Tải bản đầy đủ (.docx) (106 trang)

NÂNG CAO HIỆU QUẢ đầu tư QUỸ bảo HIỂM xã hội VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (796 KB, 106 trang )

1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌCKINH TẾ
------------*****-------------

TRỊNH SƠN HỒNG

NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ QUỸ
BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

Hà Nội - 2015


2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
------------*****-------------

TRỊNH SƠN HỒNG

NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ QUỸ
BẢO HIỂM XÃ HỘI VIỆT NAM

Chuyên ngành: Tài chính – ngân hàng
Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG


ơ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. LÊ TRUNG THÀNH

Hà Nội –2015


3

LỜI CẢM ƠN
Đầu tiên, em xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất đến thầy giáo hướng
dẫn, Tiến sỹ Lê Trung Thành đã tận tâm giúp đỡ em hoàn thành luận văn này.
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô trong khoa Tài chính Ngân hàng Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội đã tạo điều kiện cho em
hoàn thành khóa học này.
Tôi xin cảm ơn Ban lãnh đạo Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã tạo điều kiện
cho tôi được thu thập các số liệu cần thiết để trình bày trong luận văn.


4

TÓM TẮT LUẬN VĂN
Tên luận văn: “Nâng cao hiệu quả đầu tư Quỹ Bảo hiểm xã hội Việt
Nam”.
Tác giả: Trịnh Sơn Hồng.
Chuyên ngành: Tài chính ngân hàng
Bảo vệ năm: 2015.
Người hướng dẫn khoa học: Tiến sỹ Lê Trung Thành.
Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích: nghiên cứu tổng quan về hiệu quả đầu tư quỹ Bảo hiểm xã
hội Việt Nam và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư cho quỹ.

Nhiệm vụ: trên cơ sở khung lý thuyết về hiệu quả đầu tư quỹ Bảo hiểm
xã hội, kết hợp các số liệu thu thập được, tác giả phân tích thực trạng, chỉ ra
các hạn chế và nguyên nhân ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư quỹ BHXH Việt
Nam trong giai đoạn 2008-2014, để từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả đầu tư quỹ.
Những đóng góp mới của luận văn:
Luận văn tiếp cận vấn đề hiệu quả đầu tư quỹ BHXH theo hướng mới đó
là phải thỏa mãn được các yêu cầu về an toàn, sinh lợi và thanh khoản.
Phân tích thực trạng hiệu quả hoạt động đầu tư tăng trưởng quỹ BHXH
Việt Nam giai đoạn 2008-2014 (các số liệu được tác giả sử dụng trong luận
văn đều là những số liệu được cập nhật mới). Qua đó đánh giá được những
hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của các hạn chế đó trong hoạt động đầu tư
tăng trưởng quỹ BHXH Việt Nam.
Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư quỹ BHXH Việt Nam
trong tương lai.


5

MỤC LỤC


6

DANH MỤC BẢNG BIỂU
T
T

Bảng


1

Bảng 3.1

2

Bảng 3.2

3

Bảng 3.3

4

Bảng 3.4

5

Bảng 3.5

6

Bảng 3.6

7

Bảng 3.7

8


Bảng 4.1

9

Bảng 4.2

Hệ số Bêta theo ngành của Việt Nam Quý II/2014

95

10

Bảng 4.3

Cơ cấu danh mục đầu tư đề xuất cho các kịch bản
giả định của nền kinh tế trong giai đoạn 2016-2020

99

Nội dung
Cân đối thu- chi quỹ BHXH bắt buộc giai
2008 - 2014
Cân đối thu - chi Quỹ BHXH tự nguyện giai
2008 - 2014
Cân đối thu - chi Quỹ BHXH tự nguyện giai
2008 - 2014
Đầu tư bảo toàn tăng trưởng Quỹ BHXH giai
2008- 2014

Trang

đoạn
đoạn
đoạn
đoạn

Bảng hệ số k qua các năm
Tăng trưởng NAV quỹ đầu tư vào Việt Nam năm
2014
Tăng trưởng GDP của kinh tế thế giới giai đoạn
2010 – 2015
Dự báo tốc độ tăng dân số, GDP và CPI theo các
kịch bản đến 2020

6

68
69
70
72
74
77
84
93


7

DANH MỤC HÌNH VẼ
T
T


Hình

1

Hình 1.1

Mô hình bảo hiểm xã hội

18

2

Hình 1.2

Sơ đồ dòng tài chính của Quỹ BHXH

20

3

Hình 1.3

Rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống

45

4

Hình 2.1


Sơ đồ nghiên cứu

56

5

Hình 3.1

6

Hình 3.2

7

Hình 3.3

Biến thiện của hệ số k giai đoạn 2008 – 2014

75

8

Hình 3.4

Tương quan tỷ lệ lãi đầu tư bình quân của Quỹ BHXH và
chỉ số lạm phát

77


9

Hình 4.1

Cơ cấu danh mục đầu tư đề xuất cho quỹ BHXH trong
kịch bản nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng yếu

100

10

Hình 4.2

Cơ cấu danh mục đầu tư đề xuất cho quỹ BHXH trong
kịch bản nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng tốt

100

Nội dung

Tăng trưởng tổng tài sản đầu tư quỹ BHXH Việt Nam
2008-2014
Thay đổi tỷ trọng vốn đầu tư của quỹ BHXH Việt Nam
vào các loại tài sản trong giai đoạn 2008-2014

7

Trang

73

74


8

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8

Kí hiệu
BHXH
BHTM
CSTT
DN
NSNN
NVĐT

TTCK

Nguyên nghĩa
Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm thương mại
Chính sách tiền tệ

Doanh nghiệp
Ngân sách nhà nước
Nguồn vốn đầu tư
Quyết định
Thị trường chứng khoán

8


9

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong quá trình hoạt động, các nguồn thu của Bảo hiểm xã hội (BHXH)
bao gồm thu do các đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động,
đóng góp của Nhà nước trong một số trường hợp và các nguồn thu hợp pháp
khác. Các nguồn thu này khi đưa vào quỹ BHXH có một bộ phận được chi
dùng ngay (cho các trợ cấp BHXH ngắn hạn); nhưng phần lớn dùng để chi trả
cho các trợ cấp BHXH dài hạn mà tính từ khi đóng phải hàng chục năm sau
mới phải chi (nếu tính riêng cho một người). Đối với những hệ thống BHXH
tại các quốc gia có dân số trẻ như Việt Nam, số người đóng góp hiện tại lớn
hơn nhiều so với số người hưởng BHXH hiện tại, thì số tiền chưa được dùng
ngay là rất lớn. Đây được gọi là phần nhàn rỗi tương đối của quỹ BHXH.
Theo quy luật tiền tệ, phần nhàn rỗi của quỹ BHXH không được để đóng
băng mà phải được đưa vào lưu thông, phải được đầu tư để tránh những rủi ro
về tiền tệ như lạm phát và các rủi ro khác. Do vậy, đầu tư trước hết là để bảo
toàn giá trị của phần vốn này. Mặt khác, phần sinh lời thực tế (sau khi đã điều
chỉnh tỷ lệ lạm phát) sẽ làm tăng quy mô của quỹ BHXH, góp phần cải thiện
các trợ cấp BHXH gồm cả trợ cấp dài hạn và trợ cấp ngắn hạn. Do thiết kế kỹ
thuật, có tính tới yếu tố thu nhập hiện thời của người lao động, nên phí BHXH

chỉ là phí tối thiểu. Nếu tính riêng cho một người lao động thì phần đóng góp
không đủ chi trả cho họ từ sau khi nghỉ hưu cho đến khi họ chết. Chính vì
vậy, trong kỹ thuật tính phí BHXH phải dựa trên số đông và có tính đến các
yếu tố đầu tư. Nếu không đầu tư tăng trưởng thì quỹ BHXH không thể chi
dùng đủ cho tương lai, trong khi nhu cầu thụ hưởng của người lao động ngày
càng cao theo thời gian (trợ cấp được hưởng tính trên cơ sở thu nhập và mức
sống dân cư khi hưởng).

9


10

Để hạn chế rủi ro, cơ quan BHXH thường lựa chọn một số hình thức đầu
tư theo quy định của pháp luật trên cơ sở các nguyên tắc đầu tư là an toàn,
sinh lợi, có tính thanh khoản và đạt lợi ích kinh tế xã hội.
Xét trong trường hợp của Việt Nam, trong những năm vừa qua, BHXH
Việt Nam đã tiến hành một số hình thức đầu tư quỹ như mua trái phiếu Chính
phủ, gửi tiền tại các Ngân hàng Thương mại quốc doanh.v.v. tuy nhiên hiệu
quả đầu tư chưa thực sự cao. Bên cạnh đó, do những sự biến đổi nhanh của
nền kinh tế Việt Nam và Thế giới, đòi hỏi hoạt động đầu tư Quỹ BHXH Việt
Nam phải thường xuyên được nghiên cứu đánh giá và có những điều chỉnh
hợp lý nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư, vừa mang lại nguồn thu giúp cân đối
quỹ vừa đưa được một nguồn tài chính dồi dào vào lưu thông trong nền kinh
tế. Hiệu quả đầu tư Quỹ còn thấp trong khi có nhiều kênh đầu tư khác trên thị
trường tài chính có khả năng sinh lời cao hơn nên việc cải tổ lại hoạt động để
nâng cao hiệu quả đầu tư quỹ BHXH Việt Nam trong giới hạn rủi ro phù hợp
đã trở thành nhu cầu cấp thiết.
Đó là lý do tôi lựa chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả đầu tư quỹ Bảo hiểm
Xã hội Việt Nam” cho Luận văn Thạc sĩ của mình.

2. Mục đích nghiên cứu
Luận văn được thực hiện nhằm tìm kiếm các giải pháp nâng cao hiệu quả
đầu tư của quỹ BHXH Việt Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
a. Đối tượng nghiên cứu
Hiệu quả đầu tư quỹ BHXH Việt Nam
b. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu hiệu quả đầu tư quỹ BHXH Việt Nam giai đoạn
2008-2014.

10


11

4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn đã sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và định
lượng. Phương pháp định lượng sử dụng dữ liệu về hoạt động đầu tư quỹ
BHXH Việt Nam trong giai đoạn 2008-2014 để tính toán các chỉ tiêu đánh giá
hiệu quả đầu tư. Phương pháp định tính là phỏng vấn sâu ý kiến của các
chuyên gia trong các lĩnh vực có liên quan để tổng hợp và đưa ra các nhận
định chung, thống nhất.
Chi tiết về phương pháp nghiên cứu sẽ được trình bày ở chương 2 của
luận văn.
5. Kết cấu luận văn
Kết cấu của luận văn gồm bốn chương:
Chương 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu và cở sở lý luận về hiệu
quả đầu tư quỹ Bảo hiểm xã hội.
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Thực trạng hiệu quả đầu tư quỹ Bảo hiểm xã hội Việt Nam.

Chương 4: Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư quỹ
Bảo hiểm xã hội Việt Nam

11


12

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ
LÝ LUẬN VỀ HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ QUỸ BẢO HIỂM XÃ HỘI
1.1.

Tổng quan tình hình nghiên cứu về hiệu quả đầu tư quỹ Bảo hiểm xã hội
1.1.1. Các nghiên cứu nước ngoài
Trên thế giới đã có khá nhiều các nghiên cứu liên quan đến hoạt động
đầu tư của các tổ chức bảo hiểm như:
Các tác giả Karl, Holzheu và Raturi (2003) trong công trình nghiên cứu
“Capital Markets and Insurance Sycles” đã chỉ ra vai trò của các doanh
nghiệp bảo hiểm trên thị trường vốn. Các tác giả đã xem xét mối quan hệ và
tác động giữa tỷ lệ lãi và việc đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm trên thị
trường thế giới vào các năm giữa thập kỷ 90 của thế kỷ 20.
Trong công trình nghiên cứu “Insurance companies: walking up to
international standards” của các tác giả Masters và Dupont vào năm 2003 đã
chỉ ra việc các doanh nghiệp bảo hiểm phải tuân thủ các quy tắc kế toán quốc
tế là một việc rất khó khăn khi các doanh nghiệp này thực hiện các khoản đầu
tư và phải quản trị rủi ro của các khoản đầu tư này.
Trong công trình nghiên cứu “ The insurance industry and the financial
services authority” của Boleat vào năm 1998 đã xem xét vai trò và tác động
của chính phủ tới hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm. Việc các chính
phủ có xu hướng giảm dần sự phân biệt giữa doanh nghiệp bảo hiểm và các

thể chế tài chính khác có thể mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp bảo hiểm
song lại tạo các các điều kiện bất lợi về chi phí.
Tác giả Frederic Mishkin phân tích hoạt động của các doanh nghiệp bảo
hiểm trong chương 12 “Các tổ chức tài chính phi ngân hàng” trong cuốn Tiền
tệ, ngân hàng và thị trường tài chính đã đánh giá: các doanh nghiệp bảo hiểm
là một trong các tổ chức tài chính phi ngân hàng cùng với các quỹ trợ cấp,
quỹ tương hỗ, các công ty tài chính, chính phủ ( khi đứng ra làm trung gian tài

12


13

chính). Qua các ví dụ thực tế, tác giả đã chỉ ra rằng khi có thu nhập đầu tư cao
sẽ khiến cho các doanh nghiệp bảo hiểm có thể giữ cho phí bảo hiểm thấp.
Tuy nhiên, khi đầu tư giảm cùng với sự sụt giảm lãi suất, công với sự gia tăng
ồ ạt của tai nạn và các khoản bồi thường đã gây nên tổn thất nặng nề cho các
doanh nghiệp bảo hiểm.
Một câu hỏi đặt ra là: trên thế giới, vấn đề hiệu quả hoạt động đầu tư của
các doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và hiệu quả đầu tư quỹ Bảo hiểm xã hội
có được nghiên cứu như một chủ đề riêng biệt? Qua tìm hiểu các tài liệu, tác
giả thấy rằng hoạt động đầu tư ngay từ đầu đã được đặt ra là một phần tất yếu,
không thể tách rời trong hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm nói chung
và quỹ Bảo hiểm xã hội nói riêng. Tuy nhiên đến nay, các nghiên cứu mới chỉ
chủ yếu tập trung vào việc đề ra giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư
của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, vấn đề hiệu quả đầu tư của các
Quỹ Bảo hiểm xã hội vẫn chưa được tập trung nghiên cứu.
1.1.2. Các nghiên cứu trong nước
Trịnh Chi Mai (2013), Hiệu quả hoạt động đầu tư của các doanh
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ Việt Nam

Luận án đã nghiên cứu một cách hệ thống, sâu sắc về vấn đề hiệu quả
hoạt động đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ.
Về lý luận: Mở đầu trong các nghiên cứu tại Việt Nam, luận án đã đưa ra
một cầu nối giữa các nguyên tắc đầu tư và việc đánh giá hiệu quả hoạt động
đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ. Từ đó đi đến khái niệm hiệu
quả hoạt động đầu tư dựa trên ba nguyên tắc đầu tư đặc thù của doanh nghiệp
bảo hiểm phi nhân thọ: an toàn – sinh lời – đảm bảo khả năng thanh toán
thường xuyên. Các thước đo đánh giá hiệu quả đầu tư được đưa ra là: Tỷ suất
sinh lời của hoạt động đầu tư đảm bảo khả năng thanh toán tổn thất lớn, rủi ro
đo bằng hệ số bêta của danh mục đầu tư đảm bảo an toàn cho hoạt động kinh

13


14

doanh. Luận án đã xây dựng được lý luận và phương pháp xác định chỉ tiêu
vốn chủ sở hữu tối thiểu của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ trong cơ
cấu vốn để đảm bảo cho hoạt động đầu tư đạt được hiệu quả theo hệ thống
đánh giá trên. Lý luận này hoàn toàn phù hợp với hệ thống Solvency I và II
trên thế giới quy định về mức vốn an toàn của doanh nghiệp bảo hiểm.
Về học thuật: Tác giả đã thực hiện đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư
của doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ theo quan điểm nhìn nhận hoạt động
kinh doanh và hoạt động đầu tư như hai mặt của một vấn đề. Từ đó, tác giả đề
xuất phương pháp vận dụng các lý thuyết quản trị tài chính, lý thuyết đầu tư
và quản trị rủi ro hiện đại trong các thước đo của các chỉ tiêu đánh giá. Mô
hình quản trị rủi ro VaR, mô hình định giá tài sản vốn CAPM, các mô hình
kinh tế lượng phân tích mối quan hệ giữa các nhân tố ảnh hưởng đã được sử
dụng cho việc tính toán theo các thước đo đã đề ra. Các kết quả nghiên cứu
theo hướng này sẽ đảm bảo được những định hướng chặt chẽ để một doanh

nghiệp bảo hiểm quản trị hoạt động của mình một cách khoa học và chuyên
nghiệp. Phương pháp đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư này cũng có thể vận
dụng trong việc đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư các doanh nghiệp khác.
Nghiên cứu này giúp cho việc định hướng các doanh nghiệp bảo hiểm tại
thị trường Việt Nam phát triển theo các mô hình hoàn chỉnh đã hình thành tại
các thị trường bảo hiểm lâu đời trên thế giới với các đề xuất về:(i) Sự định
hướng phát triển ngành bảo hiểm phi nhân thọ đóng vai trò là nhà đầu tư quan
trọng và có tác động tích cực đến việc tạo ra cơ cấu đầu tư hiệu quả của nền
kinh tế ;(ii) Mở rộng việc huy động vốn và đầu tư ra thị trường khu vực, quốc
tế cùng với sự phát triển các sản phẩm bảo hiểm cho các ngành với sự chú
trọng vào ngành nông nghiệp.
Giáo trình Quản trị kinh doanh bảo hiểm của trường ĐH Kinh tế quốc
dân do PGS.TS Nguyễn Văn Định chủ biên năm2009 và giáo trình Nguyên lý

14


15

bảo hiểm của trường ĐH Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh do PGS.TS
Phan Thị Cúc chủ biên đã làm rõ các vấn đề cơ bản về hoạt động đầu tư của
các doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm vai trò, các nguyên tác, các nhân tố ảnh
hưởng đến hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm, các hình thức
đầu tư của doanh nghiệp bảo hiểm, cách thức tổ chức hoạt động đầu tư và
phương pháp đánh giá hiệu quả đầu tư. Hoạt động đầu tư của các doanh
nghiệp bảo hiểm nói chung và của quỹ Bảo hiểm xã hội nói riêng luôn tiềm
ẩn rủi ro như rủi ro lãi suất, rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro tiền tệ,
nên hoạt động đầu tư của các tổ chức này cần phải được tiến hành rất thận
trọng.
Luận án tiến sĩ của tác giả Đoàn Trung Kiên năm 2005 với đề tài “ Giải

pháp hoàn thiện và phát triển hoạt động đầu tư tại các doanh nghiệp bảo
hiểm ở Việt Nam” đã chỉ ra: ba hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm là bảo
hiểm, đầu tư và hoạt động khác. Hoạt động đầu tư có sự khác nhau giữa công
ty bảo hiểm nhân thọ và công ty bảo hiểm phi nhân thọ, theo đó doanh nghiệp
bảo hiểm nhân thọ có tỷ lệ đầu tư vào chứng khoán và các tài sản tài chính
trung và dài hạn cao hơn, trong khi các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
chú trọng vào đầu tư ngắn hạn.
Luận án tiến sĩ của tác giả Phạm Thị Định năm 2004 với đề tài “ Hoạt
động đầu tư tại các doanh nghiệp bảo hiểm nhà nước tại Việt Nam” đã làm rõ
các vấn đề lý luận về hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp bảo hiểm nhà
nước tính đến năm 2003 và đề xuất các giải pháp. Tác giả đã xem xét kinh
nghiệm chung của các nước, kinh nghiệm riêng của Pháp, Malaysia như mục
tiêu quan trọng nhất của hoạt động đầu tư là bảo vệ quyền lợi của người tham
gia bảo hiểm, luật hóa các quy định của nhà nước, thay đổi các quy định cho
phù hợp với biến động của thị trường, quy định danh mục đầu tư, quy định
giới hạn tỷ trọng tối đa/ tối thiểu cho từng loại tài sản đầu tư.

15


16

Qua các tài liệu trên có thể thấy rằng phần lớn các công trình nghiên
cứu chủ yếu tiếp cận theo hướng đánh giá kết quả hoạt động đầu tư của các
doanh nghiệp bảo hiểm nói chung và quỹ bảo hiểm xã hội nói riêng thông qua
hiệu suất sử dụng vốn, hiệu quả sinh lời mà chưa đánh giá hiệu quả đầu tư của
quỹ dưới góc độ tổng hòa của ba yếu tố: an toàn, sinh lời và thanh khoản.
Từ những vấn đề chưa được giải quyết triệt để này, tác giả thấy rằng cần
tiếp cận và đánh giá hiệu quả hoạt động đầu tư của quỹ bảo hiểm xã hội dựa
trên ba nguyên tắc đầu tư đặc thù nêu trên.

1.2.

Cơ sở lý luận về hiệu quả đầu tư của Quỹ Bảo hiểm xã hội
1.2.1. Những vấn đề chung về Quỹ Bảo hiểm xã hội
1.2.1.1 Khái niệm Quỹ Bảo hiểm xã hội
Theo ILO: “Bảo hiểm xã hội là thuật chia sẻ rủi ro và tài chính làm cho
bảo hiểm xã hội đạt hiệu quả và trở thành một hiện thực ở tất cả các nước
trên thế giới”.
Theo giáo trình Kinh tế bảo hiểm của Đại học Kinh tế quốc dân: “Bao
hiểm xã hội là sự đảm bảo đời sống cho người lao động và gia đình họ khi bị
giảm, bị mất khả năng lao động hoặc mất việc làm, trên cơ sở san sẻ trách
nhiệm đóng góp vào quỹ Bảo hiểm xã hội”.

Hình 1.1 Mô hình Bảo hiểm xã hội
Theo Luật BHXH số 71/2006/QH11 ngày 12/07/2006 : “BHXH là một
tổ chức của Nhà nước nhằm sử dụng một quỹ tiền tệ tập trung do sự đóng

16


17

góp của người chủ sử dụng lao động, người lao động và có sự hỗ trợ của Nhà
nước nhằm bảo đảm thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập của người lao
động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết, trên cơ sở đóng
vào quỹ BHXH. Khoản trợ cấp này giúp cho người lao động và gia đình họ
sống ổn định, điều này còn tác động đến cả an sinh xã hội”.
Theo Luật BHXH năm 2006: “Quỹ BHXH là quỹ tiền tệ tập trung được
hình thành chủ yếu từ sự đóng góp bằng tiền của các bên tham gia BHXH

cho người lao động theo quy định của Pháp luật”.
Mục đích tạo lập quỹ BHXH là dùng để chi trả cho người lao động, giúp
họ ổn định cuộc sống khi gặp những biến cố hoặc rủi ro.
Quỹ BHXH được hình thành từ các nguồn: người sử dụng lao động
đóng, người lao động đóng, tiền sinh lời từ hoạt động đầu tư quỹ, hỗ trợ của
nhà nước và các nguồn thu hợp pháp khác.
Ngân sách Nhà nước và quỹ BHXH có cùng bản chất, chức năng và có
quan hệ hữu cơ với nhau trong quá trình tạo lập và sử dụng. Hoạt động của
ngân sách nhà nước (NSNN) và quỹ BHXH đều không nhằm mục đích kiếm
lời. Việc thu - chi ngân sách và quỹ BHXH đều được quy định bằng pháp luật
và cơ chế quản lý phải tuân theo nguyên tắc cân đối nguồn thu và chi …

17


18

Hình 1.2. Sơ đồ dòng tài chính của Quỹ BHXH
Tuy nhiên, giữa NSNN và quỹ BHXH có những điểm khác nhau cơ bản.
NSNN ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự ra đời, tồn tại và phát triển
của Nhà nước và thực hiện chức năng kinh tế - xã hội của Nhà nước. Bộ máy
Nhà nước càng lớn, chức năng và nhiệm vụ càng mở rộng thì thu - chi ngân
sách càng lớn. Quan hệ phân phối của nhà nước mang tính pháp lý rất cao và
dựa vào quyền lực chính trị, kinh tế của Nhà nước. Quan hệ phân phối này
chủ yếu là phân phối lại, không mang tính chất hoàn trả và phản ánh lợi ích xã
18


19


hội, lợi ích quốc gia, nó chi phối các quan hệ, các lợi ích bộ phận và cá nhân
nhằm đảm bảo cho nền kinh tế - xã hội được phát triển ổn định. Trong khi đó,
quỹ BHXH ra đời, tồn tại và phát triển với sự phát triển của nền kinh tế hàng
hoá, các quan hệ thuê mướn nhân công. Mặc dù thu - chi BHXH đều được
Nhà nước quy định bằng các văn bản pháp luật, nhưng chủ yếu dựa vào quan
hệ kinh tế, quan hệ lợi ích giữa các bên tham gia theo nguyên tắc có tham gia
thì mới được hưởng quyền lợi BHXH. Quan hệ phân phối của quỹ BHXH có
tính chất pháp lý thấp hơn NSNN và mối quan hệ này trước hết phản ánh lợi
ích của các bên tham gia BHXH, sau đó mới đến lợi ích xã hội.
Như vậy, quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng đồng thời là một quỹ dự
phòng; nó vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện
hay cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn
tại và phát triển.
1.2.1.2. Các đặc trưng của Quỹ BHXH
Là một quỹ tài chính nhưng phục vụ cho các mục tiêu xã hội, vì vậy quỹ
BHXH có những nét đặc trưng riêng khác với những loại quỹ tài chính khác,
cụ thể là:
Việc hình thành và hoạt động quỹ BHXH không vì mục tiêu lợi nhuận
Mục đích khi hình thành quỹ BHXH là nhằm huy động sự đóng góp của
người lao động, người sử dụng lao động, Nhà nước trong một số trường hợp
và các nguồn thu hợp pháp khác để có một lượng tiền đủ lớn, đảm bảo đủ chi
trả các trợ cấp BHXH cho trường hợp người lao động bị giảm hoặc bị mất hẳn
các khoản thu nhập thường xuyên từ lao động do gặp phải những sự kiện hoặc
những “rủi ro xã hội” đã nêu và những chi phí cho hoạt động thường xuyên
của bộ máy BHXH. Khác với bảo hiểm thương mại, trong kết cấu phí BHXH
không tính phần lợi nhuận của bên bảo hiểm (cơ quan BHXH). Trong tổng
phí BHXH chỉ bao gồm phí thuần và phụ phí (bao gồm phí quản lý và phí dự

19



20

phòng - nếu có). Trong quá trình sử dụng quỹ, các chi phí chi trả trợ cấp
BHXH chiếm phần lớn trong tổng chi, phần chi quản lý thường chỉ chiếm tỷ
lệ rất thấp và những chi phí này là những chi phí thực sự cần thiết đảm bảo
cho cả hệ thống hoạt động bình thường.
Quỹ BHXH vừa có tính hoàn trả vừa có tính không hoàn trả
Tính hoàn trả thể hiện ở chỗ: người lao động vừa là đối tượng tham gia
và đóng góp BHXH, đồng thời họ cũng là đối tượng nhận trợ cấp, được chi
trả từ quỹ BHXH cho dù chế độ, thời gian trợ cấp và mức trợ cấp của mỗi
người khác nhau tuỳ thuộc vào những biến cố, rủi ro mà họ phải gặp, cũng
như mức đóng góp và thời gian đóng góp BHXH của họ.
Tính không hoàn trả thể hiện ở chỗ: cùng tham gia và đóng góp BHXH,
nhưng có người được hưởng trợ cấp nhiều lần và nhiều chế độ khác nhau,
nhưng có những người được ít lần hơn thậm chí không được hưởng. Chính từ
đặc điểm này nên một số đối tượng được hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH thường
lớn hơn nhiều so với mức đóng góp của họ và ngược lại. Điều đó thể hiện tính
chất xã hội của toàn bộ hoạt động BHXH.
Quỹ BHXH có quá trình tích luỹ để bảo tồn giá trị và bảo đảm an toàn
về tài chính
Đặc trưng này xuất phát từ chức năng cơ bản nhất của BHXH là đảm bảo
an toàn về thu nhập cho người lao động. Vì vậy, đến lượt mình BHXH phải tự
bảo vệ mình trước nguy cơ mất an toàn về tài chính. Quỹ BHXH là “của để
dành” của người lao động phòng khi ốm đau tai nạn, tuổi già… Nguồn quỹ
này được đóng góp và tích luỹ lại trong suốt quá trình lao động. Nếu xem xét
tại một thời điểm cụ thể nào đó, quỹ BHXH luôn tồn tại một lượng tiền tạm
thời nhàn rỗi để chi trả trong tương lai. Lượng tiền này có thể biến động tăng
cũng có thể biến động giảm do mất an toàn, giảm giá trị do yếu tố lạm phát.


20


21

Do đó, bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ BHXH đã trở thành yêu cầu mang
tính nguyên tắc trong quá trình hoạt động của BHXH.
Quỹ BHXH là hạt nhân, là nội dung vật chất của tài chính BHXH
Quỹ BHXH là khâu tài chính trung gian cùng với NSNN và tài chính
doanh nghiệp hình thành nên hệ thống tài chính quốc gia. Tuy nhiên, mỗi
khâu tài chính được tạo lập, sử dụng cho một mục đích riêng, gắn với một chủ
thể nhất định và luôn độc lập với nhau trong quản lý và sử dụng. Thế nhưng
tài chính BHXH, NSNN và tài chính doanh nghiệp lại có quan hệ chặt chẽ với
nhau và đều chịu sự chi phối của pháp luật Nhà nước.
Sự ra đời, tồn tại và phát triển quỹ BHXH phụ thuộc vào trình độ phát
triển kinh tế-xã hội của mỗi quốc gia và điều kiện lịch sử trong từng thời kỳ
nhất định của đất nước. Kinh tế - xã hội càng phát triển thì càng có điều kiện
thực hiện đầy đủ các chế độ BHXH, nhu cầu thoả mãn về BHXH đối với
người lao động càng được nâng cao.
1.2.1.3. Vai trò của quỹ BHXH
- Vai trò đối với bản thân hệ thống BHXH
Quỹ BHXH được coi là “xương sống” của hệ thống BHXH. Hệ thống
BHXH có ổn định và phát triển được hay không phụ thuộc vào sự hoạt động
của quỹ BHXH. Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung được hình thành từ
sự đóng góp của các bên tham gia bảo hiểm bao gồm: người sử dụng lao
động, người lao động và Nhà nước; trong một số trường hợp còn có các
nguồn thu khác được dùng để chi trả cho những trường hợp được hưởng trợ
cấp BHXH theo quy định của pháp luật về BHXH và chi phí cho các hoạt
động nghiệp vụ BHXH. Như vậy, vai trò của quỹ BHXH được thể hiện ở
những điểm sau:

Thứ nhất, đối với người lao động: người lao động khi tham gia BHXH,
nếu gặp những biến cố hay những “rủi ro xã hội” như thai sản, ốm đau, tai

21


22

nạn lao động, thất nghiệp…, thông qua hệ thống trợ cấp BHXH được nhận
những khoản tiền bảo hiểm để trang trải cho những chi phí do những biến cố
hoặc rủi ro xã hội này gây ra. Ở đây, quỹ BHXH có vai trò rất lớn là bù đắp
hỗ trợ cho những thiếu hụt về thu nhập của người lao động khi họ bị giảm
hoặc mất thu nhập từ lao động nghề nghiệp do bị giảm hoặc mất khả năng lao
động do những biến cố hoặc “rủi ro xã hội” nêu trên. Nói cách khác, quỹ
BHXH giữ vai trò góp phần đảm bảo an toàn cho người lao động và gia đình
họ. Tuy nhiên, mức độ đảm bảo thu nhập đến đâu và được thực hiện như thế
nào phụ thuộc vào khả năng thanh toán của quỹ BHXH và phụ thuộc vào
chính sách BHXH của quốc gia trong mỗi thời kỳ, trên cơ sở nguyên tắc trợ
cấp BHXH không được cao hơn so với tiền lương thu nhập từng nghề nghiệp
trước khi nghỉ hưởng trợ cấp BHXH, nhưng không được thấp hơn tiền lương
tối thiểu do nhà nước quy định. Nếu như quỹ BHXH thu được nhiều (thu
đúng, thu đủ và đầu tư tăng trưởng tốt) và số người bị rủi ro ít (số người thụ
hưởng ít) thì mức độ đáp ứng của quỹ BHXH cao hơn. Ngược lại, nếu như
nguồn thu của quỹ thấp (thu không được đủ, đầu tư tăng trưởng quỹ kém…)
và số người bị rủi ro nhiều… thì mức độ đáp ứng của quỹ sẽ bị thấp đi. Tuy
nhiên như đã nêu ở trên, quỹ BHXH cũng là một quỹ xã hội, nên trợ cấp
BHXH cũng phải đảm bảo ở mức độ nhất định cho người lao động. Đây là vai
trò nổi trội, hơn hẳn của quỹ BHXH so với các loại quỹ tài chính khác.
Thứ hai, đối với hệ thống BHXH: Để cả hệ thống BHXH hoạt động
được bình thường, các hoạt động nghiệp vụ và các hoạt động quản lý đòi hỏi

phải có những chi phí nhất định. Ở hầu hết các nước, các chi phí này tuỳ theo
từng nước được tính bằng một tỷ lệ nhất định trên tổng thu của quỹ BHXH,
hoặc được ấn định bằng một mức nào đó trên cơ sở những chi phí của những
năm trước đó. Tuy nhiên, dù tính theo cách nào thì những chi phí này đều do
quỹ BHXH đảm bảo. Như vậy, hiệu quả hoạt động của bộ máy BHXH, đời

22


23

sống của các nhân viên ngành BHXH, ở mức độ nào đó phụ thuộc vào tình
hình hoạt động (bao gồm cả hoạt động đầu tư) của quỹ BHXH. Mặt khác, quỹ
BHXH do tính đặc thù của hoạt động BHXH nên có một bộ phận của quỹ tạm
thời nhàn rỗi. Phần nhàn rỗi này của quỹ BHXH được đầu tư vào các lĩnh vực
khác nhau cuả nền kinh tế. Thông qua hoạt động đầu tư của quỹ BHXH tạo
thêm nguồn lực tài chính để duy trì và phát triển hệ thống BHXH; đồng thời
việc đầu tư tăng trưởng quỹ sẽ tăng cường khả năng chi trả thường xuyên cho
các đối tượng được hưởng chế độ BHXH.
- Vai trò của quỹ BHXH đối với nền tài chính quốc gia
Như đã nêu, với tư cách là một quỹ tài chính, dòng tiền của quỹ BHXH
luôn luôn được lưu thông và vì vậy tác động đến nền tài chính chung của
quốc gia. Hoạt động của quỹ BHXH được thể hiện ở hai dòng di chuyển của
tiền tệ là dòng di chuyển vào và dòng di chuyển ra.
Dòng di chuyển vào thông qua sự đóng góp của người lao động, người
sử dụng lao động và các nguồn thu khác. Dòng di chuyển này về cơ bản là
một phần thu nhập của dân cư, của doanh nghiệp đưa vào BHXH (trên cơ sở
đóng phí). Nói cách khác, quỹ BHXH (từ giác độ dòng tiền vào) đã thúc đẩy
quá trình lưu thông tiền tệ trong dân cư - mọi sự lưu thông có chủ định và vì
vậy có vai trò điều chỉnh nhất định dòng tài chính quốc gia.

Dòng di chuyển ra của BHXH là các chi phí BHXH bao gồm chi trả các
trợ cấp BHXH và các chi phí cho hoạt động nội bộ BHXH. Các chi phí này
rất lớn và như vậy quỹ BHXH có vai trò máy bơm tiền vào lưu thông tạo ra
cơ cấu về tiêu dùng. Mặt khác thông qua việc đầu tư vốn vào các chương
trình, dự án phát triển kinh tế, quỹ BHXH cũng cung cấp một lượng vốn lớn
và đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy và tăng trưởng kinh tế.
Đặc biệt, trong điều kiện nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển kinh tế không
ngừng tăng lên, thì việc cung ứng vốn cho nội bộ nền kinh tế thông qua các

23


24

đầu mối tài chính như quỹ BHXH có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Nói cách
khác thông qua dòng di chuyển ra, quỹ BHXH đã làm tăng quy mô tài chính
cho nền kinh tế; không những thế, quỹ BHXH còn góp phần điều chỉnh cơ
cấu tài chính, cơ cấu đầu tư, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước…
Ngoài ra, thông qua việc đầu tư như mua tín phiếu, trái phiếu kho bạc nhà
nước, công trái xây dựng tổ quốc hoặc cho ngân hàng và các tổ chức tín dụng
vay…, quỹ BHXH đã tham gia một cách đắc lực vào việc thực hiện các chính
sách tiền tệ, giữ vững sự ổn định tiền tệ và góp phần kiểm soát lạm phát.
- Vai trò đối với chính trị - xã hội:
Việc hình thành quỹ BHXH tạo ra hệ thống an toàn xã hội, thông qua
quá trình phân phối lại quỹ BHXH góp phần thực hiện mục tiêu đảm bảo an
toàn về kinh tế cho mọi thành viên trong xã hội.
1.2.1.4. Mô hình Quỹ BHXH
*) Xét dưới góc độ nguồn tài chính để hình thành, quỹ BHXH có các mô
hình sau:
- Quỹ BHXH Nhà nước: theo mô hình này, quỹ BHXH có nguồn hình

thành duy nhất là do NSNN cấp. Chủ sử dụng lao động và người lao động
không phải đóng góp vào quỹ.
- Quỹ BHXH hỗn hợp (Mô hình quỹ BHXH theo nền kinh tế thị trường):
Ở mô hình này quỹ BHXH có 3 loại:
+ Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của chủ sử dụng lao
động, người lao động, Nhà nước đóng góp và hỗ trợ.
+ Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của chủ sử dụng lao động
và của người tham gia BHXH.
+ Quỹ BHXH được hình thành từ sự đóng góp của chủ sử dụng lao
động, Nhà nước đóng và hỗ trợ. Người tham gia bảo hiểm không phải đóng
góp vào quỹ.

24


25

- Quỹ BHXH cá nhân (Quỹ BHXH tự nguyện): Theo mô hình này, quỹ
BHXH có nguồn hình thành duy nhất từ sự đóng góp của người tham gia
BHXH.
*) Xét dưới góc độ hình thức tham gia thì quỹ BHXH có hai mô hình:
- Quỹ BHXH bắt buộc: Nhà nước ban hành chính sách, chế độ tạo lập và
sử dụng quỹ để bắt buộc một số đối tượng tham gia BHXH. Sự đóng góp của
họ hình thành nên quỹ BHXH bắt buộc. Đối tượng tham gia gồm người sử
dụng lao động và người lao động.
- Quỹ BHXH tự nguyện: Trên cơ sở Nhà nước ban hành chính sách, chế
độ tạo lập và sử dụng quỹ để cho đối tượng được quyền tự lựa chọn tham gia
phù hợp với điều kiện và nhu cầu của họ. Ở mô hình này, đối tượng tham gia
thường là cá nhân không thuộc đối tượng tham gia BHXH bắt buộc hoặc là
đối tượng tham gia BHXH bắt buộc nhưng họ tham gia bổ sung để được

hưởng quyền lợi ngoài chế độ BHXH bắt buộc.
*) Xét dưới góc độ thời gian hưởng chế độ BHXH thì quỹ có 2 mô hình:
- Quỹ BHXH ngắn hạn: Quỹ được hình thành từ sự đóng góp của đối
tượng tham gia BHXH, dùng để chi trả các chế độ BHXH ngắn hạn như: ốm
đau, thai sản, nghỉ dưỡng sức, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp hưởng
một lần.
-Quỹ BHXH dài hạn: Quỹ được hình thành từ sự đóng góp của đối tượng
tham gia BHXH, dùng để chi trả các chế độ BHXH dài hạn như: Hưu trí, tử
tuất, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp trả hàng tháng.
*) Xét dưới góc độ cân đối thu - chi thì quỹ có 2 mô hình cơ bản:
- Mô hình toạ thu - toạ chi: Cân đối quỹ được xác định hàng năm, thu
không đủ chi thì Ngân sách Nhà nước cấp bù (giống như mô hình quỹ nước ta
trước năm 1995).

25


×