp quyền
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền là sự kế thừa truyền thống văn hóa và những kinh
nghiệm xây dựng, quản lý nhà nước của ông cha ta, là kết quả của sự trải nghiệm, nghiên cứu, khảo
sát nhiều cuộc cách mạng, nhiều nhà nước điển hình như Mỹ, Pháp, Liên Xô..., đồng thời, sự thấm
nhuần và vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về nhà nước kiểu mới vào điều kiện
nước ta. Mặc dù Hồ Chí Minh không dùng khái niệm nhà nước pháp quyền, nhưng tư tưởng về nhà
nước pháp quyền đã được thể hiện không chỉ trong các bài viết, bài phát biểu của Người về tổ chức
và hoạt động của bộ máy nhà nước, mà còn trong toàn bộ cuộc đời hoạt động cách mạng vẻ vang của
Hồ Chí Minh với tư cách là người sáng lập Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, người trực tiếp chỉ
đạo việc xây dựng và hoàn thiện bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật của nước Việt Nam mới,
phấn đấu để Nhà nước ta thực sự trở thành Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền được thể hiện trên những quan điểm cơ bản sau:
Một là, nhà nước pháp quyền phải là nhà nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhân
dân là chủ thể quyền lực nhà nước. Nhà nước là công cụ phục vụ nhân dân Hồ Chí Minh xác định
bản chất dân chủ của Nhà nước ta: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao
nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể
từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân” (1).
Điều 1 Hiến pháp 1946 do Người làm Trưởng ban soạn thảo đã khẳng định: “Nước Việt Nam là một
nước dân chủ cộng hòa, tất cả quyền binh trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam. Không
phân biệt nòi giống, gái trai, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo” (2). Bộ máy nhà nước là do nhân dân lựa
chọn, bầu ra và ủy quyền nhằm thực hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân. Hồ Chí Minh chỉ rõ:
“Chúng ta hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của
dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới
quyền thống trị của Pháp, Nhật”(3). Người dân được hưởng mọi quyền dân chủ, có quyền làm bất cứ

việc gì mà pháp luật không cấm, đồng thời có nghĩa vụ tuân theo pháp luật.
Điều thứ 32 Hiến pháp 1946 quy định: “Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân
dân phúc quyết”. Thực chất đây là cách “trưng cầu ý dân”, một hình thức dân chủ trực tiếp của nhà
nước pháp quyền hiện đại đã được Hồ Chí Minh nhận thức và đề ra khá sớm ở nước ta.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước của dân, do dân không chỉ ở chỗ nhà nước đó do dân
lập ra thông qua bầu cử dân chủ, phải xin ý kiến nhân dân những công việc hệ trọng, mà còn phải
chịu sự kiểm tra, giám sát, định đoạt của nhân dân. Nhân dân có quyền phê bình, xây dựng, giúp đỡ
Nhà nước. Quyết định gì mà dân chúng cho là không hợp thì cũng phải sửa chữa. Người viết: “Chế
độ ta là chế độ dân chủ. Nhân dân là chủ. Chính phủ là đày tớ của nhân dân. Tất cả quyền lực trong
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân. Nhân dân sử dụng quyền lực của mình
thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
Hồ Chí Minh quan niệm trong nhà nước pháp quyền do dân và vì dân, nhân dân là nguồn gốc sức
mạnh, là nguồn trí tuệ, sáng kiến vô tận giúp Nhà nước hoàn thành chức năng, nhiệm vụ của mình.
Người viết: “Kinh nghiệm trong nước và các nước chứng tỏ cho chúng ta biết: có lực lượng dân


chúng, việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có thì việc gì làm cũng không xong.
Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài
giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”, “Không có lực lượng nhân dân, thì việc nhỏ mấy, dễ
mấy cũng làm không xong...”
Vì vậy, Nhà nước phải biết tôn trọng, lắng nghe và học hỏi dân, gần dân, thấu hiểu tâm tư, nguyện
vọng, ý chí của dân, tìm cách khơi nguồn, bồi dưỡng và nâng cao sức dân. Mặt khác, Nhà nước được
thành lập không phải là để làm thay nhân dân, mà là để phục vụ nhân dân, thực hiện vai trò người
cầm lái, người tổ chức để nhân dân bằng trí tuệ và sức mạnh vốn có giải quyết các vấn đề của chính
mình. Nói về mối quan hệ giữa Nhà nước và nhân dân, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “dân như nước mình
như cá”; phải “đem tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân... Chính phủ chỉ giúp kế hoạch, cổ
động”. “Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ thì
nhân dân không ai dẫn đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối”(11).
Hai là, nhà nước pháp quyền phải là một nhà nước tôn trọng pháp luật, được tổ chức và hoạt động
trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Qua thực tiễn tiếp xúc với nền văn minh Âu - Mỹ và tham

khảo kinh nghiệm tổ chức, hoạt động của Nhà nước trong quản lý xã hội, Hồ Chí Minh đã sớm nhận
thức được vai trò quan trọng của pháp luật trong quản lý, điều hành xã hội. Năm 1919, trong bản Yêu
sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Véc-xây, Hồ Chí Minh đã đòi thực dân Pháp phải cải
cách nền pháp lý ở Đông Dương, phải bãi bỏ chế độ cai trị bằng các sắc lệnh và thay thế bằng các
đạo luật. Bản Yêu sách đã được Hồ Chí Minh chuyển thành “Việt Nam yêu cầu ca”, trong đó đặt vấn
đề phải có Hiến pháp ban hành, nêu cao vai trò quản lý nhà nước bằng luật pháp theo tinh thần “trăm
điều phải có thần linh pháp quyền”, phản ánh tư tưởng cốt lõi của Người về nhà nước dân chủ mới nhà nước tôn trọng pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật.
Theo tinh thần “thượng tôn luật pháp”, Nhà nước phải được tổ chức và hoạt động một cách hợp
Hiến và hợp pháp, chỉ một ngày sau khi giành được độc lập, đọc Tuyên ngôn khai sinh ra Nhà nước
Việt Nam dân chủ cộng hòa, Hồ Chí Minh đề ra với Chính phủ một trong sáu nhiệm vụ cấp bách là
“chúng ta phải có một Hiến pháp dân chủ. Tôi đề nghị Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc
Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu”(12). Và chỉ trong một thời gian ngắn Hồ Chí Minh đã
tổ chức thành công cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội, khẩn trương xây dựng và thông qua Hiến
pháp 1946, đặt nền móng cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Trên cương vị là Chủ
tịch nước (từ năm 1945 đến năm 1969), Hồ Chí Minh vừa là nhà lập pháp, đồng thời là nhà hành
pháp có công lớn nhất trong sự nghiệp lập hiến và lập pháp ở nước ta, đã hai lần đứng đầu Ủy ban
soạn thảo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, đã ký công bố 16 đạo luật, 613 Sắc lệnh và nhiều văn
bản dưới luật, trong đó có 243 Sắc lệnh quy định về tổ chức nhà nước, qua đó hình thành một thể chế
bộ máy nhà nước có nhiều nhân tố cơ bản của một nhà nước pháp quyền.
Để tiến tới một nhà nước pháp quyền mạnh mẽ, có hiệu lực, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến việc
xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước có trình độ văn hóa, am hiểu pháp luật, biết quản lý
nhà nước, thành thạo nghiệp vụ hành chính và nhất là phải có đạo đức cần, kiệm, liêm, chính, chí
công vô tư, tận tâm, tận lực suốt đời phục vụ nhân dân. Người đã ký Sắc lệnh số 197 thành lập Khoa
Pháp lý học tại Trường Đại học Việt Nam, ký Sắc lệnh số 76/SL ngày 20-5-1950 ban hành Quy chế
công chức, chú trọng chế độ thi tuyển để bổ nhiệm vào các ngạch, bậc hành chính, khởi xướng việc
xây dựng hệ tiêu chuẩn cho đội ngũ cán bộ, công chức theo hướng chính quy, hiện đại, dân chủ, công
bằng, công khai. Không chỉ quan tâm đến việc xây dựng pháp luật và đội ngũ cán bộ công chức nhà
nước ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ, Hồ Chí Minh còn đặc biệt quan tâm đến việc đưa pháp luật vào
đời sống, tạo cơ chế để pháp luật được thi hành nghiêm minh. Người rất coi trọng việc giáo dục pháp



luật cho nhân dân, góp phần nâng cao dân trí, bồi dưỡng ý thức làm chủ, phát triển văn hóa chính trị
và tính tích cực công dân, khuyến khích nhân dân tham gia vào các công việc của Nhà nước.
Đối với các cán bộ và cơ quan nhà nước, Người đòi hỏi không những phải làm tốt công tác tuyên
truyền, phổ biến rộng rãi và kỹ lưỡng Hiến pháp và pháp luật trong nhân dân, mà còn phải đặc biệt
“gương mẫu trong việc thi hành Hiến pháp và các luật lệ”(16).
Ba là, nhà nước pháp quyền kiểu mới, của dân, do dân, vì dân phải là Nhà nước trong sạch, vững
mạnh, hiệu quả. Với tư cách là người đứng đầu Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn trăn trở tìm
cách làm thế nào để Nhà nước ta trở thành một nhà nước pháp quyền kiểu mới, trong sạch, vững
mạnh, hiệu quả, khắc phục được những căn bệnh cố hữu của các nhà nước kiểu cũ. Trong rất nhiều
giải pháp đã thực hiện, có hai nội dung cơ bản được Người đặc biệt quan tâm, đó là:
- Tăng cường pháp luật đi đôi với đẩy mạnh giáo dục đạo đức Trong quan niệm của Hồ Chí Minh,
để xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu quả phải kết hợp chặt chẽ giữa “đức trị” và
“pháp trị”, kết hợp giữa “xây” và “chống”, không được coi nhẹ mặt nào. Xây là ra sức giáo dục, bồi
dưỡng, nâng cao đạo đức cách mạng cho nhân dân, trước hết là cán bộ, công chức, đảng viên, những
người có chức, có quyền, đi đôi với việc chống chủ nghĩa cá nhân, dùng pháp luật nghiêm trị những
kẻ vi phạm pháp luật và thoái hóa đạo đức, làm hại cho dân, cho nước.
Để làm tròn vai trò là “đày tớ của nhân dân”, các cơ quan nhà nước từ Trung ương đến cơ sở phải
thực sự gần dân, biết lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, làm việc gì cũng phải bàn bạc kỹ
và học hỏi kinh nghiệm của nhân dân, thực sự yêu dân, kính dân, tin cậy và trọng dân, ăn ở công
bằng và thực sự cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Đi đôi với giáo dục đạo đức, Hồ Chí Minh
cũng rất kiên quyết với những hành vi vi phạm pháp luật và trừng trị nghiêm khắc những kẻ phạm
tội, dù người đó ở cương vị nào. Ngày 27-11-1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh ấn định hình
phạt tội đưa và nhận hối lộ. Ngày 26-01-1946, Người ký “Quốc lệnh” khép tội tham ô, trộm cắp của
công vào tội tử hình. Hồ Chủ tịch đã bác đơn xin ân xá giảm án tử hình của nhiều kẻ phạm tội đặc
biệt nghiêm trọng, dù đó là cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước. Trong việc thực thi quyền hạn và
trách nhiệm của mình với cương vị là Chủ tịch nước, Hồ Chí Minh luôn thể hiện là một con người
gương mẫu, sáng suốt, thống nhất hài hòa giữa lý trí và tình cảm, bao dung, nhân ái, nhưng vẫn giữ
nghiêm kỷ cương phép nước. Người không bao che, dung túng cho những hành vi sai lầm, khuyết
điểm, vi phạm pháp luật của bất cứ ai, nhưng đồng thời vẫn dùng sức mạnh, uy tín của mình để cảm

hóa những người có lỗi lầm, kéo họ về phía cách mạng, giáo dục những người mắc khuyết điểm để
họ tránh vi phạm pháp luật.
- Luôn đề phòng và chủ động khắc phục những tiêu cực trong hoạt động của Nhà nước, kiên quyết
chống ba thứ giặc nội xâm là tham ô, lãng phí, quan liêu. Theo Hồ Chí Minh, sức mạnh, hiệu lực,
hiệu quả hoạt động của Nhà nước phụ thuộc vào tính nghiêm minh của việc thi hành pháp luật và sự
trong sạch, gương mẫu về đạo đức của những người cầm quyền. Vì vậy, phải luôn nêu cao cảnh giác
với những biểu hiện tha hóa, biến chất của đội ngũ cán bộ, công chức, giữ cho Nhà nước luôn trong
sạch, vững mạnh. Chỉ một tháng sau khi lập nước, Hồ Chí Minh đã gửi thư cho Ủy ban nhân dân các
kỳ, tỉnh, huyện và làng nêu rõ sáu căn bệnh cần đề phòng là: trái phép, cậy thế, hủ hóa, tư túng, chia
rẽ, kiêu ngạo. Vũ khí để phòng ngừa, khắc phục những sai lầm trên, theo Hồ Chí Minh, chính là đẩy
mạnh cuộc đấu tranh phê bình và tự phê bình, phát huy vai trò gương mẫu, tự giác đề phòng và sửa
chữa sai lầm trong nội bộ tổ chức, đồng thời tăng cường vai trò kiểm tra, giám sát của nhân dân đối
với các cơ quan nhà nước. Ngay từ rất sớm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra ba thứ “giặc nội xâm”,
“giặc trong lòng”, những căn bệnh nguy hiểm tiềm ẩn trong bộ máy nhà nước mà chúng ta phải luôn
đề phòng và kiên quyết chống, nếu không sẽ dẫn đến nguy cơ suy thoái, đổ vỡ không lường hết được.


Người nói: “Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, dù cố ý hay không, cũng là bạn đồng minh của thực
dân, phong kiến... Nó làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ của cán bộ ta. Nó phá hoại
đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính... Tội lỗi ấy cũng nặng như tội Việt gian, mật
thám”(19). Người chỉ ra mối quan hệ khăng khít giữa đánh thù trong và diệt giặc ngoài: “Chống tham
ô, lãng phí và bệnh quan liêu cũng cần kíp như việc đánh giặc trên mặt trận... Nếu chiến sĩ và nhân
dân ta ra sức chống ngoại xâm và quên chống giặc nội xâm, như thế là chưa làm tròn nhiệm vụ của
mình”(20). Đồng thời, Người không quên nhấn mạnh, đây là một cuộc đấu tranh rất gay go, phức tạp,
đòi hỏi phải có quyết tâm cao: “Việc đấu tranh với kẻ địch ở tiền tuyến bằng súng, bằng gươm còn
dễ, nhưng việc đấu tranh với kẻ địch ở trong người, trong nội bộ, trong tinh thần, là một khó khăn,
đau xót... vì vậy, phải có quyết tâm đấu tranh mới được”(21).
Bốn là, Nhà nước ta do đảng Cộng sản lãnh đạo, có sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công
nhân với tính nhân dân và tính dân tộc rộng rãi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Tính chất Nhà nước
là vấn đề cơ bản của Hiến pháp. Đó là vấn đề nội dung giai cấp của chính quyền. Chính quyền về tay

ai và phục vụ quyền lợi của ai? Điều đó quyết định toàn bộ nội dung của Hiến pháp... Nhà nước ta là
Nhà nước dân chủ nhân dân, dựa trên nền tảng liên minh công nông, do giai cấp công nhân lãnh
đạo”(22). Bản chất giai cấp công nhân còn thể hiện ở tính định hướng đưa đất nước quá độ đi lên chủ
nghĩa xã hội “bằng cách phát triển và cải tạo nền kinh tế quốc dân theo chủ nghĩa xã hội, biến nền
kinh tế lạc hậu thành một nền kinh tế xã hội chủ nghĩa với công nghiệp và nông nghiệp hiện đại,
khoa học và kỹ thuật tiên tiến”(23). Nhà nước đó do Đảng lãnh đạo, và Đảng ta trở thành đảng cầm
quyền. Trong Di chúc gửi lại đồng bào, đồng chí, Người căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền.
Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần, kiệm, liêm chính,
chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ
thật trung thành của nhân dân”. Người thường nhắc nhở các tổ chức đảng và đảng viên: Đảng ta là
đảng cầm quyền chứ không phải đảng trị, mọi cán bộ, đảng viên phải biết tôn trọng Nhà nước, gương
mẫu chấp hành Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước.
Mặc dù Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi xa, nhưng những tư tưởng của Người về xây dựng nhà nước
pháp quyền của dân, do dân và vì dân vẫn còn nguyên giá trị, tiếp tục soi sáng và tiếp sức cho quyết
tâm chính trị của Đảng và Nhà nước ta trong tiến trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển toàn diện, bền vững của đất nước trong thời kỳ mới.

Câu 8: Tư tưởng HCM về vai trò đạo đức, phẩm chất đạo đức và những nguyên tắc tu dưỡng
rèn luyện đạo đức CM
A. Về vai trò đạo đức
Trước hết, Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng, từ rất sớm và
xuyên suốt cuộc đời cách mạng của mình. Cuốn sách Đường cách mệnh năm 1927 không phải là
một chuyên luận về vấn đề đạo đức cách mạng, nhưng ở trang đầu cuốn sách. Người đã nêu lên hai
mươi ba điều về tư cách một người cách mạng, giải quyết ba mối quan hệ: Với mình, với người, với
việc. Những thập kỷ bốn mươi, năm mươi, sáu mươi, Người đều có những bài viết ngắn gọn, súc tích
về đạo đức cách mạng. Trong Di chúc, Người nhấn mạnh: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×