Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Héo rũ gốc mốc trắng địa hoàng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.66 MB, 83 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xa xưa, ông cha ta đã xây dựng một nền y học dân tộc bền vững và
có bản sắc riêng, Đảng và Chính phủ luôn quan tâm tới nguồn dược liệu làm
thuốc, phát triển nền Y học Việt Nam trên cơ sở kết hợp giữa Y học cổ truyền
và y học hiện đại. Đặc biệt, trong thời kỳ hội nhập WTO, Chính phủ đã xác
định thế mạnh của Việt Nam là dược liệu. Do vậy, định hướng phát triển công
nghiệp dược của Việt Nam giai đoạn đến năm 2015 và tầm nhìn đến năm
2020 chú trọng phát triển nguồn nguyên liệu làm thuốc đi từ nguồn dược liệu
mà Việt Nam nuôi trồng và chế biến được.
Bắc Giang là một tỉnh trung du miền núi có nhiều lợi thế về khí hậu cho
nhiều loài cây, đặc biệt là cây thuốc. Nhiều loại dược liệu được trồng tại Bắc
Giang và cung cấp cho thị trường trong nước. Trong các loại cây này có thể
kể đến là sinh địa, địa điền, thảo quyết minh, cỏ ngọt… Đặc biệt, cây sinh địa
(Rehmannia glutinosa Libosch) được đánh giá là một loại dược liệu quý. Cây
sinh địa có nguồn gốc từ Trung Quốc thuộc họ hoa mõm chó
(Scrophulariaceae). Năm 1958, giống sinh địa lần đầu được nhập nội vào Việt
Nam từ Trung Quốc, Viện Dược liệu sau đó đã nghiên cứu di thực thuần hóa
thành công và đưa vào phát triển trồng đại trà. Từ củ sinh địa người ta chế
biến thành các vị thuốc địa sinh, can địa hoàng, thục địa. Các vị thuốc này đều
được dùng phổ biến trong Y học cổ truyền, nhất là thục địa (củ sinh địa sau
khi nấu chín), ngoài ra sinh địa cũng có thể dùng tươi. Với những lợi thế vượt
trội của cây sinh địa, trong thời gian qua nhiều đơn vị đã quan tâm phát triển
trồng và khai thác sinh địa làm nguyên liệu thuốc cho Y học cổ truyền.
Qua quá trình trồng trọt và theo dõi, chúng tôi nhận thấy cây sinh địa bị
bệnh thối gốc gây chết hàng loạt, đặc biệt là trong điều kiện thời tiết nắng


2



nóng và độ ẩm cao. Theo quan sát của nhóm nghiên cứu bảo vệ thực vật Viện
Dược liệu, nhiều ruộng trồng sinh địa tại huyện Việt Yên và thành phố Bắc
Giang năm 2013, tỷ lệ bệnh lên tới 50 - 60%, có ruộng thậm chí còn không
cho thu hoạch. Điều này gây ảnh hướng lớn tới năng suất, chất lượng sinh địa
dược liệu, gây khó khăn cho viêc mở rộng diện tích sản xuất sinh địa tại Bắc
Giang. Kết quả phân lập ban đầu tại Trung tâm nghiên cứu trồng và chế biến
cây thuốc Hà Nội cho thấy nấm Sclerotium rolfsii có thể là nguyên nhân gây
bệnh. Để khẳng định tác nhân gây bệnh thối gốc cây sinh địa, tìm hiểu quy
luật phát sinh, phát triển của bệnh và chủ động việc phòng trừ nấm bệnh đạt
hiệu quả cao nâng cao năng suất, chất lượng sinh địa dược liệu, chúng tôi thực
hiện đề tài “Nghiên cứu bệnh thối gốc trên cây sinh địa (Rehmannia glutinosa
Libosch) và đề xuất một số biện pháp phòng trừ bệnh tại Bắc Giang”.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Xác định tác nhân gây bệnh thối gốc trên cây sinh địa, đặc điểm phát
sinh, phát triển của bệnh và các biện pháp phòng trừ bệnh có hiệu quả cao
phục vụ cho nhu cầu sản xuất giống và dược liệu sinh địa.
3. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa khoa học:
+ Đây là nghiên cứu đầu tiên về bệnh thối gốc trên cây sinh địa tại Việt
Nam. Kết quả của đề tài sẽ cung cấp dẫn liệu khoa học về triệu chứng, quy
luật phát sinh, phát triển của bệnh thối gốc sinh địa và đặc điểm sinh học, sinh
thái nấm gây bệnh.
+ Đề tài sẽ đưa ra các kết quả về các yếu tố ảnh hưởng đến phát sinh và
gây hại của bệnh thối gốc sinh địa làm cơ sở khoa học để xây dựng và đề xuất
các biện pháp phòng trừ có hiệu quả và làm tài liệu phục vụ cho đào tạo và
cho các nghiên cứu ứng dụng khác.
- Ý nghĩa thực tiễn:



3

+ Kết quả của đề tài giúp cho chẩn đoán chính xác triệu chứng, tác
nhân gây bệnh thối gốc cây sinh địa tại Bắc Giang, các cán bộ BVTV có thể
nhận biết bệnh trong điều tra và phòng trừ bệnh.
+ Đề xuất các biện pháp phòng trừ hiệu quả góp phần hạn chế bệnh,
giảm lượng thuốc hóa học sử dụng trên đồng ruộng, nâng cao năng suất, chất
lượng sinh địa, góp phần nâng cao thu nhập cho người dân.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Tác nhân gây bệnh thối gốc trên cây sinh địa
tại xã Dĩnh Trì, thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu nấm bệnh gây thối gốc cây sinh địa
tại Bắc Giang, các đặc điểm gây hại của bệnh và một số biện pháp phòng trừ
có hiệu quả và an toàn với môi trường
- Thời gian nghiên cứu: Tháng 6 năm 2014 đến tháng 6 năm 2015


4

CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Cơ sở khoa học của đề tài
1.1.1. Tiềm năng cây thuốc ở Việt Nam và vấn đề bệnh hại
Việt Nam nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, vị trí kéo dài từ
8 - 24 độ vĩ Bắc, địa hình ¾ là đồi núi kéo dài từ Bắc vào Nam, điều kiện thổ
nhưỡng đất đai khá phong phú, phù hợp để trồng trọt và phát triển nhiều loài
cây thuốc quý, có giá trị bồi bổ sức khỏe và giá trị chữa bệnh cao. Theo Ngô
Quốc Luật (2012) Việt Nam hiện đang có khoảng 12.000 loài thực vật bậc
cao, trong đó có khoảng 4.000 loài được sử dụng làm thuốc, chiếm tới gần
20% tổng số loài cây thuốc được ghi nhận trên thế giới. Nhiều loài thuốc có
trữ lượng lớn, tuy nhiên nếu dựa vào nguồn nguyên liệu này để sản xuất thuốc

sẽ không ổn định, việc khai thác không có kế hoạch và không có biện pháp
bảo tồn, duy trì và tái sinh sẽ làm cho nguồn dược liệu ngày một cạn kiệt và
có nguy cơ tuyệt chủng.
Theo báo cáo tổng kết công tác dược năm 2000 – 2005 của Cục quản lý
dược, trong khoảng 4000 loài cây thuốc đang được sử dụng hiện nay có gần
90 % là cây thuốc mọc tự nhiên, tập trung chủ yếu trong các quần xã rừng, chỉ
có gần 10 % là cây thuốc trồng. Theo số liệu thống kê của ngành Y tế, mỗi
năm ở Việt Nam tiêu thụ từ 30 - 50 nghìn tấn các loại dược liệu khác nhau để
sử dụng trong y học cổ truyền làm nguyên liệu cho công nghiệp Dược và xuất
khẩu. Trong đó, trên 2/3 khối lượng này được khai thác từ nguồn cây thuốc
mọc tự nhiên và trồng trọt trong nước. Riêng từ nguồn cây thuốc tự nhiên đã
cung cấp tới trên 20.000 tấn mỗi năm. Khối lượng dược liệu này trên thực tế
mới chỉ bao gồm từ hơn 200 loài được khai thác và đưa vào thương mại có
tính phổ biến hiện nay. Bên cạnh đó, còn nhiều loài dược liệu khác vẫn được
thu hái, sử dụng tại chỗ trong cộng đồng và hiện chưa có những con số thống


5

kê cụ thể. Từ nguồn tài nguyên dược liệu này, nhiều loài cây thuốc đã được
sử dụng để chiết tách các hoạt chất làm thuốc như: Rutin từ Hoa hòe
(Sophora japonica); berberin từ Vàng đắng (Coscinium fenestratum);
vinblanstin và vincristin từ Dừa cạn (Catharanthus roseus); artemisinin từ
Thanh cao hoa vàng (Artemisia annua); methol và tinh dầu từ Bạc hà
(Mentha arvensis); beta caroten và lycopen từ Gấc (Momordica
cochinchinensis); Đ-strophantin từ hạt quả Sừng dê (Strophantus divaricatus);
rotundin từ nhiều loài Bình vôi (Stephania spp.); papain từ Đu đủ (Carica
papaya); diosgenin từ Củ mài (Dioscorea persimilis) và Râu hùm (Tacca
chantrieri ); curcuminoid từ Nghệ (Curcuma longa); morantin từ Mướp đắng
(Momordica charantia); andrographolid từ Xuyên tâm liên (Andrographis

paniculata); shikimic acid từ Hồi (Illicium verum); taxol từ Thông đỏ (Taxus
wallichiana )…Bên cạnh đó, từ các dược liệu đã nghiên cứu thành công và
sản xuất nhiều loại thuốc có giá trị chữa bệnh, như: Bidentin từ Ngưu tất,
Morantin từ Mướp đắng; Abilin từ Nhân trần; Abivina từ Bồ bồ; Raucaxin từ
Ba gạc; Ngũ sắc từ cây Cứt lợn, Dihacharin từ Diệp hạ châu; Kim tiền thảo từ
Kim tiền thảo; Ampelop từ Chè dây; Angala và Angelin từ Đương qui…Đáng
lưu ý rằng, phần lớn khối lượng dược liệu kể trên được dùng làm thuốc trong
y học cổ truyền. Số lượng dược liệu để chiết xuất hoạt chất làm thuốc còn ở
mức khiêm tốn (mới chỉ khoảng 50 loài).
Hiện nay, việc trồng trọt phát triển sản xuất dược liệu tạo vùng trồng,
tạo nguồn nguyên liệu làm thuốc chủ động đang được tiến hành một các mạnh
mẽ, có nhiều địa phương, các doanh nghiệp đã chủ động phát triển các vùng
trồng nhiều loài cây thuốc, tuy nhiên trong thực tế đã gặp không ít khó khăn
về khách quan và chủ quan đã làm hạn chế công tác phát triển dược liệu
chung của đất nước, trong đó có nguyên nhân hết sức quan trọng là sự phát
sinh phát triển của sâu bệnh hại trên các đối tượng cây làm thuốc, đã gây thiệt


6

hại nghiêm trọng nhiều diện tích sản xuất dược liệu và hạt giống, làm thiệt hại
đáng kể về chất lượng lẫn năng suất cây trồng sau thu hoạch.
Các loại bệnh hại cây trồng phần lớn có phổ ký chủ rộng, chúng gây hại
cây này rồi tràn sang cây khác trên cùng một vùng trồng. Sự phát sinh phát
triển của các loài bệnh hại có liên quan đến các cây dại, các loài cây rừng ở
xung quanh các cánh đồng, vùng trồng cây thuốc. Nhiều loài cây dại là ký chủ
phụ của bệnh. Một số loài bệnh hại có giai đoạn ngủ nghỉ trên cây dại hoặc
trong các thảm lá mục trong rừng, trong đất trên đồng ruộng hoặc ở các đám
đất hoang, do vậy việc phòng trừ các loại bệnh hại cần phải chú ý đến công
tác vệ sinh đồng ruộng, thu dọn tàn dư cây trồng và tiêu diệt cây cỏ dại.

Nghiên cứu về bệnh hại và biện pháp phòng trừ trên cây thuốc đặc biệt là các
bệnh hại mới sẽ hạn chế sự phá hoại của sâu bệnh, có ý nghĩa lớn lao trong
công tác bảo vệ cây trồng, tạo ra nguồn nguyên liệu làm thuốc an toàn, phục
vụ nhu cầu sức khoẻ của cộng đồng.
1.1.2. Giới thiệu cây sinh địa
1.1.2.1. Danh pháp, nguồn gốc lịch sử
Theo Nguyễn Tiến Bân (1979) cây sinh địa (Rehmannia glutinosa
Libosch) thuộc họ Hoa mõm chó (Scrophulariaceae) là cây thân thảo cao từ
20cm đến 40cm, toàn thân cây có lông trắng mềm. Thân rễ phình thành củ,
lúc đầu mọc thẳng, sau đâm ngang, mỗi cây có 5 – 7 củ, củ có cuống dài, vỏ
củ màu đỏ nhạt, đường kính thân củ từ 1cm đến 4 cm. Lá hình trứng lộn
ngược đến hình bầu dục dài, đuôi lá tù, mép lá có răng cưa tù không đều
nhau, lá có nhiều nếp nhăn, lá dưới gốc dài hẹp, lá dài từ 3 – 15 cm, rộng từ 1
– 6 cm. Hoa hình chuông mọc thành chùm ở đầu cành, đài hoa hình chuông,
bên trên nứt thành 5 cánh, tràng hình ống hơi uốn cong, đầu khía 5 cánh,
giống như hình môi, mặt ngoài màu đỏ tím, mặt trong màu vàng có vân tím,
Có 4 nhị (2 lớn, 2 bé), rất hiếm khi thấy quả. Quả bế đôi, hình tròn trứng,


7

cánh đài bao úp, nhiều hạt, hình trứng, bé nhỏ, màu nâu nhạt.
Năm 1958 giống sinh địa được nhập từ Trung Quốc về Việt Nam, Viện
Dược liệu đã nghiên cứu di thực thuần hóa và đưa vào phát triển trồng đại trà.
1.1.2.2. Đặc điểm thực vật học
Theo tác giả Nguyễn Bá Hoạt và cs. (2005) cây sinh địa có các đặc
điểm thực vật như sau:
- Thân lá
Thân cây sinh địa được phát sinh từ các điểm sinh trưởng trên đoạn
hom giống. Sinh địa là loại cây thân thảo, có chiều cao trung bình 40 - 50 cm.

Các đốt rất ngắn, mỗi đốt mang một lá. Thân không có khả năng phát sinh
cành, các đốt thân phía trên dài ra nhanh ở thời kỳ cây bắt đầu ra hoa. Toàn
thân cây có một lớp lông mềm màu tro trắng. Sau khi ra hoa cây đạt chiều cao
tối đa (Hình 1.1). Trên thân lá mọc quanh gốc theo các đốt thân, các lá phía
trên và diện tích lá nhỏ.
Lá sinh địa loại lá đơn nguyên, mép lá có răng cưa tù, không đều. Phiến
lá có nhiều gân chính và gân phụ nổi rõ nhưng phiến lá vẫn mềm. Trên mặt lá
có một lớp lông mềm màu tro trắng làm cho lá có màu lục hơi ngả bạc.

Hình 1.1. Cây sinh địa


8

- Bộ rễ
Rễ sinh địa là bộ phận dùng để làm thuốc bao gồm 4 loại: rễ hom, rễ tơ,
rễ bất định và rễ củ. Trong đó rễ củ là bộ phận thu hoạch.
+ Rễ hom: Hom củ giống sau khi trồng 8 - 10 ngày thì các mầm trên
hom phát sinh rễ. Nhiệm vụ của rễ hom hút dinh dưỡng ở giai đoạn đầu khi
mới trồng.
+ Rễ tơ: Phát sinh ở phần gốc thân của cây mới mọc từ hom. Rễ tơ thực
hiện nhiệm vụ hút nước nước, dinh dưỡng cung cấp cho cây trong suốt quá
trình sinh trưởng phát triển. Chúng thường có kích thước nhỏ, ngắn và số
lượng nhiều (hơn 100 rễ). Sau trồng 30 ngày thì cây con xuất hiện loại rễ này.
Khi phát sinh rễ củ thì rễ tơ vẫn phát triển.
+ Rễ bất định: Đây là loại rễ có khả năng hình thành củ, có thể do điều
kiện bất lợi hoặc do nguyên nhân nội tại không thể hình thành củ được. Kích
thước loại rễ này lớn hơn rễ tơ và dài từ 15 - 20 cm, số lượng 6 - 10 rễ trên
cây. Rễ bất định tiêu hao dinh dưỡng của cây cho nên cần hạn chế loại rễ này
bằng các biện pháp kỹ thuật thích hợp.

+ Rễ củ: Loại rễ này thường xuất hiện sau trồng 45 - 50 ngày, đây là
loại rễ có khả năng tạo củ lớn nhất và quyết định năng suất của địa hoàng. Rễ
củ có được hình thành hay không và hình thành sớm hay muộn được quyết
định bởi sự phân hoá nội tại kết hợp với ảnh hưởng của các điều kiện ngoại
cảnh cụ thể. Khi mới xuất hiện loại rễ này có biểu hiện bên ngoài nửa giống
như rễ bất định, nửa như rễ tơ. Sau đó nhờ sự phân hoá bên trong, đặc biệt là
sự phân hoá của tế bào tượng tầng, sự phát triển của bó mạch libe sơ cấp và
thứ cấp mà hình thành nên củ sinh địa (Hình 1.2). Phần sát gốc với thân của
củ kém phát triển tạo thành cuống củ có chiều dài vào khoảng 4 - 7 cm, chiều
dài của củ từ 15 - 20 cm, có đường kính củ biến động 0,5 - 3,4 cm, vỏ củ màu
hồng nhạt, phần ruột có màu vàng nhạt. Trên củ địa hoàng có rất nhiều điểm


9

sinh trưởng và rất dễ nảy mầm ngay tại ruộng nếu như tiếp xúc trực tiếp với
ánh sáng.

Hình 1.2: Rễ củ sinh địa
- Hoa, quả và hạt
Hoa sinh địa là hoa tự chùm, phát sinh từ đỉnh sinh trưởng của thân.
Đài và cánh hoa đều hình chuông. Hoa có 5 cánh, phía dưới hợp và hơi cong,
dài 3 - 4 cm; mặt ngoài màu tím sẫm, mặt trong hơi vàng và có những đốm
tím. Hoa có 4 nhị gồm 2 nhị lớn và 2 nhị lại kém phát triển.
Trong điều kiện khí hậu ở nước ta cây sinh địa có ra hoa nhưng không
tạo hạt.
1.1.2.3. Các thời kỳ sinh trưởng của cây sinh địa
Thời gian sinh trưởng cửa cây sinh địa thường kéo dài từ 150 – 180
ngày với 3 thời kỳ chính (Vũ Tuấn Minh, 2014)
- Thời kỳ nảy mầm

Thời kỳ nảy mầm được xác định từ có 75 % số cây mọc trên đồng
ruộng đến khi cây đạt 4 - 5 lá thật. Trong điều kiện bình thường, thời kỳ này
kéo dài 25 ngày, trong điều liện bất lợi như hạn hán hay gặp rét có thể kéo dài
hơn 1 tháng. Trong giai đoạn này sức sinh trưởng của sinh địa phụ thuộc vào
chất lượng hom giống, hạt giống và các điều kiện ngoại cảnh khác như nhiệt
độ, ẩm độ đất, độ sâu lấp đất. Cây con trong giai đoạn này yếu, dinh dưỡng


10

chủ yếu dựa vào hom giống, thân lá sinh trưởng chậm.
- Thời kỳ sinh trưởng thân lá và hình thành củ
Sau khi cây đạt 4 - 5 lá thật, bộ rễ hút dinh dưỡng để nuôi cây. Sức sinh
trưởng của cây mạnh dần lên, khi cây được từ 5 - 6 lá thì tốc độ ra lá tăng,
trung bình 5 - 10 ngày cây ra được 1 lá. Số lá đạt tối đa cho từng giống khác
nhau, dao động từ 24 - 25 lá đến 37 – 38 lá.
Khi cây có 9 - 10 lá thật là giai đoạn tăng nhanh về số lá và rễ củ được
hình thành và phát triển. Sau trồng 65 ngày tốc độ củ tăng mạnh nhất. Thời
gian đầu, củ chủ yếu phát triển về chiều dài, sau đó củ sẽ phát triển về đường
kính và đạt cực đại sau trồng 85 – 90 ngày. Tại thời điểm này các bộ phận
trên mặt đất đạt tối đa về đường kính tán, tổng số lá trên cây. Bộ phận dưới
mặt đất có bước nhảy vọt về tích luỹ các chất đường và Glucosid.
Cùng lúc đó phía ngọn cây, mầm nách xuất hiện nụ hoa. Lúc này dinh
dưỡng cần cho sự tích luỹ trong củ và ra hoa.
- Thời kỳ củ già chín
Khi cây sinh trưởng được 140 ngày thì sức sinh trưởng của cây chậm
dần, đường kính tán giảm xuống, các lá phía dưới rụng dần, các lá phía trên
chuyển từ màu xanh sang màu xanh vàng rồi héo. Dưới mặt đất củ sinh địa
đạt tới độ lớn nhất cả về chất và về lượng, đây là thời kỳ bước vào thu hoạch
cho năng suất cao nhất, chất lượng tốt nhất.

Trong điều kiện bình thường một cây có từ 8 - 14 rễ củ, nhưng chỉ có 3
- 5 rễ hình thành củ. Những rễ hình thành củ thường nằm ở vị trí gần mặt đất,
khi thiếu dinh dưỡng rễ củ sẽ trở thành rễ bất định, bởi vậy chúng ta cần phải
tạo mọi điều kiện để tất cả rễ củ đều thành củ.
1.1.2.4. Yêu cầu sinh thái
Sinh địa là cây có sức sinh trưởng tương đối yếu, do đó chỉ thích nghi
với khí hậu ôn hoà, đầy đủ ánh sáng, đất đủ dinh dưỡng, thoát nước tốt, có độ


11

xốp và độ dày tầng canh tác cần thiết. Theo tác giả Đỗ Tất Lợi (2011) và
Nguyễn Bá Hoạt và cs. (2005) các yêu cầu sinh thái cần thiết cho cây sinh địa
phát triển là:
- Nhiệt độ:
Khoảng nhiệt độ thích hợp cho cây phát triển là 18 – 25 oC, ngoài
khoảng nhiệt độ này địa hoàng sinh trưởng phát triển kém.
Nếu nhiệt độ dưới 10oC thì cây bắt đầu ngừng sinh trưởng và có những
biểu hiện ra bên ngoài từ màu lá xanh chuyển sang màu lá tím thẫm, nếu nhiệt
độ thấp và kéo dài 10 ngày thì lá không thể khôi phục được chức năng quang
hợp và dần chết.
Nếu nhiệt độ cao quá làm cho cây sớm phát triển gây mất cân đối, cây
sớm ra hoa, số lá ít, sự tích luỹ dinh dưỡng về củ kém. Nắng nhiều, nhiệt độ
cao làm cho lá bị khô xém, dễ bị nhiễm bệnh.
- Ẩm độ
Ẩm độ đất thích hợp trong thời kỳ nảy mầm là 65 – 70 %. Thời kỳ sinh
trưởng thân, lá và hình thành rễ củ là 70 – 75 %; Thời kỳ củ già, chín cần 65 –
70 %. Khi thu hoạch cần ẩm độ 60 – 65 %.
Thời kỳ củ già, chín có mưa lớn, ẩm độ đất quá cao củ dễ bị bệnh và
thối nhũn.

- Lượng mưa:
Một trong những yếu tố cần quan tâm đến trong quá trình trồng sinh địa
là sự phân bố lượng mưa các tháng trong năm. Để có năng suất ổn định thị
lượng mưa cần phân bố tương đối đều. Tuy nhiên trong 3 tháng đầu lượng
mưa yêu cầu nhiều hơn các tháng sau. Các vùng có lượng mưa từ 1500 –
1800 mm/ năm có thể trồng được sinh địa.
- Đất đai:
Sinh địa là cây ưa đất có thành phần cơ giới nhẹ, đất cát pha là loại đất


12

thích hợp nhất. Đất mới khai hoang có độ phì cao, tầng canh tác tương đối
dày, giữ nước và thoát nước tốt, đất đồi có độ dốc 5 - 100 có thể trồng được
sinh địa.
Các loại đất sét, đất thịt nặng, nghèo dinh dưỡng không nên trồng sinh
địa. Độ pH thích hợp sẽ cho sinh địa sinh trưởng phát triển tốt từ 5,5 - 7,0. Vì
vậy khi trồng trên đất chua cần phải bón vôi.
1.1.2.5. Thành phần hóa học và tác dụng dược lý
Đỗ Huy Bích và cs. (2003) có đề cập đến thành phần hóa học và tác
dụng dược lý của cây sinh địa như sau:
- Thành phần hoá học: Trong rễ sinh địa có catalpol, mannit, rehmannin,
glucose, carotene và có tới 15 acid amin và D-glucozamin, acid phosphorie và
các cacbohydrat, chủ yếu là stachyoza; còn có chất campesterol.
- Tác dụng dược lý:
+ Tác dụng đối với huyết đường: Khi dùng nước sắc sinh địa hay dùng
Remanin 0,5 g/kg khối lượng tiêm cho thỏ thì huyết đường giảm xuống, sau 7
h mới trở lại bình thường vì vậy người ta cho rằng trong cây sinh địa có một
loại chất tan trong nước, có phản ứng trung tính, màu vàng nhạt giống như
dầu, có thể chứa nitơ và sulfua làm giảm huyết đường trong máu.

+ Tác dụng với huyết quản: Khi dùng sinh địa với liều lượng nhỏ thì
làm co mạch máu, liều lượng lớn thì làm giãn mạch máu, có tác dụng lên tĩnh
mạch, làm gây mê động vật thí nghiệm.
Ngoài những tác dụng trên sinh địa còn có các tác dụng khác như cầm
máu, ức chế quá trình hình thành kén của một số loại vi trùng.
Theo y học cổ truyền sinh địa có vị ngọt hơi đắng, tính hàn, vào 4 kinh
Tâm, Can, Thận và Tiểu trường, có tác dụng thanh nhiệt, mát máu, ức chế
huyết đường, lợi tiểu, mạnh tim nên thường được dùng trong các bệnh thiếu
máu, suy nhược, tiểu đường, chảy máu, rong kinh.


13

1.1.2.6. Tình hình sản xuất sinh địa
Sinh địa được trồng chủ yếu tại Trung Quốc ở tỉnh Hà Nam, Chiết
Giang, Hà Bắc, Cam Túc, Sơn Tây, Tứ Xuyên, Hồ Bắc, Hồ Nam. Đặc biệt tại
tỉnh Hà Nam diện tích trồng sinh địa. Ngoài ra một số nước như Nhật Bản,
Hàn Quốc, Việt Nam cũng trồng sinh địa trên diện tích nhỏ.
Trước đây Việt Nam đã sử dụng sinh địa được nhập từ Trung Quốc
nhưng trong nhiều năm gần đây nước ta đã tự trồng được sinh địa và chế biến
thành thục địa, không phải nhập sinh địa dược liệu, sản lượng sinh địa hàng
năm khoảng 1000 - 1500 tấn/năm. Những tỉnh trồng nhiều sinh địa là: Hải
Dương, Hưng Yên, Bắc Ninh, Bắc Giang, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình,
Thái Bình, Vĩnh Phúc, ngoại thành Hà Nội. Các tỉnh khác cũng có trồng
nhưng ít hơn. Sau giải phóng miền Nam, sinh địa còn được trồng ở một số
tỉnh phía Nam. Năm 1980 – 1983 cây sinh địa được trồng thử ở các tỉnh Đăk
Lắk, Bình Định, Khánh Hòa nhưng ít có kết quả.
Theo các tài liệu ghi chép lại trước đây có 3 giống sinh địa được trồng
ở nước ta là Đại Thanh Anh, Tiểu Thanh Anh, Đại Ang Cô Hồng. Dựa vào
đặc điểm hình thái lá mà các giống này được phân chia thành hai loại: loại lá

dài và loại là lá bầu. Tuy nhiên trong sản xuất hiện nay giống được trồng phổ
biến là loại lá bầu, củ tròn rễ ngắn. (Nguyễn Bá Hoạt và cs. 2005).
Do thời gian sinh trưởng của cây sinh địa ngắn 150 – 180 ngày và củ
sinh địa không có thời gian ngủ nghỉ, củ giống 5 – 6 tháng tuổi thường bị
nhiễm bệnh, già hóa, mất sức sống, năng suất thấp nên gần đây người ta trồng
sinh địa thành 2 vụ liên tiếp, một vụ giống và một vụ dược liệu. Vụ giống
trồng từ tháng 2 thu hoạch tháng 7, vụ dược liệu trồng từ tháng 8 đến tháng 2
năm sau thu hoạch. (Nguyễn Bá Hoạt và cs. 2005)
Năng suất sinh địa ở nước ta dao động trong khoảng 12 tấn/ha, để có
hiệu quả kinh tế cao, thì sản xuất sinh địa ở nước ta nên đi theo chiều hướng


14

thâm canh, chọn thời vụ tối ưu, đảm bảo năng suất ổn định ở mức từ 15 – 16
tấn/ha thì mới có thể cạnh tranh được với các sản phẩm của Trung Quốc. (Đỗ
Huy Bích và cs., 2003)
1.1.1.7. Tình hình sâu, bệnh và các biện pháp phòng trừ
Trên thế giới đã có một số tài liệu công bố về bệnh hại trên cây sinh
địa. Những bệnh này chủ yếu xuất hiện ở các vùng trồng sinh địa tại Trung
Quốc và Đài Loan.
Chen và cs. (2007) đã xác định được tác nhân gây bệnh chết cây sinh
địa bao gồm nấm Fusarium oxysporum và Pythium splendens đã được phân
lập từ rễ củ và củ của cây sinh địa ở Đài Loan. Kết quả lây bệnh nhân tạo cho
thấy nấm Fusarium oxysporum là tác nhân chính gây bệnh héo vàng và thối
củ sinh địa còn nấm Pythium splendens là tác nhân chính gây bệnh chết rạp
cây con. Cũng theo tác giả tản nấm của nấm F. oxysporum và P. splendens
phát triển mạnh ở nhiệt độ 30°C, và bào tử của nấm F. oxysporum nảy mầm
thích hợp ở nhiệt độ 25oC.
Bên cạnh đó trong báo cáo điều tra của tác giả Ann (2012) về các loài

Phytophthora spp. trên các cánh đồng trồng dược liệu bao gồm đan sâm
(Salvia miltiorrhiza), sinh địa (Rehmannia glutinosa), hoàng kỷ (Astragalus
membranaceus) tại Đài Loan từ năm 2001 đến năm 2009 đã xác định được 3
loài Phytophthora gây hại nghiêm trọng. Trong đó P. nicotianae (= P.
parasitica) là tác nhân gây bệnh nghiêm trọng trên cây sinh địa bởi nấm này
tấn công vào bộ rễ và thân cây gây thối rễ làm cây mất sức sống và chết. Cả 3
loài Phythopthora spp. đều thuộc tip A1 và kết quả phân tích ITS và lây bệnh
nhân tạo các chủng nấm này trong nhà lưới đều cho triệu chứng điển hình như
ở ruộng sản xuât..
Kết quả chẩn đoán bệnh dựa vào phương pháp ELISA, RT-PCR và
phân tích trình tự ADN của gen coat protein đã xác định virus khảm lá thuốc


15

lá (TMV) là tác nhân gây bệnh chính cho sinh địa trồng tại tỉnh Hà Nam,
Trung Quốc (Zhang và cs., 2004).
Ở nước ta cây sinh địa bị gây hại bởi nhiều loại sâu, bệnh hại. Trong
suốt quá trình sinh trưởng cây bị hại nặng nhất vào ba tháng 7, 8, 9. Vụ sinh
địa sớm cây mọc um tùm ở tháng 7, 8 thường bị sâu bệnh hại nặng hơn, ở vụ
muộn lúc này cây còn bé, bị sâu hại nhẹ hơn. (Nguyễn Bá Hoạt và cs. 2005)
- Sâu hại: Trên cây sinh địa có một số loại sâu hại rệp, sâu xám, sâu xanh,
nhện đỏ, sâu khoang…tuy nhiên gây hại nặng nhất là nhện đỏ, sâu xanh. (Vũ
Tuấn Minh, 2014)
+ Nhện đỏ: Phần lớn phát sinh vào tháng 6, 7 và tháng 9, 10, sau khi
phát sinh phá hoại cây rất nặng. Việc phòng trừ nhện đỏ rất khó khăn do tập
quán sinh sống của nhện là ở mặt dưới của lá. Khi bị nhện hại người sản xuất
thường cắt bỏ hết các phần cây, lá trên mặt đất bị hại tuy nhiên biện pháp này
lại gây ảnh hưởng lớn tới năng suất sinh địa.
+ Sâu xanh: Là loại sâu ăn lá, gây hại từ cuối tháng 6 đến tháng 10 xảy

ra 3 – 4 đợt, tháng 8 phát sinh nhiều nhất, lúc nghiêm trọng sâu có thể ăn trụi
hết lá. Sâu thường đẻ trứng thành tổ ở dưới mặt lá. Sâu non lúc đầu mới nở,
phần lớn tập trung trên mặt lá, gặm phần thịt lá. Về sau sâu lớn ăn nhiều, phá
hoại nặng, thường ăn trụi hết lá cây.
- Bệnh hại:
Trên cây sinh địa xuất hiện nhiều loại bệnh hại, tác hại nhất là nấm gây
hại trên cây còn nhỏ và cả những cây đã sinh trưởng và phát triển tốt. Đến nay
việc phân lập xác định loại nấm hại đang là vấn đề cần phải nghiên cứu. (Vũ
Tuấn Minh, 2014)
+ Bệnh gỉ đất: Nhân dân gọi là bệnh gỉ đất hoặc gọi “cây con già”, tức
là trong điều kiện khô hạn, lá bị bệnh có màu xanh tối, cây không lớn được,
nếu lúc này có mưa kịp thời thì cây vẫn có thể tiếp tục phát triển, không bị


16

thiệt hại mấy. Bệnh gỉ đất thường xảy ra đồng thời với việc phát sinh nhện đỏ.
+ Bệnh cuốn lá: Vào đầu tháng 8, lá già có những chấm lốm đốm nhỏ
hình dạng bất định. Lá bị bệnh khô héo, mép lá uốn cong theo gân chính giữa,
còn giữa lá thì vẫn xanh nguyên. Bệnh này lúc nặng, toàn bộ lá cây đều bị héo
khô, cây bị chết. Trong điều kiện ẩm ướt, lúc bệnh xảy ra nặng, ảnh hưởng rất
lớn đến năng suất sinh địa
+ Bệnh đốm lá: Nhân dân thường gọi là bệnh đốm khô, đây là bệnh do
nấm gây ra, hay phát sinh vào đầu tháng 7 đến đầu tháng 8, triệu chứng của
bệnh là trên lá có những đốm bệnh hình tròn đồng tâm, điểm đốm này khá
lớn, bệnh lây lan rất nhanh.
+ Bệnh thối gốc: Các bộ phận trên mặt đất của cây bị bệnh héo dần,
gốc cây thối nhũn về sau toàn bộ cây chết dần. Theo kết quả điều tra của
nhóm nghiên cứu bảo vệ thực vật của Viện dược liệu năm 2013 cho thấy
trong những năm gần đây bệnh thối gốc là bệnh gây hại nặng nhất trên cây

sinh địa làm ảnh hưởng lớn đến năng suất, chất lượng củ thương phẩm, nhiều
ruộng sinh địa bị gây hại nặng có thể không cho thu hoạch.
1.2. Nấm Sclerotium rolfsii Sacc.
Nấm S. rolfsii thuộc bộ Agonomycetales họ Agonomycetaceae đã được
Peter Henry Rolfsii phát hiện và nghiên cứu đầu tiên vào năm 1892 khi
nghiên cứu bệnh tàn lụi cà chua tại Florida – Mỹ. Cho đến nay đã có hơn
2000 báo cáo ghi nhận sự xuất hiện gây hại của nấm trên toàn thế giới
(Fichtner, 2008).
1.2.1. Phạm vi ký chủ
S. rolfsii là một loại nấm đa thực có nguồn gốc trong đất có giai đoạn
hữu tính gọi là Athelia rolfsii. Phạm vi kí chủ của nấm S. rolfsii rất rộng, nấm
S. rolfsii có thể gây hại trên ít nhất 500 loài thực vật thuộc 100 họ (Lê Lương
Tề và cs., 2007). Những cây kí chủ mẫn cảm có thể kể đến như: khoai lang


17

(Ipomea batatas), bí ngô (Cucurbita pepo L.), lúa mì (Triticum vulgare), lạc
(Arachis hypogea). Ở Hawaii bệnh do nấm S. rolfsii gây ra xuất hiện trên
nhiều cây trồng: ngô (Zeamays L.), mướp tây (Hibiscus esculentus L.), đậu
(Phaseolus sp.), mía (Saccharum officinarum L.), khoai sọ( (Colocasia
esculenta (L.) Schott), cà chua (Lycopersicon esculentum Mill.), dưa hấu
(Citrullus vulgaris Schrad.)…Không chỉ gây hại trên các cây trồng nông
nghiệp, S. rolfsii còn gây hại trên một số loài hoa, cây cảnh như: hoa thủy
tiên, iris, lilium, cúc bách nhật, hoa cúc, hoa cẩm chướng (Dianthus
caryophyllus L.)…(Fichtner, 2008).
Ở nước ta, các nghiên cứu trong chương trình hợp tác giữa Việt Nam
và Australia cũng đã phát hiện thấy nấm S. rolfsii là tác nhân gây bệnh cho rất
nhiều loại cây trồng như cà chua, khoai tây, hành, lạc, đậu đỗ… ở hầu hết các
tỉnh phía Bắc nước ta: Hà Nội, Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Nghệ An,

Thanh Hóa, Hà Tĩnh (Azzopardi và cs., 2002). Nấm S. rolfsii còn là tác nhân
gây bệnh héo rũ gốc mốc trắng trên một số loại cây dược liệu bao gồm: mã
đề, bạch truật, bạc hà, lục vân hương, bạch chỉ với mức độ phổ biến cao (Ngô
Thị Xuyên và cs., 2006).
1.2.2. Triệu chứng gây bệnh
Triệu chứng bệnh do S. rolfsii gây ra trên các cây kí chủ khác nhau
không hoàn toàn giống nhau. Tuy nhiên có thể thấy nấm S. rolfsii chủ yếu tấn
công vào phần gốc thân cây tiếp giáp với mặt đất (Fichtner, 2008). Trong điều
kiện môi trường thuận lợi S. rolfsii có thể lây nhiễm trên các bộ phận khác
của cây như rễ, cuống lá, lá, hoa, quả. Giai đoạn đầu xâm nhiễm của nấm S.
rolfsii rất khó nhận biết, chỉ có thể nhận biết sự tồn tại của nấm bệnh khi bộ
phận bị hại sát mặt đất đã hóa nâu, lá cây bệnh dần bị hóa vàng và héo rũ.
Tiếp sau đó trên mặt đất sát gốc cây bệnh và bộ phận bị bệnh của cây xuất
hiện nhiều sợi nấm mịn như tơ. Hạch nấm được hình thành trên tản nấm có


18

dạng gần tròn, màu trắng khi còn non và trở nên nâu tối hoặc nâu đen khi già.
Hạch già gần giống như hạt cải. (Stephen và cs., 1992).
Các nghiên cứu mô tả triệu chứng đặc trưng của bệnh do nấm S. rolfsii
gây ra trên các cây trồng cạn tại Việt Nam đó là vết bệnh xuất hiện trên gốc,
thân cây sát mặt đất, lúc đầu vết bệnh nhỏ, có màu nâu tươi, hơi lõm, sau đó
vết bệnh lan rộng có thể dài từ 2 - 4 cm bao quanh gốc cây và lan xuống cổ rễ
dưới mặt đất (Đỗ Tấn Dũng, 2001). Mô bệnh bị thối hỏng, lá phía dưới héo
khô, vàng, sau toàn bộ cây héo rũ chết (Lê Lương Tề, 2001). Cây bị bệnh gốc,
thân hoá nâu và mục rã ở phần tiếp xúc với mặt đất làm cây chết héo. Nấm
còn gây hại trên quả phần tiêp giáp với mặt đất (Lê Lương Tề, 2007). Trên vết
bệnh ở gốc, thân xuất hiện lớp nấm trắng, sợi nấm đâm tia lan dần ra mặt đất
xung quanh tạo thành một đám trắng xốp như bông, từ đó hình thành nên các

hạch nấm, lúc đầu hạch nấm có màu trắng, sau màu vàng, cuối cùng có màu
nâu đậm (Nguyễn Văn Viên và Đỗ Tấn Dũng, 2003).
1.2.3. Đặc điểm sinh học, sinh thái của nấm S. rolfsii
Theo Burgess và cs. (2009), nấm S. rolfsii là một trong những loại tác
nhân tồn tại trong đất có thể gây bệnh thối gốc cho cây trồng. Một số đặc tính
của nấm có thể kể đến như sau:
- Nấm tồn tại trong đất qua một thời gian dài khi không có mặt ký chủ,
và nguồn bệnh trong đất tăng dần qua vài năm (chu kỳ mùa vụ).
- Phổ ký chủ rộng
- Lan truyền qua nước tưới, đất do động vật và người mang hay giống
bị nhiễm bệnh
- Không phân tán nhờ gió.
Nấm S. rolfsii là loài háo khí ưa ẩm và nhiệt độ cao khoảng 25 – 30 oC.
Nhiệt độ thấp hơn 10oC và cao hơn 40oC nấm không tồn tại được. Nấm S.
rolfsii tồn tại ở khoảng pH rộng, thuận lợi nhất trong điều kiện pH từ 3-5


19

(Mc Carter, 1993). Sợi nấm S. rolfsii màu trắng mịn, sau 4 - 7 ngày từ sợi nấm
sẽ hình thành hạch nấm. Hạch nấm ban đầu có màu trắng sau chuyển sang
màu vàng và cuối cùng có màu vàng nâu. Hạch nấm có khả năng chống chịu
tốt với điều kiện ngoại cảnh bất thuận, có thể sống ở nhiệt độ - 10 oC, tồn tại từ
năm này qua năm khác và nảy mầm ở khoảng pH 2 – 5. Nấm sử dụng chất
hữu cơ làm dinh dưỡng, sản sinh ra axit oxalic và enzyme phân huỷ mô ký
chủ. Một số chủng nấm S. rolfsii có khả năng hình thành bào tử đảm khi nuôi
cây trong phòng thí nghiệm, giai đoạn này nấm có tên là Corticium rolfsii
Curzi. Giai đoạn này hiếm khi bắt gặp trên đồng ruộng. Bào tử đảm thường
được hình thành bên cạnh vết bệnh và trong điều kiện không có ánh sáng mặt
trời. Chúng có thể được tạo ra với số lượng lớn và phát tán vào không khí

(Stephen và cs., 1992).
Nghiên cứu của Okabe Iketo (2001) đã xác định nấm S. rolfsii ở Nhật
Bản có 5 nhóm là 1, 2, 3, 4, 5 trong đó nhóm 1 là phổ biến nhất gây hại ở các
vùng nhiệt độ cao 28 – 30oC.
S. rolfsii đặc biệt gây hại nghiêm trọng ở các vùng nhiệt đới, cận nhiệt
đới và các vùng có khí hậu ôn hòa khác như miền nam nước Mỹ, các nước
Trung và Nam Mỹ, các nước Nam Âu thuộc Địa Trung Hải, Châu Phi, Ấn
Độ, Nhật Bản, Philipin...Bệnh ít khi thấy xuất hiện ở những vùng có mùa
đông lạnh nhiệt độ trung bình xuống dưới 0oC (Stephen và cs., 1992).
Ở Việt Nam nấm S. rolfsii phát sinh phát triển thuận lợi nhất trong điều
kiện nhiệt 25 - 30°C, ẩm độ tương đối cao và pH từ 5,5 - 7,5 (Đỗ Tấn Dũng,
2001). Trong điều kiện phòng thí nghiệm, trên môi trường PDA, PGA ở nhiệt
độ 25 - 30°C nấm phát triển mạnh, tản nấm trắng xốp như bông, sợi nấm màu
trắng, đa bào, phân nhánh nhiều, phát triển theo kiểu đâm tia. Sau khi cấy 7
-10 ngày nấm hình thành nhiều hạch, hạch nấm có dạng hình cầu đường kính
0,4 - 1,4 mm (Nguyễn Văn Viên và Đỗ Tấn Dũng, 2003). Các nghiên cứu


20

khác của Ngô Quốc Luật và cs. (2005) về nấm S. rolfsii gây bệnh thối gốc
trên cây bạch truật (Atractyloides macrocephala Koidz) cũng cho thấy nấm
phát triển thuận lợi nhất trên môi trường PGA ở pH = 6 và nhiệt độ 30oC.
Hạch nấm S. rolfsii là hình thức biến thái phức tạp của sợi nấm, hạch
nấm được tạo ra từ sự đan kết lại của nhiều sợi nấm. Hạch nấm có cấu tạo
gồm 2 phần: phần lõi và phần vỏ. Phần vỏ hạch do nhiều sợi nấm xếp xít vào
nhau có tác dụng bảo vệ phần ruột bên trong gồm hệ sợi nấm vách mỏng có
nhiều tế bào chứa nhiều chất dự trữ. (Lê Lương Tề, 2007).
Ở nước ta bệnh hại do nấm S. rolfsii gây ra thường được đề cập nhiều
nhất là bệnh héo rũ gốc mốc trắng trên cây cà chua. Trên đồng ruộng bệnh

phát sinh gây hại cả ở giai đoạn cây con trong vườn ươm và giai đoạn cây
trưởng thành ngoài ruộng sản xuất. Bệnh phá hại ở tất cả các thời vụ trồng: vụ
cà chua đông, đông xuân và xuân hè ở miền Bắc nước ta. Bệnh phát sinh, gây
hại nhiều vào các tháng 4, 5 và các tháng 8, 9, 10 ở giai đoạn cà chua ra hoa quả non – quả già. Thời tiết nóng ẩm phù hợp cho bệnh phát triển (Đỗ Tấn
Dũng, 2001). Theo Lê Lương Tê (2001), bệnh gây hại nhiều trong điều kiện
nhiệt độ cao 25 - 30°C xen kẽ những ngày mưa thường xảy ra đối với cà chua
sớm (tháng 8, 9, 10) và cà chua muộn (tháng 4, 5, 6). Bệnh hại nặng hơn ở
ruộng chỉ luân canh với cây trồng cạn, trên các chân ruộng đất thịt nhẹ, cát
pha.
Trên một số loại cây trồng cạn như cây lạc, bệnh thường có xu hướng
tăng từ khi cây ra hoa đến khi làm quả. Tỷ lệ bệnh héo rũ gốc mốc trắng trên
một sô vùng sinh thái khác nhau là khác nhau: đất đồi 1 vụ lạc có tỷ lệ bệnh là
3,7%, đất cát là 6,31%, đất nội đồng là 3,24% (Lê Như Cương, 2004).
Trên các loại cây dược liệu nấm S. rolfsii thường gây hại nặng trong
điều kiện khí hậu ẩm ướt vụ mưa xuân, gây hại phần tiếp giáp với mặt đất, tạo
thành những đốm dài, thân và lá phía trên bị biến vàng và héo, hạch nấm hình


21

thành ngay trên mô bệnh và rơi xuống đất, tồn tại quanh năm tại vùng trồng
cây dược liệu (Ngô Thị Xuyên, 2006). Hạch nấm là nguồn bệnh của năm sau
(Lê Lương Tề, 2007). Bệnh cũng có thể truyền qua hạt giống. Tỷ lệ nhiễm
bệnh trên hạt giống lạc và đậu tương theo nghiên cứu của Nguyễn Kim Vân
và cs (2006) ở mức trên dưới 10%.
1.2.4. Biện pháp phòng trừ
Không giống như những loại ký sinh khác do là loại nấm có nguồn gốc
từ đất nên sự gây hại của nấm S. rolfsii thường rất khó phát hiện và phòng trị
kịp thời, lý do là khi chúng ta phát hiện triệu chứng thể hiện trên cây (héo,
vàng lá, ...) thì nấm đã tấn công và hủy hoại một phần mô cây ký chủ nằm

phía dưới mặt đất, do đó việc phòng trị bệnh thường tốn kém nhưng không
mang lại hiệu quả cao. Vì vậy cần phải kết hợp nhiều biện pháp phòng trị để
mang lại hiệu quả kịp thời.
Mỗi biện pháp phòng trừ bệnh hại do con người đưa ra đều có những
ưu điểm nhất định, song nó còn có nhiều mặt hạn chế mà con người không thể
lường trước được. Biện pháp tối ưu nhất là quản lý bệnh hại theo hướng IPM
để giảm rủi ro, đảm bảo năng suất, tiết kiệm tiền, tăng lợi nhuận...(Hà Quang
Hùng và cs., 1998).
Theo Stephen và cs. (1992) việc phòng trừ S. rolfsii bằng việc luân
canh cây trồng cạn khác là rất khó khăn do phổ kí chủ của nấm rất rộng vì vậy
các biện pháp chính để phòng trừ sự gây hại của nấm được đưa ra bao gồm
phơi ải, cày lật đất, bón vôi để tăng pH đất, sử dụng nilon đen che phủ mặt
luống, bón thêm phân hữu cơ để tăng lượng vi sinh vật đối kháng trong đất,
sử dụng các thuốc xông hơi để xử lý đất như Formalin, Chlorobromopropene
và Methyl bromide….
Tác giả Khara và cs. (1990) lại cho rằng khi trồng luân canh lạc với đậu
tương hay cà chua tỷ lệ cây nhiễm bệnh do nấm S. rolfsii gây ra giảm rõ rệt so


22

với khi trồng độc canh một loại cây trồng. Theo Wokocha (1986), biện pháp
luân canh cây trồng có ảnh hưởng mạnh mẽ tới quá trình bảo tồn của nấm S.
rolfsii. Số llượng hạch nấm S. rolfsii tồn tại trong đất với tỷ lệ rất thấp khi
luân canh lạc với ngô.
Biện pháp chọn tạo giống chống chịu với nấm S. rolfsii cũng được
Branch (1993); Jones và cs. (1992) sử dụng. Ông đã chọn được giống lạc và
khoai lang kháng bệnh héo rũ trắng gốc.
Theo Vyas (1988) nhúng quả cà chua bị thối do S. rolfsii trong dung
dịch Rovral 0,01% cho hiệu quả phòng chống thối quả tốt nhất. Thuốc hóa

học PCNB (pentachloronitrobenzene) có hiệu quả cao trong phòng trừ bệnh
héo rũ trắng gốc (Porter và cs., 1995).
Có thể phòng trị bệnh do nấm S. rolfsii với một số loại thuốc hóa học
như: khử đất với thuốc Kitazin 10H (1-2 kg/công). Khi bệnh mới xuất hiện,
có thể phun một trong các loại sau: Copper B, Kitazin 50ND hoặc Validacin.
Tuy nhiên việc xử lý đất thường rất tốn kém và lâu dài sẽ có ảnh hưởng bất
lợi đến sự cân bằng sinh thái. (Vũ Triệu Mân và cs., 2007). Ngoài ra nấm S.
rolfsii cũng có thể được phòng trừ bằng cách sử dụng Ridomil 0,05% với
100% hiệu quả sau phun 3 ngày (Ngô Quốc Luật và cs.,2005).
Một hướng đi mới hiện nay trong phòng trừ bệnh hại cây trồng nói
chung và nấm S. rolfsii nói riêng là sử dụng biện pháp sinh học. Biện pháp
trong phòng trị bệnh cây là điều khiển môi trường, cây trồng và vi sinh vật đối
kháng một cách thích hợp, để tạo nên một thế cân bằng sinh học cần thiết,
giúp giảm mật số của mầm bệnh xuống dưới ngưỡng gây hại. Nhờ đó, bệnh
của cây trồng chỉ xuất hiện ở mức độ nhẹ, không gây ảnh hưởng nghiêm trọng
về mặt kinh tế. Biện pháp sinh học không có mục đích tiêu diệt toàn bộ mầm
bệnh và cũng không có khả năng này. Một số nhóm vi sinh vật đối kháng đã
được nghiên cứu để phòng trừ nấm S. rolfsii là

Trichoderma

spp.,


23

Gliocladium spp., Penicillium spp.…, nhóm xạ khuẩn: Streptomyces
spp…, và nhóm vi khuẩn đối kháng Baccillus subtilis, Pseudomonas
arguginos, Pseudomonas flluorecens (Lê Lương Tề và cs., 2007).
Nghiên cứu của Nguyễn Kim Vân và cs. (2005) cho thấy nấm

Trichoderma viride có thể tạo thành chế phẩm trong điều kiện phòng thí
nghiệm. Chế phẩm nấm đối kháng T. viride có hiệu lực cao phòng chống nấm
S. rolfsii khi xử lý đất và xử lý hạt trước khi gieo trồng trong điều kiện thí
nghiệm bán đồng ruộng.
Theo Trần Thị Thu Hà và Phạm Thanh Hòa (2012) đã phân lập được
11 chủng nấm Trichoderma có hiệu quả ức chế cao với nấm S. rolfsii với mức
độ ức chế từ 61,39 - 88,06%. Thời gian hình thành hạch nấm khi có mặt của
nấm Trichoderma kéo dài hơn từ 5,33 - 7,67 ngày so với đối chứng. Trong đó
11 chủng đáng chú ý nhất là chủng ĐR16 có khả năng ức chế 100% sự hình
thành hạch nấm S. rolfsii.


24

CHƯƠNG 2. VẬT LIỆU, NỘI DUNG VÀ
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1.Vật liệu, nội dung nghiên cứu
2.1.1. Vật liệu nghiên cứu
- Giống cây sinh địa được trồng tại xã Dĩnh Trì, thành phố Bắc Giang,
tỉnh Bắc Giang
- Các vật liệu nghiên cứu trong phòng
Môi trường nuôi cấy: Thành phần (trong 1 lít môi trường) (Burgess và
cs., 2008):
+ Môi trường WA (Water Agar):
Thành phần: Agar (20gr), nước cất (1000ml)
Thạch được hòa tan trong nước đã đun sôi và hấp vô trùng trong điều
kiện 121oC (1,5atm) trong thời gian 45 phút. Môi trường sau khi hấp để nguội
đến 50 - 55oC rồi đổ ra các đĩa Petri.
Công dụng:
Môi trường WA phẳng: là môi trường sử dụng để phân lập nấm ban

đầu từ mô cây bệnh, do nghèo dinh dưỡng nên ít bị lẫn tạp.
Môi trường WA nghiêng: Môi trường này được sử dụng để cấy đỉnh
sinh trưởng của sợi nấm.
+ Môi trường PDA (Potato Dextrose Agar):
Thành phần: Khoai tây (250gr), đường Dextro (20gr), agar (20gr),
1000ml nước cất.
Chọn những củ khoai tây sạch không bị sâu bệnh gọt sạch vỏ, rửa sạch
cân lấy 250gr sau đó cắt thành lát mỏng cho vào nồi và đổ 1000ml nước cất
đun sôi 30 phút. Lọc lấy phần nước, tiếp tục cho nước cất vào đun và lọc cho
đủ 1000ml dịch nước chiết, sau đó tiếp tục đun sôi. Cho từ từ 20gr đường
dextro và 20gr agar vừa cho vừa khuấy đều đến khi sôi lăn tăn thì rót đổ vào


25

bình tam giác, cho các bình tam giác đựng môi trường vào nồi hấp, hấp khử
trùng ở điều kiện 121oC (1,5atm) trong 30 - 45 phút sau đó đổ môi trường vào
đĩa Petri đã được khử trùng ở 160oC trong 2 giờ, để nguội.
Công dụng: Môi trường PDA dùng cho nuôi cấy đỉnh sinh trưởng nấm
gây bệnh để làm thuần nấm và để nghiên cứu các đặc điểm hình thái, sinh học
của nấm.
+ Môi trường mPDA (modified Potato Dextrose Agar):
Thành phần: Khoai tây (62,5g), đường Dextro (5g), agar (20g), PCNB Terrachlor® (0,1g), Streptomycin sulfate (0,16g), Neomycin sulfate (0,06g),
1000ml nước cất.
Cách chuẩn bị môi trường giống như PDA nhưng có bổ sung 0,16g
Streptomicin sulfate, 0,06g Neomycin sulfate vào trước khi đổ môi trường.
Công dụng: Môi trường mPDA dùng để phân lập nấm gây bệnh.
Các thuốc trừ bệnh: Topsin M 70WP, Tilt - super 350EC, Daconil
500SC, Kasumin 2SL, Ridomil gold 68WG.
Các trang thiết bị và dụng cụ: Tủ sấy dụng cụ, buồng cấy, nồi hấp, tủ

định ôn, dụng cụ nuôi cấy nấm, máy đo độ pH ...
2.1.2. Nội dung nghiên cứu
Nội dung 1: Điều tra tình hình sản xuất, tình hình bệnh hại trên cây
sinh địa. Mô tả triệu chứng và xác định tác nhân gây bệnh thối gốc trên cây
sinh địa.
Nội dung 2: Nghiên cứu đặc điểm sinh học, sinh thái và quy luật phát
sinh phát triển của tác nhân chính gây bệnh thối gốc trên cây sinh địa.
Nội dung 3: Nghiên cứu một số biện pháp phòng trừ bệnh thối gốc trên
cây sinh địa.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp điều tra và thu thập mẫu bệnh hại


×