Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

Phương pháp giảm thiểu một số thảm họa thiên nhiên tại malaysia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (18.7 MB, 29 trang )

SỰ GIẢM THIỂU MỘT SỐ THẢM HỌATHIÊN NHIÊN Ở MALAYSIA

OOI, T.A.
Director – TAO Consult, 17A, Jln Awan Hijau, Taman Overseas Union,
Batu 5, Off Jln Klang Lama, 58200 Kuala Lumpur, Malaysia

Lũ lụt, lở đất, dòng chảy của đất lở và sóng thần là một trong số những thảm họa đã
từng xảy ra tại Malaysia. Lũ lụt tại Kuala Lumpur trong năm 1970 gây thiệt hại
nghiêm trọng đến tính mạng và tài sản , từ đó bắ t buộc phải vận động cho một
chương trình giảm nhẹ lũ lụt tại Kuala Lumpur.

Mặc dù việc nạo vét lặp đi lặp lại và kênh mương hóa cho dòng nước lũ ở Kuala
Lumpur trong những năm qua, Tuy nhiên thiên tai lũ lụt nghiêm trọng vẫ n xảy ra
lặp đi lặp lại tại trung tâm thành phố. Là một phần của giải pháp tổng thể cho vấn đề
ngập lụt thường xuyên , dự án hầm dẫn dòng được gọi là SMART được xây dựng và
gần đây đã được hoàn thành trong tháng 6 năm 2007.
Đường hầm này được thiết kế với mục đích kép là nhằm để phục vụ cho quá trình
thoát nước của dòng chảy và giảm bớt tắc nghẽn giao thông ở thành phố Kuala
Lumpur. Trong thời gian gần đây, biến đổi khí hậu đã mang lại lũ lụt nghiêm trọng
ở nhiều nơi của Ma-lay-xi-a với tần số tăng lên.
Lở đất đã gây ra sự sụp đổ của Khối nhà số 1 của chung cư Towers Highland trong
tháng 12 năm 1993 cướp đi sinh mạng 48 người. Sạt lở đất xảy ra trong thời gian
10 ngày với lượng mưa không ngừng . Trong tháng 11 năm 2002, một vụ lở đất khác
xảy ra và chôn các nhà gỗ tại chân đồi trong vùng lân cận của công trình Highland
Towers.

Thiên tai cũng xảy ra trong thời gian lượng mưa liên tục và 8 người đã thiệt mạng.


Trước khi sạt lở đất thảm khốc xảy ra, h ệ thống thoát nước tại khu vực Highland
Towers đã không đạt yêu cầu theo như những khiếu nại từ các cư dân đến chính


quyền địa phương .
Dòng chảy của đất lở xảy ra tại khu vực Highlands Genting nổi lên từ sườn núi quét
qua đường dẫn chầu và đất lở gây ra các mảnh vụn tạo thành dòng chảy vào đường
cao tốc ngày 30 tháng Sáu năm 1995 và đường cao tốc Kuala Lumpur-Karak phải
đóng cửa tạm thời. Thiên tai làm 20 người thiệt mạng và 23 người bị thương.

Dòng chảy của đất lở cũng xảy ra ở khu vực Tempurong Gunong dọc theo đường
cao tốc Bắc-Nam, gây ra các mảnh vỡ bao gồm những tảng đá, các mảnh gỗ và bùn
đã tác động đến những thanh dầm của một cây cầu, một đoạn của đường cao tốc
phải đóng cửa

Bài báo này báo cáo 3 trường hợp sạt lở khối đất đắp bao gồm công tác khôi phục
khối sạt lở của một sườn dốc đã không ổn định kể từ khi xây dựng. Biến đổi khí hậu
được cho là một yếu tố góp phần sạt lở đất này.

LỜI GI ỚI THIỆU
Việc đánh giá nguy cơ của việc có một thảm họa thiên nhiên và việc giảm nhẹ ấy
có tầm quan trọng nhất trong một thiết kế kỹ thuật. Thất bại trong việc đánh giá các
rủi ro một cách thích hợp có thể là một thảm họa để hoàn thành công trình. Điều gì
là quan tâm đến các kỹ sư địa kỹ thuật là công tác phòng chống và giảm nhẹ thiên
tai cũng như khôi phục các hư hỏng trong các công trình địa kỹ thuật.
Ở Malaysia, các thảm họa lớn phát sinh từ hư hỏng địa kỹ thuật như việc không
kiểm soát được trong việc đào đắp đất: lũ lụt lặp đi lặp lại của Kuala Lumpur từ
năm 1971, sự sụp đổ của chung cư Highland Towers trong năm 1993, đường vào


khu Genting Highlands bị lỡ đất vào năm 1995, sạt lở đất chôn các bungalow tại các
chân đồi trong khu vực công trường Highland Tower vào năm 2002 Dòng chảy của
đất lở , trong khu vực Gunong Tempurong Highlands dọc theo đường cao tốc Bắc
Nam.

Sóng thần tấn công Pulau Langkawi, Kuala Kedah và Penang vào ngày 26 tháng 12
năm 2004 (Ooi & Ting năm 2005) là một cuộc cảnh báo để kiểm tra tác động của
các sự kiện động đất từ nước láng giềng với Malaysia. Biến đổi khí hậu đã dẫn đến
các vụ lũ lụt khắp Malaysia trong những năm gần đây.

Giảm nhẹ, phục hồi và phòng chống thiên tai là những cân nhắc quan trọng đối với
bất kỳ thiết kế địa kỹ thuật. Dự án SMART xác nhận sự ra đời trong đợt lũ lụt tai
hại của Kuala Lumpur vào năm 1971 và sự kiện lũ lụt sau đó như thể hiện tr ong
Bảng 1 và được tin là đầu tiên thuộc loại này trên thế giới, nơi đường hầm được sử
dụng như một đường hầm mục đích kép cho cả hai kiểm soát lũ lụt và để giảm bớt
ùn tắc giao thông của Trung tâm thành phố Kuala Lumpur. Hình 1 cho thấy sự liên
kết, mặt cắt ngang của đường hầm.
Chung cư Highland Towers sụp đổ (Hình 2) cho thấy rằng điều quan trọng cho các
nhà thiết kế để xem xét tất cả các khía cạnh của nguy hiểm có thể dự đoán được các
tòa nhà liên quan đến môi trường bao gồm cả bảo trì trong tương lai. Sự ổn định của
mái dốc và cấu trúc móng của tòa nhà là không thể thiếu trong quá trình phân tích
thiết kế. Các chuyên gia phải đặt sức khỏe và an toàn t rên tất cả các yếu tố khác
trong việc xem xét thiết kế. Sự cần thiết để có được thoát nước trên và dưới bề mặt
đất từ công trường này rõ ràng từ thảm kịch này.


Dòng chảy của đ ất lở do hư hỏng sườn dốc sẽ gia tăng với sự phát triển ở những
khu vực Highlands và các biện pháp giảm thiểu được khuyến cáo phải xem xét các
yếu tố thủy lực tác động chính của dòng chảy , trong khi yếu tố địa kỹ thuật xác
định sự biến dạng của các rào chắn tự nhiên và các vật chất vỡ vụn.
Thảm họa sóng thần đã tấn công Ấn Độ Dương vào ngày 26 tháng 12 năm 2004 dẫn
đến về sự cấp thiết bách của cộng đồng địa kỹ thuật trong khu vực và Malaysia đặc
biệt để xem xét giảm nhẹ các bằng cách cung cấp thiết kế và xem xét
Table 1. Kuala Lumpur Flood Events 1926
4th January 1971

1982, 1986, 1988
7th June 1993, 21st December1995, 1996, 1997 30th April 2000
26th April 2001, 29th October 2001 11th June 2002
10th June 2003 11th June 2007

Fig. 1 Schematic alignment and cross

Fig. 2 Collapse of Block 1

section of SMART.

Highland Tower


Các chương trình giáo dục công cộng cũng nhận thức và đào tạo trong việc xử lý
các thảm họa như vậy cũng phải được thực hiện như đã thực hiện ở Nhật Bản
trong sóng thần (Ohta, 2005) và Hồng Kông (Mak et al 2007). Bài viết này đề
với một số khía cạnh của các thảm họa lở đất do đắp đất trên mái dốc ở
Malaysia.

THE LANDSLIDE INCIDENCES/ SỰ CỐ LỞ ĐẤT
Ooi (2004) trong bài giảng đặc biệt của mình thực hành đào đắp tại Malaysia đã
thảo luận về ảnh hưởng của yếu tố nước trong lần xuất hiện của lở đất. Bảng 2
cho thấy các trường hợp sạt lở đất lớn ở Malaysia. Tất cả những vụ lở đất xảy ra
trong khoảng thời gian mưa liên tục.

Bảng 2: một số trường hợp lở đất do nước

A.


Địa điểm
Bukit

Mô tả chi tết sạt lở
Sườn dốc phải xây dựng lại với việc đầm chặt cẩn

4/01/1971

Gasing,

thận và các nhà ở cũng phải xây lại

Petaling Jaya

Tòa án không đưa ra kết luận về v ấn đề lún.

Ngày

PWD internal report (Ooi, 1971).
B.

Ulu Kelang,

Sườn dốc hư hỏng do đào đất xung quanh trong

September

Ampang

kéo dài suốt thời gian mưa. Phá hủy các Bungalow


1988

Jaya

và hồ bơi
Tòa án tối cao phán quyết Các Kỹ sư Tư vấn
phải có trách nhiệm trong sự cố này với chủ nhà
Chủ nhà được trả một khoàn thất thoát khoản
RM360,000.00


Ngày
C. 2/1993

Địa điểm

Mô tả chi tết sạt lở

Ulu Kelang,

Sụp đổ khối nhà số I của tòa nhà Highland Towers

Ampang

vào ngày 11/12/1993 kéo dài trong suốt thời gian

Jaya

mưa, 48 người bị thiệt mạng . theo báo cáo của hội

đồng được khảo sát bởi MPAJ (MPAJ, 1994)
Tòa án tối cao quyết định KSTV Tòa án tối
cao phán quyết Các Kỹ sư tư vấn phải có
trách nhiệm trong sự cố này với chủ nhà

D. 6/1995

Genting,

Dòng chảy của đất lở tại Genting Highlands vào

Selangor

ngày 30/06/1995 buộc phải đóng cửa cao tốc
Kuala Lumpur –Karak Highway, làm chết 20
người, 23 người bị thường.

Thiệt hại lớn về kinh tế, phá hủy nhiều xe
cộ, đường xá và phá v ỡ hệ thống giao thông

E. 05/ 1999 Ulu Kelang,

Bờ kè Bukit Antarabangsa bị hỏng

Ampang

kéo dài trong suốt thời gian mưa.

Jaya


Đường dẫn vào Bukit Antarabangsa bị cắt đứt với
khu dân cư tại các khu vực bị giải tỏa.
Không có mất mát về con người nhưng thiệt hại
nặng nề về kinh tế và an sinh của xã hội.
Khôi phục sự cố bằng cách lắp đặt cách hệ thống
thoát nước ngang

F. 11/ 2002 Ulu Kelang,

Lở đất xảy ra lúc 6:00 kéo dài trong suốt thời gian

Ampang

mưa.

Jaya

Lở đất chôn vùi các bungalow dưới chân đồi và
làm 8 người thiệt mạng.


G. 11/2003 Bukit

Lở đá diễn ra kéo dài trong suốt thời gian mưa.

Lanjan,

Vụ Lở đá buộc phải đóng cửa cao tốc NKVE

NKVE


Highway tại Bukit Lanjan trong 6 tháng. Sườn đá
cố định và bị khối vật liệu trượt bị phá hủy và di
dời.

H. May 2006 Taman

Khối đất lở trên nền đắp củ với nhà bậc thang trên

Zooview, Ulu đầu dốc. Lượng mưa lớn liên tiếp trong tháng của
Kelang,

tháng tư và tháng năm 2006 trước khi lở đất.

Ampang Jaya

Những dãy nhà ở dưới cùng của dốc phá hủy bởi
các vật liệu sạt lở đất và bốn người trong ngôi đã
bị thiệt mạng.
Cư dân của những ngôi nhà bậc thang trên mái
dốc được sơ tán.
Chính quyền địa phương đã chỉ đạo sửa chữa mái.

Ngày

Địa điểm

Mô tả chi tết sạt lở

C.


Ulu Kelang,

Sụp đổ của Khu I của Highland Towers vào ngày

December

Ampang

11Tháng 12 năm 1993 trong khoảng thời gian kéo

1993

Jaya

dài của cơn mưa không ngừng. 48 người đã thiệt
mạng. Báo cáo Ủy ban kỹ thuật của điều tra của
MPAJ (MPAJ, năm 1994)
Tòa án Tối cao quyết định Kỹ sư tư vấn phải chịu
trách nhiệm trong vụ việc này.


D.

Genting,

Rác dòng chảy, Genting Highland vào ngày 30

June


Selangor

tháng Sáu 1995 gây ra đóng cửa cao tốc Kuala
Lumpur -Karak 20 người thiệt mạng, 23 người bị

1995

thương
Thiệt hại kinh tế, phá hủy một số xe, phá hủy
đường bộ và gián đoạn giao thông.
E.

Ulu Kelang,

Bukit Antarabangsa hư hỏng kéo dài thời gian

May

Ampang

mưa không ngừng. Đường Bukit Cư dân vào khu

1999

Jaya

Antarabangsa bị chia cắt, cư dân khu vực đã đ ược
sơ tán. Không có mất mát về người cuộc sống
nhưng thiệt hại kinh tế. Sửa chữa bằng cách lắp
đặt hệ thống thoát nước ngang.


F.

Ulu Kelang,

Sạt lở đất xảy ra lúc 06:00 trong kéo dài thời gian

November

Ampang

mưa không ngừng. Sạt lở đất chôn bungalow tại

2002

Jaya

các chân đồi và 8 người đã thiệt mạng.

G.

Bukit

Lở đá xảy ra kéo dài thời gian mưa không ngừng.

November

Lanjan,

gây ra đóng cửa quốc lộ NKVE tại Bukit Lanjan


2003

NKVE

trong sáu tháng.


GASING HEIGHT DEVELOPMENT
Lượng mưa không ngừng trong tháng 12 năm 1970 và tháng 1 /1971 tạo ra lớp
dầy vật liệu phủ lên trên sườn dốc ở Petaling Jaya và di chuyển xuống phía dưới
bờ dốc vào ngày 04 Tháng 1 năm 1971 và phá hủy 2/4 nhà cửa của chính phủ ở
phía dưới chân của sườn dốc tại hai địa điểm khác nhau thể hiện trong hình 3 và
4.

Đất lấp bở rời còn lại của đá cát kết (sa thạch) và đá phiến sét có nguồn gốc địa
chất được biết đến như thành tạo Kenny Hill với thạch anh thu được từ việc san
lấp mặt bằng đá sa thạch tại chỗ / đá phiến sét đồi để tạo ra một nền san lấp cho
các tòa nhà. Chiều cao của dốc là khoảng 30 m. Lượng mưa liên tục đã hoàn toàn
bão hòa đất và sườn dốc tạo ra một dòng chảy các mảnh vụn xuống dốc và gây ra
thiệt hại nghiêm trọng cho hai khu nhà.
Trong Hình. 3 nó có thể được nhìn thấy các mảnh vỡ vào nhà từ phía sau của của
ngôi nhà 2 tầng và nổi lên ở mặt trước của ngôi nhà nơi phòng khách. May mắn
thay, thiên tai xảy ra lúc 6 giờ sáng, khi các thành viên trong gia đình vẫn còn ngủ
và phòng ngủ của họ nằm trên một nửa khác của ngôi nhà. Bởi vì phần bị hư hại
của ngôi nhà không được sử dụng tại thời điểm đó, không có thiệt hại vê người và
không ai bị thương nhưng các tòa nhà hai tầng bị thiệt hại nghiêm trọng- Hình 4
Một lần nữa vì sự kiện lở đất xảy ra vào khoảng 5:00 các thành viên trong gia
đình vẫn còn ngủ trong phòng. Các phần bị hư hỏng của tòa nhà là nhà bếp, nhà
kho rằng tại thời điểm sụp lở đất không được sử dụng. Do đó không có thiệt hại

về con người ngoại trừ tòa nhà đã bị hư hỏng không thể sửa chữa.

Fig. 3 Landslide at Quarters 1276.

Fig. 4 Landslide at Quarters 1280.


Chính phủ đã đưa các chủ đầu tư ra Tòa án nhưng các bên đã đồng ý giải quyế t
được vấn đề của tòa án với nhà đầu tư đã tiến hành để tái tạo lạ i bờ dốc với sự
đầm chặt tốt và khôi phục lại các khu bị thiệt hại với chi phí của mình. Sự kiện
mưa tương tự tại trung tâm thành phố Kuala Lumpur bị ngập lụt vào ngày 4
tháng 1 năm 1971với các tầng hầm của các ngân hàng và cá c tòa nhà thương mại
tất cả bị chìm ngập trong nước. Số liệu ghi chép lũ lụt trước đây ở Kuala Lumpur
đã xảy ra vào năm 1926.

THE COLLAPSE OF THE HIGHLAND TOWERS

Vào lúc 1:30 Ngày 11 tháng 12 1993, mưa liên tục trong 10 ngày, Khối nhà số 1
của chung cư Highland Towers sụp đổ làm thiệt mạng 48 người và 2 khối tháp
còn lại vẫn không thể sử dụng. Khối nhà số 1 của tháp chung cư bị sụp đổ 1 được
hiển thị trong Hình 2. Chính quyền địa phương (MPAJ, 1994) thiết lập một Ủy
ban Kỹ thuật giải đáp thắc mắc và các kết quả được báo cáo như sau:

1. Chung cư Highland Towers được đặt chủ yếu trên nền đất đắp và nằm trên
khối granit. Độ sâu tối đa từ mặt đất đến lớp đá gốc khoảng 19m. Đá granit tìm
thấy trong và xung quanh các khu vực không phải là khoáng chất hòa tan cao ảnh
hưởng xấu đến sự ổn định của nền móng.
2. Đất nằm phủ nền tảng granit là cát lẫn bụi kết cấu rất rời rạc và hệ số thấm cao
3. Móng cho tất cả các khối Cao ốc được hỗ trợ trên các cọc tường chắn được
thiết kế để chịu tải thẳng đứng.

4. Hệ thống thoát nước bề mặt được cung cấp không như đồ án đã được phê
duyệt.
Tình huống tồi tệ hơn khi công tác đào đắp thay đổi các mô hình thoát nước trên
dốc đồi phía sau khối chung cư và hệ thống thoát nước có sẵn đã không được bảo
trì.
5. Việc phát quang các cây trên lưu vực trên tăng chảy tràn, chảy xuống các bậc
thang đồi dốc ngay phía sau tòa tháp
6. Sườn dốc di chuyển ngược sự mất khối lượng đất tại chân ở phía sau tại khối


nhà số 1 của chung cư mặt sau của Khối nhà số 1 chung cư (xem hình 5).
7. Các mảnh vỡ tích tụ phía sân sau của khối nhà số 1 của chung cư gây ra sự sụp
xảy ra bên dưới toàn bộ móng cọc tường chắn đưa xuống Khối nhà số 1 của
chung cư, sự cố sạt lở đất trong vòng vài phút những. (Hình thức của sự hư hỏng
này đã đư ợc loại trừ bởi phiên Tòa án Tối cao. Yee (2008) đã phân tích chỉ ra
rằng Hình thức của sự hư hỏng là không thể chấp nhận.)

Sự cố được nêu ra trong báo cáo MPAJ 1994 và đã được chấp nhận bởi Tòa án
Tối cao chỉ trên các dữ liệu thực tế có trong báo cáo. Những phát hiện trong báo
cáo đã được loại trừ trong suốt phiên Tòa án Tối cao, kết quả chắn chăn , trên cơ
sở các bằng chứng, được xét đến. Sự hư hỏng do sườn dốc dịch chuyển ngược đã
được chấp nhận như là nguyên nhân của sự sụp đổ của khối nhà số 1 của Towers
Highland và nước từ bên trên sườn dốc cùng với hệ thống thoát của nó và quá
trình bảo trì là yếu tố chính góp phần vào hư hỏng của mái dốc.

Fig. 5 Retrogressive Slope Failure

Hiệp hội thường trú nhờ đến Tòa án Tối cao (Steve Phoa Chen Loon & Ors
Highland Sdn Bhd & Ors, 2000) và Tòa án cao tìm ra nguyên nhân lở đất gây ra
sự sụp đổ Khối nhà số 1 của Nhà chung cư Towers Highland cụ thể là do Sự hư

hỏng do sườn dốc dịch chuyển ngược phát ra từ một bức tường chắn cao phía sau


tầng 2 tầng 3 bãi đỗ xe. Nước được cho là yếu tố chính gây ra hư hỏng của bức
tường .
Bài học kinh nghiệm từ các quyết định của Tòa án Tối cao vào tháng 8 năm 2000
như sau:
Kỹ sư chịu trách nhiệm trong sự sơ suất (i) không xét đến đồi hay sườn dốc phía
sau Towers, (ii) không có thiết kế và xây dựng một nền móng phù hợp với tải
trọng bên của một vụ lở đất hoặc đã đảm bảo rằng ngọn đồi lân cận độ dốc ổn
định, (iii) không thực hiện đề án thoát nước phê duyệt, (iv) thông đồng với các bị
đơn đầu tiên (phát triển) và thứ hai (kiến trúc Draughtsman) để có được CF mà
không hoàn thành các điều kiện áp đặt bởi bên Bị Cáo thứ tư (chính quyền địa
phương). Nộp đơn kháng cáo của bị cáo và Tòa án phúc thẩm vào tháng 12 năm
2002 vẫn duy trì các kết quả thực tế của Tòa án Tối cao. Các trường hợp đi xa
hơn để Tòa án Liên bang và sự phán xét vào tháng 2 năm 2006, yêu cầu bồi
thường thiệt hại kinh tế của người dân đã bị từ chối.
Trường hợp này có ý nghĩa quan trọng đối với các nhà phát triển, chuyên gia xây
dựng, chính quyền địa phương, những chủ đất vắng mặt và các chủ đầu tư
Malaysia. Khi trận chiến Toà án đang tiếp diễn, hai tháp khác đã được tuyên bố
không an toàn để cư ngụ và đã phải bỏ trống và không giám sát thậm chí cho đến
ngày hôm nay, 15 năm sau sự cố này.
Nhìn chung, nước đã là nguyên nhân chính của nhiều hư hỏng bờ dốc như có thể
thấy trong bảng 2. Việc thiết kế nên xét đến thoát nước phù hợp bên trên và ên
dưới bề mặt dốc. Sử dụng đất đắp cho sườn dốc và nền đắp không được cho phép
trong bất kỳ trường hợp nào, nhưng thực tế điều này vẫn không suy giảm.

Rainfall Records
Kể từ khi tìm ra nguyên nhân là nước và thoát nước kém là các yếu tố chủ yếu
gây ra sự sụp đổ dốc và một trong các tòa nhà cao, điều quan trọng là sau đó nhìn

vào lượng mưa tích lũy 3 tháng trước khi sự sụp đổ của dốc và tháp. Hình 6 cho
thấy sự phân bố lượng mưa từ tháng 9 - tháng 12 năm 1993. Trên cùng một con
số, lượng mưa tích lũy cũng đã được vẽ. Có thể thấy rằng lượng mưa tích lũy vào
ngày của sự kiện bi thảm là khoảng 900mm. Lượng mưa hàng năm cho năm


1993 là 2604mm. Như vậy, tích lũy lượng mưa từ tháng Chín đến 11 tháng 12
năm 1993 chiếm 35% lượng mưa hàng năm. Cường độ mưa ngh iêm trọng trong
tháng của tháng mười hai trước khi đến ngày khi độ dốc và Khối Tower 1 sụp đổ.
Dòng chảy rò rỉ sẽ đóng một vai trò trong sự sụp đổ của sườn dốc kể từ khi nước
nổi lên từ các bức tường đổ nát từ chân của sườn dốc có thể gây ra mất hỗ trợ
như là vật liệu bị sụp đổ đã dẫn đến sự phá hủy mái dốc.

Fig. 6 Daily rainfall from 1/9/93 – 12/12/93 recorded at the DID Ampang Station.

TAMAN ZOOVIEW LANDSLIDE

Vào khoảng 4:30 Ngày 31 Tháng Năm năm 2006, một vụ lở đất xảy ra ở phía sau
của một dãy nhà bậc thang nằm trên sườn dốc của Taman Zooview. Các thiệt hại
sau đây đã được báo cáo kể đến:

a) Xây dựng mới tường đất gia cố cao 6m và 40m dài tại Taman Zooview sụp đổ
và di chuyển khoảng 100m xuống dốc.

b) Sự di chuyển lan rộng ở phía bên sườn dốc xuống của bức tường dẫn đến sự
phá hủy của ba ngôi nhà dài ở phía dưới của mái dốc và mất bốn mạng người.


c) 16 nhà bậc thang nằm trên độ dốc ở Taman Zooview được lệnh sơ tán của
chính quyền địa phương và coi là không an toàn.


The Geology
Địa chất của toàn bộ khu vực bị ảnh hưởng bởi sạt lở đất tại Zooview Taman,
bao gồm cả tại khu nhà bậc thang tại Taman Zooview được cấu tạo bởi đá phiến
graphitic thuộc địa tầng Hawthorden.
Đá phiến này xuất hiện ở một số địa phương ở sườn cắt dọc theo con đường dẫn
đến từ lối vào vườn thú Taman Zooview, cũng được coi như là đá tảng hoặc đất
còn lại. Đá phiến tương tự cũng xuất hiện trong một lần khai quật lớn nằm ngay
phía Đông của nhà bậc thang nói trên. Đá phiến Hawthornden có thể được nhìn
thấy bị xâm nhập từ granite và từ mạch thạch anh; từ đê điều trong cuộc khai
quật lớn cho sự phát triển nhà ở tại khu vực tiếp giáp với khu công trường bị sạt
lở. Lỗ khoan điều tra cho thấy nhà bậc thang nằm trên mặt đất lấp đầy với chỉ số
SPT rất thấp. Sạt lở đất liên quan đến vật liệu đất đắp tại sân sau của ngôi nhà
bậc thang được xây dựng trên mặt đất lấp đầy trong thung lũng trong hơn 20 năm
trước đây. Vì vậy, sạt lở đất về cơ bản là một đất đắp cổ điển vấn đề với hệ thống
thoát nước kém. Nó không phải là phạm vi của bài viết này để thảo luận về các
yếu tố gây ra lở đất.

Tip fill slope
Mười sáu (16) nhà ở bậc thang nằm trên đỉnh sườn dốc và được xây dựng trên
nền đất dày 13m qua một khe núi với nền đất rời rạc ở tại sân sau đã liên tục
trượt trong vòng 20 năm qua kể từ khi ngôi nhà được xây dựng. Hệ thống thoát
nước kể từ đó đã không được hoạt động. Để làm cho vấn đề tồi tệ nhất, người dân
địa phương đã bừa bãi xả nước sinh hoạt và nước mưa lên mái dốc từ nhà của họ.
Xem 7 và 8 tương ứng hiển thị các bức ảnh được chụp vào năm 2004 với đi ều
kiện độ dốc với bao tấm bạc và đường ống thoát nước nhô ra khỏi dốc đối với
một trong các ngôi nhà với phần mở rộng đậu bấp bênh trên dốc. Đằng sau những


tấm nhựa bao gồm tất cả không phải là tốt. Theo các chủ sở hữu nhà, độ sườn dốc

đắp ở sân sau đã bị trượt / xói mòn kể từ khi hoàn thành và đã trở thành quan
trọng khi các cạnh của độ dốc đến gần nhà. Nước từ máng xối của ngôi nhà được
nối với nhau bằng ống nhựa xả tiếp tục xuống dốc.
Phân tích ổn định mái dốc cho thấy rằng tại khu vực bờ dốc bị trượt hệ số an toàn
là 1.05
Độ dốc như vậy, Mái dốc nằm bấp bênh và trượt lở có thể được dự kiến sẽ xảy ra
bất cứ lúc nào, đặc biệt là với lượng mưa không ngừng và hệ thống thoát nước
kém. Hình 9 cho thấy sơ đồ đường đồng mức tại công trường sau khi sạt lở đất.
Hai phần của sườn dốc là đặc trưng khác nhau, sườn dốc bên trên bao gồm đất
đắp của đá phiến Hawthornden và nửa thấp hơn nơi mà các vật liệu màu vàng có
thể nhìn thấy có nguồn gốc từ đá granite. Xét cả hai mặt của sườn dốc phía dưới
các vật liệu cũng pủ lên trên lớp đất đá granite còn lại . Ở đoạn cuối của sườn dốc
phía dưới, có một lớp bồi tích bao gồm các vật liệu hữu cơ khoảng nằm p hía trên
lớp đ á granite phong hoá dày1m chỉ số SPT lớn hơn 50 búa. Địa chất tại khu vực
công trường có thể được cho là phức tạp. Bức ảnh chụp lớp khác nhau có thể
được tìm thấy trong các phần tiếp theo trong quá trình khôi phục sườn dốc

Fig. 7 Condition of slope in 2004

Fig.Drainage discharging into slope 2004


The Reinforced Soil Wall
Khi các cư dân của những ngôi nhà bậc thang phàn nàn với chính quyền địa
phương về sự dịch chuyển của sườn dốc , Một cuộc họp tại công trường đã được
tổ chức mà ở đó chính quyền địa phương chỉ đạo các nhà đầu tư cần phải gia cố
để ổn định sườn dốc phía sau nhà bậc thang và gia cố một bức tường đất 40m
được gia cường trên cọc và bản sàn bê tông cốt thép và xây dựng bởi một nhà
thầu chuyên nghiệp. Sự ổn định tổng thể và mái dốc phải lớn hơn 1,4. Thiết kế đã
được xem xét và phê duyệt bởi đơn vị độc lập được chỉ định bởi chính quyề n địa

phương. Các điều kiện thoát nước của mái dốc ở phía sau của ngôi nhà vẫn như
cũ tại thời điểm bức tường được xây dựng.
Có một kế hoạch tổng thể để kết nối tất cả các cống rãnh từ các ngôi nhà với cống
thoát nước mưa, tiếc là kế hoạch quá sớm đ ể được thực hiện sau đó. Một chỉ thị
từ chính quyền địa phương khẩn trương hoàn thành bức tường vì sợ mùa mưa,
việc xây dựng các bức tường mất khoảng 6 tuần để đạt được chiều cao đầy đủ củ a
nó. Độ dốc đằng sau nhà bậc thang và tường sụp đổ 10 ngày sau khi bức tường
đạt tới chiều cao đầy đủ của nó từ 6 đến 7m vào ngày 31 Tháng Năm 2006. Các
vật liệu sạt lở di chuyển khoảng 100m xuống dốc và gây ra biến động lớn của mặt
đất dẫn đến sự hủy diệt của nhà tạm bợ và làm chết của 4 người. Hình 10 cho thấy
tổng thể của vụ lở đất.
Ghi chép Lượng mưa
Tổng lượng mưa trong những tháng liên tiếp của tháng 5 năm 2006 và 11 tháng
trước, cao hơn rất nhiều so với các phương tiện quan trắc lâu dài. Đó là bằng
chứng rằng khu vực này đặc biệt ẩm ướt và theo số liệu được ghi lại bất thường là
lượng mưa cao trong tháng 10 năm 2005 đến tháng 5 năm 2006. Thời gian kéo
dài của lượng mưa và / hoặc mưa có cường độ c ao là mẫu số chung về thiên tai
bởi lũ do mưa gió mùa & lũ quét, sạt l ở đất. Hiện tượng này được cho là liên quan
đến biến đổi khí hậu. Hình 11 hiển thị biểu đồ của các bản ghi lượng mưa.


Location of RE WALL

Fig. 9 Contour Plan of Landslide Area.

The total amount of rainfall during the consecutive months of May 2006 and the
11 months preceding it were very much higher than the long term means. It is
evident that the area was exceptionally wet and registered unusually high
rainfall during October 2005 to May 2006. The prolonged period of rainfall
and/or the intense rainfall is common denominator in the incidence of

monsoonal and flash flood, mudflow and landslide events. Such phenomenon
is believed linked to climate change. Fig. 11 shows the histogram of the rainfall
record.

Rehabilitation of failed slope
Như đã đ ề cập trước, 16 nhà bậc thang được cho là không an toàn cho sinh sống
theo chính quyền địa phương
Và người dân đã được sơ tán. Có sự lo lắng trong cư dân và sức ép lên chính
quyền địa phương để khôi phục lại các nhà bậc thang một cách an toàn để người
dân có thể di chuyển trở lại nhà của họ. Công tác sửa chữa cần lưu ý một số yếu
tố sau:


Fig. 10 General view of Landslide.

a) Sự an toàn của 16 ngôi nhà bậc thang đã dược thực hiện t rong suốt quá trình
sửa chữa
b) Sự an toàn của dốc
c) Xem xét thiết kế phát triển tươn g lai của đất
d) Xem xét yếu tố kinh tế cho công tác sửa chữa.
Theo sau đây được thực hiện trước khi bắt đầu công việc sửa chữa:
a) Một cuộc khảo sát điều kiện trong số 16 nhà bạc thang đã được thực hiện.
b) Sự đồng ý của chủ sở hữu để vào nhà bậc thang để tiếp tục theo dõi hoạt độ ng
trong các công việc sửa chữa sườn dốc.
c) Chấp thuận của chính quyền địa phương cho đề xuất sửa chữa.
d) Lắp đặt thiết bị quan trắc để theo dõi sự chuyển động của độ dốc và c ác tòa nhà
sử dụng đo nghiêng và các trạm đo lún.


Concept of Design/ thiết kế ý tưởng

Một nền đắp bằng đá tảng dưới chân sườn dốc tại một khoảng cách an toàn như
trong các Hình 12 và 13. Các tảng đá chính được đưa xuống lớp vững chắc của đá
granit phong hóa tại RL 64m. Ống thoát nước đã được cung cấp để lấy nước
ngầm. Ống thoát này đặt trên lớp đất dẻo cứng của đá granit phong hóa là một
lớp vật liệu hữu cơ mềm dày khoảng 1m dày. Lớp này được cho là mặt trượt ở
phần dưới của độ dốc đó là chịu trách nhiệm cho những biến động của mặt đất
được chỉ định như Hình 10. Lớp này đã được loại bỏ hoàn toàn ở phía cuối con
dốc.
Do đó, xây dựng được chia thành 5 giai đoạn đào đắp và ở mỗi giai đoạn phân
tích ổn định mái dốc được thực hiện. Hình 14 cho thấy các yếu tố an toàn cho các
giai đoạn khác nhau của đào đắp. Hình 15 cho thấy các yếu tố an toàn cho độ dốc
hoàn thành. Có thể thấy rằng giai đoạn quan trọng nhất của xây dựng với một yếu
tố an toàn là 1,25 trong giai đoạn 5 như Hình 14. Mức giảm cao độ đào đắp là
là 78.5m. Ở độ cao này, nền đắp thứ hai bắt đầu với tăng cường Tensar geogrid
(lưới ĐKT) đã được lựa chọn dựa trên tính toàn vẹn, độ cứng và sức mạnh của nó
tại các mối nối của geogrids cũng như khả năng huy động sức sức kháng cắt thấp
của đất.

Fig. 11 Histogram of monthly rainfall record.


Fig. 12 Plan view of lower and upper embankments.

Fig. 13 Typical Cross Section


Biện pháp thi công
1) Phần dưới của sườn Tại công trường đất lở bị ngập sũng nước (Hình 16) và
được tháo nước. Hệ thống mương tại phía dưới sườn dốc trượt lở được đào và đất
ngập nước đ ược tháo nước và tất cả các hướng nước mùa mưa hiện tại hiện tại

thông qua một ao lắng bùn trong công trường.
2) Tất cả mặt nước bị chuyển hướng và ngăn chặn xâm nhập vào khu vực thung
lũng. Tất cả các nước mái từ các ngôi nhà sân thượng công trình được dẫn ống từ
khu vực sườn dốc.
3) Hệ thống thoát nước lớp dưới bề mặt được cung cấp trong khu vực thung lũng
nơi dòng chảy / dòng thấm nước nổi lên và dẫn đi từ thung lũng (Hình 17). Bộ
lọc phù hợp được cung cấp cho lượng nước dòng chảy / dòng thấm / rò rỉ vào hệ
thống nên đường ống lâu bền là cần thiết (Hình 18).
4) Tất cả các tài liệu sạt lở đất được loại bỏ trong các khu vực và các giai đoạn.
Vật liệu phù hợp được dự trữ để tái sử dụng. Vật liệu không phù hợp được di dời
ra khỏi công trường .
5) Dãy đá phía dưới sườn dốc được xây lại bắt đầu từ những tảng đá chính
(Hình19) và được xây theo từng đoạn để không gây ra sự mất ổn định độ dốc.
Đây là một phần quan trọng của công tác sửa chữa mái dốc và phải được cẩn
thận thực hiện và kiểm tra. Trong quá t rình xây dựng, thiết bị quan trắc đã cho
thấy không có chuyển vị hay lún trong những ngôi nhà.
6) Khắc phục khu vực lở đất
i) Đào từng đoạn đến đất nguyên thuỷ , khoảng 6m sâu, vật liệu phù hợp dự trữ để
tái sử dụng và cần đầm chặt nền đất đào đến độ chặt K=90% theo tiêu chuẩn BS.
ii) Đổ và đầm chặt lớp lớp cát / lớp tổng hợp dày 800mm (Hình 20). Xả hết nước
vào các hào/ rãnh. Ở dưới cùng của rãnh, nước được dẫn đi với đường ống xả
phù hợp đến đường cống rãnh bên đường. Dẫn tất cả các nước để cửa xả thải phù
hợp và cống nước mưa.



Fig. 15 Factor of Safety of Completed Slope.

iii) Đổ và đầm chặt đất khô tại chổ lên trên lớp cát/ đất tổng hợp đã đầm chặt với
bề dày không quá 1000mm, được đổ theo từng lớp xây dựng trong 4 lớp 250mm

đầm với độ chặt đa 90% theo TC BS. Thí nghiệm xác định độ hặt tối ưu trong
phòng trước khi tiến hành công tác đầm chặt hiện trường .
iv) Đổ và đầm chặt các lớp cát/ đất cấp phối dày 300mm như trong mục 6 (ii) ở
trên và lặp lại mục 6 (iii).
v) Xây dựng xen kẽ các lớp vật liệu cát / đất cấp phối và đất tại chổ phù hợp với
chiề u cao an toàn
vi) Đào phần tiếp theo và lặp lại mục 6 (i) đến 6 (v).
vii) đào đắp trong khu vực nói chung phải đồng bộ hóa và theo dõi chặt chẽ của
việc xây dựng bờ dốc bằng lưới Đkt geogrid.
viii) Tất cả công tác đào đắp đất cần phải trồng lại cỏ và tưới nước cho đến khi cỏ
phát triển
ix) Tất cả các công trình thoát nước phải được xây dựng cùng với việc hoàn thành
giai đoạn đào đắp.

7.Phía trên của nền đắp cần sử dụng lưới ĐKT Geogrids gia cường
x) Phía trên của nền đắp cần sử dụng lưới ĐKT Geogrids gia cường được trên mặt
đất có khả năng chịu tải khả năng này được xác định thông qua các lỗ khoan và


và bằng pp thăm dò JKR . Các đầu dò JKR đã được thực hiện trong lưới khép kín
và có thể được thực hiệ n trước các việc sửa chữa bờ dốc.
xi) Việc xác định cao độ của lưới ĐKT đẳng hướng cho nền đắp cần được kiểm
tra trước khi đổ các lớp đá đầm chặt với phù hợp với kênh thoát tổng hợp.
xii) Xây dựng nền đắp với lưới ĐKT đẳng hướng Geogrids bên trên (Hình 21)
được thực hiện theo các bước trong mục 6 ở trên.
xiii) Khoá chịu cắt thích hợp được nền đắp với lưới ĐKT Geogrids phía trên

8. Quan trắc
Công cụ quan trắc bao gồm thiết bị đo mực nước ngầm, bàn đo lún, và thiết bị đo
nghiêng được lắp đặt và giám sát bởi đơn vị độc lập theo quy trình, kết quả được

trình cho KSTV để đưa ra quyết định cần thiết trong quá trình thi công và bảo trì .

9. Thoát nước của mái dốc
Thoát nước tổng bao gồm thoát nước dưới bề mặt cống, thoát nước cho bờ đê ,
thoát nước theo tầng, hố ga, hố thu nước bẩn và cống nước mưa, tất cả các thiết
kế và xây dựng để đảm bảo rằng toàn bộ công trình là đầy đủ và đúng để tháo
nước.
Bờ dốc đã được phục hồi thành công như trong các hình. 22-24 và người dân đã
chuyển trở lại nhà của họ. Đây là một sự tương p hản tuyệt vời để hai khối Towers
Highland vẫn còn đứng trống sau 15 năm kể từ thời điểm xảy ra sự việc. Hình 25
cho thấy tình trạng của sân sau của ngôi nhà trước khi sửa chữa.



×