Tải bản đầy đủ (.doc) (87 trang)

BÌNH THƯỜNG hóa QUAN hệ NGOẠI GIAO mĩ CUBA dưới THỜI TỔNG THỐNG mĩ BARACK OBAMA (2009 2016)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (419.92 KB, 87 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LỊCH SỬ

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

BÌNH THƯỜNG HÓA
QUAN HỆ NGOẠI GIAO MĨ- CUBA
DƯỚI THỜI TỔNG THỐNG MĨ BARACK OBAMA
(2009 - 2016)

Giảng viên hướng dẫn : PGS. TS Đào Tuấn Thành
Sinh viên

: Phạm Thị Hà

Chuyên ngành

: Lịch sử thế giới

Mã SV

: 625.602.026

Hà Nội – 2016


LỜI CẢM ƠN

Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới thầy PGS.TS Đào Tuấn
Thành - người đã tận tâm, nhiệt tình chỉ bảo và truyền đạt cho em những
kinh nghiệm khoa học quý báu giúp em hoàn thành khóa luận này.


Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các thầy cô trong Khoa Lịch sử,
trường Đại học Sư phạm Hà Nội đã dạy dỗ và giúp đỡ em trong những năm
học qua.
Em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 04 năm 2016
Sinh viên

Phạm Thị Hà


MỤC LỤC
68.Bước đi biểu tượng trong quan hệ Mĩ-Cuba..............................................83
/>69.Dư luận về bước tiến lịch sử trong quan hệ Cuba-Mĩ................................83
/> /> />72.Mĩ-Cuba hội đàm cấp cao sau hơn 50 năm................................................83
74.Mĩ nới lỏng đi lại và giao dịch thương mại đối với Cuba từ 16/1..............83
/>

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Là hai nước láng giềng chỉ cách nhau 150km nhưng quan hệ Mĩ-Cuba
đã phải trải qua những giai đoạn thăng trầm và là nhân tố quan trọng hàng đầu
chi phối các quan hệ, sự hợp tác giữa các quốc gia châu Mĩ. Khi nào mối quan
hệ giữa Mĩ - Cuba chưa được giải quyết thì khu vực này chưa thể có một môi
trường ổn định, hòa bình như mong muốn. Đồng thời, cả Cuba và Mĩ đều phải
gánh chịu những hậu quả hết sức nặng nề, đánh mất những cơ hội nâng cao vị
thế của mình trên thế giới.
Từ thập niên 90 của thế kỉ XX, cuộc Chiến tranh lạnh kéo dài kết thúc
đã tạo ra môi trường mới trong quan hệ quốc tế, trong đó, hòa dịu, đối thoại,
hợp tác trở thành một xu thế khách quan, chủ đạo chi phối mọi quan hệ quốc
tế. Cùng với đó là làn sóng toàn cầu hóa cũng ngày càng lan rộng. Sự liên kết

giữa các quốc gia cũng được tăng cường trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Điều
này đã khiến tất cả các quốc gia trên toàn thế giới đều phải điều chính lại
chính sách đối ngoại cho phù hợp với lợi ích của mình và nâng cao vị thế trên
trường quốc tế. Trong bối cảnh đó, cả Mĩ và Cuba đều tiến hành điều chỉnh
chính sách ngoại giao mềm dẻo, linh hoạt và thực dụng nhằm từng bước cải
thiện quan hệ hai nước vốn đã rất căng thẳng trong suốt quá trình lịch sử.
Trên thực tế, quan hệ giữa hai quốc gia láng giềng này đang được điều chỉnh
theo chiều hướng tích cực mà sự kiện nổi bật nhất là ngày 17/12/2014, Chủ
tịch Cuba Raul Castro và Tổng thống Barack Obama đã tuyên bố tái lập quan
hệ ngoại giao tiến tới bình thường hóa quan hệ sau hơn năm thập kỷ đối đầu.
Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, quan hệ Mĩ - Cuba là mối quan hệ đối
đầu căng thẳng. Chiến tranh Lạnh kết thúc bối cảnh thế giới thay đổi, xu
hướng toàn cầu hóa ngày càng phát triển. Trong quan hệ quốc tế không còn là
sự chạy đua giữa hai siêu cường là Mĩ và Liên Xô, đồng thời là sự lớn mạnh
và vươn lên của nhiều quốc gia và khu vực đã tác động tới mối quan hệ Mĩ -

1


Cuba. Tuy nhiên, với những đặc trưng riêng từ những yếu tố chính trị, chính
sách đối ngoại của Mĩ với Cuba và ngược lại, mối quan hệ Mĩ - Cuba vẫn tiếp
tục căng thẳng trong khoảng thời gian dài mới có những hòa dịu và tiến tới
bình thường hóa trên lĩnh vực ngoại giao.
Có thể nói, ít có mối quan hệ song phương nào lại thu hút sự nghiên
cứu và phân tích kĩ lưỡng của cả thế giới trong suốt hơn năm thập kỉ qua như
mối quan hệ Mĩ - Cuba. Gần đây, sự quan ngại của những diễn biến chính trị
mới trên trường quốc tế, sự xuất hiện của những nguy cơ đe dọa đến an ninh
của toàn châu Mĩ thì mối quan hệ giữa Mĩ và Cuba lại tiếp tục thu hút sự quan
tâm nghiên cứu của nhiều học giả, các nhà phân tích chính trị trên thế giới,
trong đó có Việt Nam. Đối với Việt Nam, chúng ta đang thi hành chính sách

đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa các mối quan hệ quốc tế. Việt Nam chủ
trương là bạn, là đối tác đáng tin cậy với các nước trong cộng đồng thế giới,
phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Thực hiện chính sách đối ngoại
nhất quán, mở rộng, chúng ta tăng cường quan hệ với các nước, trong đó có
Mĩ và Cuba. Chính vì vậy, việc nghiên cứu quan hệ Mĩ - Cuba giúp Việt Nam
thấu hiểu chính sách đối ngoại của Mĩ cũng như Cuba và tình hình mối quan
hệ giữa hai nước, rút ra những bài học thực tiễn cho đất nước, trong đó quan
trọng nhất là đề ra những biện pháp hữu hiệu để hợp tác với Mĩ và Cuba trong
bối cảnh mới.
Với những lí do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài “Bình thường hóa
quan hệ ngoại giao Mĩ và Cuba dưới thời Tổng thống Barack Obama từ
năm 2009 đến năm 2016” làm đề tài nghiên cứu của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Quan hệ Mĩ - Cuba vốn là mối quan hệ “phức tạp” và có tính đặc thù
trong quan hệ quốc tế, nhất là kể từ sau Chiến tranh lạnh diễn ra. Chính vì
vậy, đã thu hút được sự quan tâm của giới nghiên cứu trong và ngoài nước.
Tuy nhiên, do các sự kiện còn đang diễn ra nên vấn đề quan hệ Mĩ với Cuba
đặc biệt là từ khi Tổng thống Barack Obama lên cầm quyền đã có nhiều động
2


thái tích cực nhằm cải thiện mối quan hệ hai nước, quyết định bình thường
hóa quan hệ ngoại giao, mở ra một chương mới trong quan hệ hai nước này
chưa có một công trình nghiên cứu cụ thể và đầy đủ mà chủ yếu chỉ được
nghiên cứu dưới dạng các bài nghiên cứu nhỏ, các bản tin, chuyên mục được
đăng tải trên các tạp chí, tài liệu tham khảo. Dưới đây, chúng tôi xin nêu tên
một vài bài nghiên cứu tiêu biểu:
“Quan hệ Mĩ - Mĩ la tinh dưới thời Obama: Những bước đi đầu” của
tác giả Lê Hải Bình, tạp chí Châu Mĩ ngày nay, số 9 năm 2009; “Quan hệ
giữa Mĩ và Cuba” của Nguyễn Thùy Dương, tạp chí Châu Mĩ ngày nay, số

11/2014; Bình thường hóa quan hệ Mĩ- Cuba nhìn từ góc độ địa chính trị,
của Lê Thế Mẫu, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 8/2015; “Obama mở hé
cửa cho Cuba”, theo Thông tấn xã Việt Nam ngày 7/4/2009…
Trên các website cũng đăng tải rất nhiều các bài viết về chính sách Đối
ngoại của Mĩ với Cuba đặc biệt là các cuộc gặp gỡ, thương lượng giữa các
nhà lãnh đạo cấp cao đặc biệt là giữa Tổng thống Mĩ Barack Obama và Chủ
tịch nước Cuba Raul Castro trong thời gian gần đây đều được cập nhật đăng
tải thường xuyên.
Trên cơ sở nghiên cứu những nguồn tài liệu được tiếp cận, nhận thấy
vấn đề quan hệ Mĩ - Cuba đã được phân tích ở nhiều khía cạnh khác nhau với
những quan điểm, cách nhìn riêng nhưng vẫn còn mang tính riêng lẻ chưa
được hệ thống hóa và nghiên cứu một cách hoàn chỉnh, người viết đã quyết
định lựa chọn đề tài “Bình thường hóa quan hệ ngoại giao Mĩ-Cuba dưới
thời Tổng thống Barack Obama từ năm 2009 đến năm 2016” làm đề tài
khóa luận tốt nghiệp của mình với mục đích đưa ra cái nhìn cụ thể và toàn
diện về mối quan hệ ngoại giao “mới” này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích chính của đề tài nghiên cứu này tập trung làm rõ về những
nét chính trong việc bình thường hóa quan hệ ngoại giao Mĩ - Cuba dưới
nhiệm kì của Tổng thống Mĩ Barack Obama từ năm 2009-2016 để từ đó có
thể rút ra nhận xét về mối quan hệ này.
3


Từ việc xác định rõ mục tiêu trên, khóa luận tập trung giải quyết các
nhiệm vụ nghiên cứu sau:
-

Phân tích những cơ sở đưa đến quyết định bình thường hóa quan hệ


Mĩ- Cuba.
-

Trình bày tiến trình bình thường hóa trên lĩnh vực ngoại giao giữa

Mĩ và Cuba.
-

Bước đầu rút ra những nhận xét về quá trình bình thường hóa ngoại

giao và đưa ra những dự đoán về triển vọng và thách thức trong mối quan hệ
giữa hai quốc gia láng giềng này.
4. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài “Bình thường hóa quan hệ ngoại giao Mĩ-Cuba dưới thời
Tổng thống Mĩ Barack Obama từ năm 2009 đến năm 2016” được nghiên
cứu dưới góc độ của khoa học lịch sử và quan hệ quốc tế hiện đại.
Về nội dung: Tên của đề tài cho phép tìm hiểu quan hệ Mĩ-Cuba trên
lĩnh vực ngoại giao với nội dung bình thường hóa quan hệ sau hơn nửa thế kỉ
thù địch. Đó là mối quan hệ tác động hai chiều giữa hai chủ thể. Tuy nhiên, để
làm nổi bật vấn đề và mang tính hệ thống, khóa luận sẽ trình bày một cách
khái quát về vị trí Mĩ và Cuba trong tương quan mối quan hệ, mối quan hệ hai
nước trong lịch sử và các nhân tố tác động đến quyết định bình thường hóa
giữa hai nước.
Về thời gian: Khóa luận nghiên cứu về quá trình triển khai chính sách
đối ngoại của Mĩ với Cuba trong 2 nhiệm kì của Vị Tổng thống thứ 44 Hoa Kì
Barack Obama, cụ thể từ năm 2009 đến tháng 4 năm 2016.
Bên cạnh đó, để làm rõ hơn và có cái nhìn khách quan về nguyên nhân và
tác động đến quyết định bình thường hóa quan hệ, khóa luận còn đề cập đến vị trí
của hai nước trong tương quan mối quan hệ, tình hình quan hệ Mĩ-Cuba trước
nhiệm kì Tổng thống Obama cũng như phân tích các yếu tố khác có liên quan.

5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu

4


Về nguồn tài liệu:Để hoàn thành đề tài này, người viết chủ yếu sử dụng
nguồn tài liệu từ các công trình chuyên khảo trong nước có liên quan đến vấn
đề nghiên cứu của đề tài:
Tài liệu trong các sách, giáo trình, sách tham khảo ví dụ như cuốn
“Lịch sử thế giới hiện đại” của tác giả Nguyễn Anh Thái (cb), NXB Giáo dục
năm 2008; cuốn “Vấn đề trừng phạt kinh tế trong chính sách đối ngoại của
Hoa kỳ” của tác giả Nguyễn Thái Yên Hương (cb) (2003), NXB Chính trị
quốc gia, Hà Nội và nhiều cuốn giáo trình khác.
Ngoài ra, các bài nghiên cứu của các học giả cũng là nguồn tài liệu
quan trọng để tác giả hoàn thành đề tài này, các bài viết đăng trên các tạp chí
chuyên ngành như “Châu Mĩ ngày nay”, tạp chí “ Cộng sản”, tạp chí “Quan
hệ Quốc phòng”, tạp chí “Quốc phòng toàn dân”, tài liệu tham khảo của
“Thông tấn xã Việt Nam”…
Bên cạnh đó, tác giả cũng tham khảo các bài viết được đăng tải cập
nhập thường xuyên trên các Website.
Về phương pháp nghiên cứu: Để thực hiện đề tài này, tác giả dựa trên
nền tảng lí luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những
quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về quan hệ quốc tế và chính
sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Đồng thời, chúng tôi cũng dựa vào
chủ nghĩa duy vật lịch sử để giải quyết những vấn đề mang tính lí luận đặt ra
trong quá trình thực hiện đề tài, từ đó thấy được mối quan hệ biện chứng giữa
các sự kiện trong cùng một mối quan hệ cũng như giữa các mối quan hệ với
nhau. Tác giả đã sử dụng kết hợp các phương pháp chính là phương pháp lịch
sử, phương pháp logic và phương pháp nghiên cứu quốc tế cùng các phương
pháp hỗ trợ khác như phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, thống kê…

để rút ra những nhận xét trong quá trình nghiên cứu.
6. Đóng góp của khóa luận
Thông qua đề tài nghiên cứu này, tác giả tiếp tục nghiên cứu mối quan
hệ Mĩ-Cuba trên cơ sở kế thừa và phát triển từ những gì mà tác giả tiếp cận từ
những nguồn tư liệu trước đó.

5


Khóa luận tiếp tục cung cấp những cứ liệu lịch sử và luận chứng khoa
học thuyết phục để thêm một lần nữa khẳng định quá trình bình thường hóa
quan hệ ngoại giao Mĩ - Cuba là đúng đắn, phù hợp và trở thành mối quan hệ
quốc tế điển hình trong các mối quan hệ quốc tế của thời đại ngày nay.
Thông qua khóa luận này, tác giả cũng muốn chứng minh rằng khi
quan hệ Mĩ - Cuba về mặt chính trị - ngoại giao được cải thiện tốt đẹp hơn sẽ
tạo điều kiện thúc đẩy cho sự hợp tác trên các lĩnh vực khác như kinh tế, văn
hóa, giáo dục…làm toàn diện hơn mối quan hệ giữa hai nước.
Khóa luận có thể dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho công tác học
tập, nghiên cứu về lịch sử Mĩ và Cuba.
7. Cấu trúc của khóa luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
gồm 3 chương:
Chương 1. Các nhân tố tác động đến quyết định bình thường hóa quan
hệ Mĩ - Cuba từ năm 2009 đến năm 2016.
Chương 2. Tiến trình bình thường hóa quan hệ ngoại giao Mĩ - Cuba từ
năm 2009 – 2016.
Chương 3. Một số nhận xét về tiến trình bình thường hóa quan hệ ngoại
giao Mĩ - Cuba từ năm 2009 – 2016.

6



CHƯƠNG 1: NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUYẾT ĐỊNH
BÌNH THƯỜNG HÓA QUAN HỆ NGOẠI GIAO MĨ - CUBA
1.1.

Vị trí địa lý của Mĩ và Cuba trong tương quan mối quan hệ

Đối với mỗi quốc gia, dân tộc vị trí địa lí và điều kiện tự nhiên có ý
nghĩa quan trọng đối với lịch sử hình thành, phát triển trên tất cả các mặt kinh
tế, chính trị, văn hóa; hay nói cách khác vị trí địa lí sẽ góp phần quy định “số
phận” của chính quốc gia đó. Vị trí địa lý của cả Mĩ và Cuba sẽ là nhân tố
quan trọng trong mối quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia này, bởi đây là
mối quan hệ hai chiều.
Vị trí chiến lược của Cuba đối với Mĩ
Trước hết, cần đề cập đến vị trí của Cuba đối với Mĩ. Cuba là một đảo
nằm trong quần đảo Ăng ti ở phía tây Đại Tây Dương. Cuba chỉ cách Mĩ
150km. Mĩ thường gọi Mĩ latinh là “mảnh vườn sau nhà” của mình và Cuba
chính là “bậc thềm” để bước sang mảnh vườn đó. Cuba là cửa ngõ của Mĩ
latinh. Nằm trên ngã tư đường hàng không từ Bắc Mĩ đi Nam Mĩ, từ Đại Tây
Dương đi Thái Bình Dương nên Cuba càng có vị trí hết sức quan trọng. Muốn
xâm nhập vào Mĩ Latinh phải vào Cuba trước và khi đã chiếm được “mảnh
vườn sau nhà” thì việc tiến công đến Mĩ sẽ không quá khó khăn.
Đặc biệt hơn, vị trí của Cuba có ảnh hưởng trực tiếp đến Mĩ. Cuba nằm
ở các điểm tiếp cận vịnh Mêhicô vào Đại Tây Dương vì vậy Cuba có ảnh
hưởng đến việc xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp của Mĩ từ khu vực sông
Mississippi tới New Orleans. Nếu New Orleans là cầu nối quan trọng để khu
vực trung tâm Bắc Mĩ tiếp cận với thế giới thì Cuba là cầu nối quan trọng đối
với New Orleans. Bên cạnh đó, đường vào Đại Tây Dương từ vịnh Mêhicô
theo trục từ Key West tới bán đảo Yucatan dài khoảng 380 dặm. Cuba nằm ở

giữa trục này. Trên tuyến đường phía Bắc, Bahamat chạy song song với Cuba
khoảng một nửa quãng đường, buộc các tàu đi về hướng Nam, về hướng
Cuba. Trên tuyến đường phía Nam, kênh Yucatan nhập với hành lang đường
7


biển ra khỏi Caribe kéo dài và hợp với West Indies. Điều trọng yếu là lực
lượng hải quân hoặc không quân thù nghịch nếu đóng trên địa bàn Cuba có
thể phong tỏa vịnh Mêhicô và qua đó cả trung tâm của Mĩ [33, tr 5].
Với vị trí quan trọng và điều kiện tự nhiên phong phú thuận lợi, Cuba
được ví như “hạt ngọc trong quần đảo Ăng ti”. Chính bởi vị trí chiến lược đó
mà Cuba luôn giữ vị trí quan trọng đối với Mĩ, là nguyên nhân cơ bản tác
động đến mối quan hệ giữa Mĩ và Cuba qua các thời kỳ lịch sử. Nhất là trong
thời hiện đại khi Mĩ luôn tìm cách thực hiện chiến lược toàn cầu vươn lên làm
bá chủ thế giới.
Vị trí chiến lược của Mĩ đối với Cuba
Mĩ là quốc gia có lịch sử lập quốc còn khá non trẻ, nằm ở Bắc Mĩ với
phía Đông là bắc Đại Tây Dương, phía Tây là bắc Thái Bình Dương, phía Bắc
tiếp giáp Canada, phía Nam giáp Mehico và chỉ cách Cuba hơn 90 dặm, rất
thuận lợi đi lại bằng đường biển và hàng không. Mĩ trong tâm trí của Cuba
vừa là nhân tố tác động đến kinh tế, vừa là mối đe dọa đối với nền chính trị tự
chủ của mình. Nhờ điều kiện tự nhiên thuận lợi, nền nông nghiệp có điều kiện
phát triển đã cung cấp số lượng nông sản lớn cho Cuba; thêm vào đó với đặc
tính yêu thích tự do, khá phá thì cư dân Mĩ chính là nguồn cung cấp du khách
lớn cho ngành “công nghiệp không khói” của Cuba, góp phần không nhỏ vào
sự phát triển của kinh tế đất nước này. Bên cạnh đó, những chính sách và
chiến lược của Mĩ cũng tác động lớn đến Cuba; trong khi Mĩ lại luôn coi
Cuba là mối đe dọa tiềm tàng của mình.
1.2.


Khái quan hệ Mĩ-Cuba trong lịch sử

Chính từ vị trí gần gũi mà ngay từ sớm, Mĩ và Cuba đã có mối liên hệ
với nhau nhưng thật tiếc, đó không phải là một mối quan hệ ôn hòa, gần gũi
như cả hai bên mong đợi. Ngay từ đầu thế kỷ XIX, khi Tây Ban Nha còn đô
hộ Cuba thì nước Mĩ đã có sự quan tâm tới Cuba. Cuối thế kỷ XIX, toàn dân
Cuba đã vùng lên đấu tranh chống ách thống trị của thực dân Tây Ban Nha.
Tháng 4/1898, đúng lúc nhân dân Cuba sắp đánh đuổi được Tây Ban Nha thì
8


Mĩ liền kiếm cớ tuyên chiến với Tây Ban Nha với âm mưu cướp không thành
quả cách mạng của nhân dân Cuba. Sau khi chiến tranh Mĩ – Tây Ban Nha kết
thúc (8/1898), quân đội Mĩ tiếp tục chiếm đóng Cuba mấy năm, rồi buộc
Quốc hội Cuba đưa thêm vào bản dự thảo hiến pháp năm 1901 “điều khoản
bổ sung Polat” nhằm mục đích can thiệp vào Cuba, dần dần biến hòn đảo này
thành thuộc địa kiểu mới của mình. Để đối lấy sự thịnh vượng, các nhà lãnh
đạo Cuba trong nửa đầu thế kỷ XX đã chấp nhận sự thống trị của Mĩ. Tuy
nhiên, một số người cho rằng, sự thịnh vượng của Cuba được phân chia
không công bằng, và mất tự chủ. Sau đó, Fidel Castro đã lãnh đạo nhân dân
Cuba thắng lợi trong cách mạng chống Mĩ năm 1959. Những người chống lại
Castro đã tới Mĩ và thành lập cộng đồng những người Cuba tại bang Florida
thuộc Mĩ chống lại Castro, trong đó có những nhân vật cấp cao trong chính
quyền Cuba trước đó. Đây là lực lượng có tác động quan trọng tới chính sách
cấm vận của Mĩ với Cuba [33, tr.7-8].
Sau khi cách mạng thành công (1959), từ một chính thể cộng hòa tư sản
lệ thuộc Mĩ, Cuba chuyển sang chế độ xã hội chủ nghĩa nhân dân lao động,
tấm gương cách mạng chống đế quốc và tiền đồn của chủ nghĩa xã hội ở bán
cầu Tây. Từ vị trí là một trong hai thuộc địa cuối cùng của chủ nghĩa thực dân ở
Mĩ latinh được giải phóng, Cuba trở thành một nhân tố tác động tích cực đến

phong trào giải phóng dân tộc ở châu Phi và Mĩ latinh. Sự trưởng thành không gì
cưỡng lại được của đất nước Cuba nằm cách nước Mĩ chưa đầy 150 km đã khiến
Mĩ lo ngại. Đối với các chính quyền Mĩ, sự xuất hiện của một nhà nước xã hội
chủ nghĩa ở ngay sát nước Mĩ và ở khu vực được coi là “sân sau” của Mĩ là một
thách thức và hơn hết đó là điều không thể chấp nhận được. Bởi vậy, xóa bỏ bỏ
nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Cuba trở thành mục tiêu nhất quán của chính
quyền Mĩ, dù là thuộc đảng Dân chủ hay đảng Cộng hòa.
Quan hệ Mĩ - Cuba chính thức rơi vào tình trạng đối đầu từ năm 1959
Ngay sau khi Chính quyền mới của Cuba được thành lập đã quốc hữu hóa các
tài sản của Mĩ trên đất Cuba, tăng thuế đối với các loại hàng hóa nhập khẩu từ
9


Mĩ, đồng thời kí các thỏa thuận thương mại với Liên Xô. Đáp trả, Mĩ siết chặt
hạn ngạch nhập khẩu đường, đóng băng tài sản Cuba tại Mĩ, áp đặt lệnh cấm
vận thương mại và cắt quan hệ ngoại giao với Chính quyền Cuba do Chủ tịch
Fidel Castro lãnh đạo. Năm 1961, sự kiện “vịnh Con Lợn” nổ ra khi Tổng
thống Mĩ John F. Kennedy phái một lữ đoàn quân lưu vong Cuba (được cơ
quan tình báo Mĩ hậu thuẫn) trở về ám sát Chủ tịch Fidel Castro nhằm lật đổ
chính quyền cách mạng, song đã bị lực lượng vũ trang Cuba kịp thời ngăn
chặn. Sau đó, Mĩ đã tiến hành nhiều chiến dịch ngầm chống Cuba. Tháng
10/1962, khủng hoảng tên lửa Cuba nổ ra sau khi La Habana cho phép Liên
Xô xây dựng một căn cứ tên lửa tại đất nước này. Đối đầu Xô- Mĩ bị đẩy lên
cực điểm và tiến sát đến một cuộc chiến tranh hạt nhân. Cuộc khủng hoảng
chỉ chấm dứt nhờ một thỏa thuận giữa Mĩ với Liên Xô thông qua các kênh bí
mật. Theo đó, Mĩ không xâm lược Cuba, rút tên lửa hạt nhân khỏi Thổ Nhĩ Kì
và Italia, còn Liên Xô rút tên lửa hạt nhân khỏi Cuba. Kể từ sau các sự kiện
trong năm 1961-1962, Mĩ thực hiện chính sách cấm vận về kinh tế và cô lập
về ngoại giao với Cuba, kéo dài cho tới cả giai đoạn sau khi Liên Xô sụp đổ.
Mĩ tăng cường lệnh cấm vận bằng Đạo luật Dân chủ Cuba năm 1992 và Đạo

luật Helms Burton năm 1996 (còn gọi là Đạo luật về Tự do và Dân chủ liên
đới Cua). Trong đó nêu rõ lệnh cấm vận sẽ không được gỡ bỏ “chừng nào
Cuba chưa tổ chức các cuộc bầu cử tự do, công bằng và chuyển đổi sang một
chính phủ dân chủ, không có sự góp mặt của gia đình Castro”[1; tr 30]. Kể từ
đó, mặc dù tại Mĩ và Cuba đã diễn ra những thay đổi quan trọng về chính trị
và kinh tế, nhưng lệnh cấm vận này vẫn được duy trì. Nó được coi như là một
“lời nguyền” của lịch sử mà bất cứ vị Tổng thống Mĩ nào cũng không dám
xóa bỏ, bất chấp sự phản đối của cộng đồng quốc tế và dư luận trong nước
Mĩ. Tuy nhiên, hơn một nửa thập kỉ bao vây cấm vận của Mĩ đã không thể
khuất phục được tinh thần cách mạng của người dân Cuba, thậm chí còn ảnh
hưởng ngược đến quyền lợi của chính các doanh nghiệp và người dân Mĩ.
Từ khi lên cầm quyền, Chính quyền của Tổng thống Obama tiếp tục
chính sách này, nhưng phần nhiều đã có những động thái nhằm cải thiện mối
10


quan hệ. Đặc biệt, với sự kiện ngày 17/12/2014 đã mở ra bước ngoặt mới
trong quan hệ đầy sóng gió kéo dài suốt hơn 5 thập kỉ giữa hai nước. Theo đó,
Tổng thống Mĩ Barack Obama và Chủ tịch Cuba Raul Castro đồng thời chính
thức tuyên bố về việc tái thiết lập quan hệ ngoại giao đã bị gián đoạn từ
những năm 60 của thế kỷ trước, “chúng ta sẽ kết thúc một đường hướng lỗi
thời mà trong nhiều thập kỷ không thúc đẩy lợi ích của chúng ta, và thay vào
đó sẽ bắt đầu bình thường hóa quan hệ giữa hai nước” [1; tr 32]. Rõ ràng, thay
đổi là một điều khó khăn- khó khăn trong chính cuộc sống của chúng ta, và
trong đời sống của các quốc gia. Sự thay đổi này còn khó khăn hơn khi cả hai
đang gánh trên vai mình trách nhiệm của lịch sử. Thế nhưng, có thể nhận thấy
rằng, sự thay đổi này là hoàn toàn đúng đắn. “Ngày hôm nay, Mĩ quyết định
cắt đứt những sự trói buộc của quá khứ để vươn tới một tương lai tốt đẹp hơncho người dân Cuba, cho người dân Mĩ, cho toàn bộ bán cầu của chúng ta, và
cho thế giới” [78].
Như vậy, vượt qua nhiều rào cản về ý thức hệ và kinh tế đã tồn tại vững

chắc giữa hai nước thì giờ đây, cả nhân dân Mĩ và nhân dân Cuba đều có thể
vui mừng bắt đầu cho một chương hoàn toàn mới trong mối quan hệ giữa hai
quốc gia châu Mĩ.
1.3.

Các nhân tố tác động đến tuyên bố bình thường hóa

1.3.1. Sự chuyển biến của tình hình quốc tế và khu vực
Thứ nhất, xu thế đối ngoại hòa bình, hợp tác và hội nhập quốc tế
đang chiếm ưu thế.
Trong thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX, Chiến tranh lạnh với tư cách là
một cuộc chạy đua vũ trang, đối đầu gay gắt về ý thức hệ giữa hai hệ thống
chính trị do Liên Xô và Mĩ cầm đầu đã đi đến hồi kết thúc. Trật tự thế giới hai
cực Ianta đã sụp đổ, một trật tự thế giới mới đang dần hình thành với sự xuất
hiện của các trung tâm quyền lực kinh tế, chính trị mới ngoài Mĩ như: Trung
Quốc, Nhật Bản, Nga, Liên minh châu Âu (EU)…Một thời kì mới đã được
mở ra trong quan hệ quốc tế, thời kì đối thoại hợp tác trên quy mô toàn cầu.
11


Chiến tranh lạnh kết thúc, lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc dần thay thế
ý thức hệ và trở thành tiêu chí quan trọng nhất trong các mối quan hệ và tập
hợp lực lượng quốc tế; đồng thời, là nhân tố cơ bản chi phối mọi hoạt động
chính trị cũng như chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia.
Khi cuộc đối đầu giữa hai “cực” không còn, các quốc gia đặt ưu tiên
lấy phát triển kinh tế làm trọng tâm trong chiến lược quốc gia của mình. Sức
mạnh quốc gia lúc này được đo bằng tiềm lực kinh tế và giá trị kinh tế của
mỗi nước. Tất cả các quốc gia dù lớn hay nhỏ đều mong muốn duy trì một
môi trường hòa bình ổn định và tăng cường hợp tác quốc tế để phát triển kinh
tế. Trong bối cảnh đó, xu thế đối thoại hợp tác trên cơ sở hai bên cùng có lợi,

cùng tôn trọng lẫn nhau trong cùng tồn tại hòa bình ngày càng trở thành xu
hướng chủ yếu trong quan hệ quốc tế [22, tr.539].
Trong những năm 90 của thế kỷ XX đã chứng kiến toàn cầu hóa trở
thành xu thế phát triển của thế giới, điều đó tác động mạnh mẽ đến việc hoạch
định kế hoạch đối ngoại của mỗi nước. Toàn cầu hóa đã phá bỏ những bức
tường ngăn cách, nối liền cả thế giới lại với nhau dưới tác động của cuộc cách
mạng khoa học công nghệ, khiến cho các nước ngày càng phụ thuộc lẫn nhau.
Toàn cầu hóa là một xu thế khách quan không thể đảo ngược, tạo ra những
thuận lợi và khó khăn to lớn đối với tất cả các nước.
Cùng với sự gia tăng của làn sóng “toàn cầu hóa” thì làn sóng “khu vực
hóa” cũng được hình thành và phát triển đồng thời tác động mạnh mẽ đến
việc tập hợp lực lượng ở khắp nơi trên thế giới. Các khu vực thành lập các
liên minh như Liên minh châu Âu (EU), Liên minh kinh tế Trung Mĩ, Hiệp
hội tự do thương mại Mĩ latinh (LAFTA), Hiệp hội Hải quan Trung Phi
(ECOAC), Hiệp hội hợp tác khu vực các nước Nam Á (SAARC)...Những tổ
chức khu vực này có vai trò quan trọng và góp phần tạo ra một môi trường
quốc tế hòa bình, ổn định, thúc đẩy các mối quan hệ quốc tế [22, tr.425]. Xu
thế toàn cầu hóa, khu vực hóa đã tạo ra môi trường thuận lợi cho tiến trình hòa giải
những căng thẳng, bất đồng giữa hai quốc gia. Cả Mĩ và Cuba đều cần phải tận
12


dụng những thời cơ thuận lợi để tập trung phát triển kinh tế, nâng tầm ảnh hưởng
của các quốc gia trong khu vực và trên trường quốc tế, đặc biệt là hai nước sẽ tiến
tới hòa hợp chung.
Sau chiến tranh Lạnh nhất là vào thập niên đầu thế kỷ XXI, hầu hết các
nước Mĩ Latinh đều tập trung nỗ lực nhằm thoát khỏi tình trạng khủng hoảng
và nghèo đói. Họ đã thực hiện những cải cách về kinh tế, chính trị, xã hội và
chính sách đối ngoại. Để thực hiện có hiệu quả việc củng cố và phát triển xu
thế dân tộc độc lập, bên cạnh việc ưu tiên nhằm giữ ổn định chính trị theo

hướng thúc đẩy tự do dân chủ, tập trung sức phục hồi và phát triển kinh tế
nhằm giải quyết các vấn đề bức súc trong xã hội như bất bình đẳng, nạn nghèo
đói, thất nghiệp nâng cao đời sống người lao động nhất là của tầng lớp nghèo.
Các nước Mĩ Latinh đều chủ trương thực hiện chính sách đối ngoại theo
hướng độc lập, tự chủ, đề cao lợi ích quốc gia dân tộc, đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ. Thể hiện khuynh hướng độc lập hơn với Mĩ, tăng cường
liên kết, hợp tác khu vực; ủng hộ quá trình dân chủ hóa các quan hệ quốc tế
và cải tổ Liên hợp quốc, đấu tranh cho một trật tự thế giới mới đa cực, dân
chủ và bình đẳng, vì hòa bình, dân chủ và tiến bộ xã hội. Các nước Mĩ Latinh
thực hiện chính sách đối ngoại theo hướng thúc đẩy khối đoàn kết Mĩ Latinh,
tăng cường liên kết khu vực và mở rộng quan hệ hữu nghị với tất cả các nước,
hợp tác và hội nhập ngày càng nổi trội. Xu thế này đã có những tác động nhất
định đến chính sách đối ngoại của Mĩ cũng như Cuba.
Như vậy, sau thời kỳ Chiến tranh Lạnh kết thúc, một trật tự thế giới
mới với những xu thế phát triển mới trên thế giới đã nổi lên. Các xu thế này
đã thúc đẩy tăng cường hợp tác trên thế giới. Bên cạnh đó, những xung đột
khu vực, tôn giáo, sắc tộc, khủng bố quốc tế, tội phạm xuyên quốc gia, chạy
đua sản xuất vũ khí hủy diệt, vấn đề ô nhiễm môi trường… đang đặt ra những
thách thức to lớn đối với tất cả các nước. Đặc biệt khủng bố quốc tế đang trở
thành mối đe dọa toàn cầu hết sức nguy hiểm. Sự kiện 11/9/2001, đã làm thay
đổi sâu sắc cục diện và môi trường an ninh quốc tế. Khu vực Mĩ latinh mối
13


quan hệ giữa các nước phát triển theo xu hướng hợp tác với nhiều tổ chức ra
đời. Cục diện trên đã tác động mạnh mẽ đến chính sách đối ngoại và quan hệ
của các nước. Xu thế đối ngoại hòa bình, hợp tác và hội nhập quốc tế đã thức
tỉnh nhân dân nhiều nước, kể cả nhân dân nước Mĩ, khiến người ta không ưa
thích gì chiến tranh và những hành động tội ác mà chỉ muốn thế giới hòa bình,
hợp tác để phát triển. Dù là Washington hay La Habana khi hoạch định chính

sách đối ngoại cũng không thể bỏ qua những vấn đề này. Có thể thấy rằng,
bối cảnh quốc tế nêu trên có tác động không nhỏ đến mối quan hệ Mĩ và
Cuba. Mỗi nước đều phải tính toán kỹ lưỡng những yếu tố quan trọng trong
bối cảnh thế giới và khu vực để điều chỉnh chính sách của mình sao cho phù
hợp nhằm tạo lên môi trường quốc tế ổn định và thuận lợi ưu tiên hàng đầu
cho phát triển kinh tế của đất nước.
Thứ hai, sự ủng hộ, giúp đỡ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới.
Với xu thế ngày càng cởi mở, tiến bộ, nhiều nước, các tổ chức quốc tế
hay cá nhân đã lên tiếng phản đối đường lối bao vây cấm vận dã man của Mĩ
đối với nhân dân Cuba. Ngoài việc nhiều nước tự tách mình ra làm ăn riêng
với Cuba, họ còn mạnh dạn đứng ra làm trung gian hòa giải giữa Washington
và La Habana.
Liên Hợp quốc đã có nhiều cố gắng trong việc thúc đẩy bình thường
hóa quan hệ giữa Mĩ và Cuba. Ngày 9/11/1999, Đại hội đồng Liên hợp quốc
đã thông qua một nghị quyết đề nghị Mĩ chấm dứt cấm vận kinh tế, thương mại
và tài chính chống Cuba với 155 phiếu thuận, 2 phiếu chống và 8 phiếu trắng.
Nghị quyết của Đại hội đồng Liên hiệp quốc vạch rõ rằng chính sách thù địch
của Mĩ chống Cuba đã vi phạm nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế và
Hiến chương Liên hợp quốc, đặc biệt là các công việc nội bộ của các nước và
quyền tự do buôn bán giao lưu quốc tế. Từ năm 1992 đến năm 2008, LHQ
(Liên hợp quốc) đã 17 lần bỏ phiếu thông qua nghị quyết yêu cầu Mĩ phải bãi
bỏ chính sách bao vây, cấm vận mà Mĩ đã áp đặt với Cuba. Số nước tán thành
năm sau luôn cao hơn năm trước với số phiếu ủng hộ năm 1992 là 59, năm
14


2004 là 179 nước, năm 2005 là 182 nước, năm 2007 là 184 nước và năm 2008
với 185 nước ủng hộ. Năm 2014, trong số 193 nước thuộc Hội đồng Bảo an
Liên Hợp quốc tham gia bỏ phiếu thì có 188 nước phản đối chính sách này,
khiến Mĩ ngày càng bị cô lập. Rõ ràng, điều này cho thấy chính sách cô lập cứng

nhắc không phải là câu trả lời trong bối cảnh thế giới hiện nay và hơn ai khác,
Mĩ là quốc gia biết rõ điều này. Trước sức ép của dư luận quốc tế đã buộc Mĩ
cần phải suy nghĩ lại thái độ và hành động của mình như Obama đã tuyên bố
“chính sách cô lập không có tác dụng, tôi không tin chúng ta nên theo đuổi chính
sách gì suốt 5 thập kỉ mà hy vọng sẽ có kết quả khác”[54, tr1].
Tòa thánh Vatican cũng đóng vai trò cầu nối quan trọng cho quá trình
bình thường hóa. Giáo hoàng Francis là đức Giáo hoàng gốc châu Mĩ Latinh
đầu tiên trong lịch sử Giáo hội của Vatican, ông có thiện cảm đặc biệt đối với
nhân dân của các nước châu Mĩ nói chung và Mĩ Latinh nói riêng, vì vậy ông
đã dành tâm huyết và nỗ lực của mình cho việc bình thường hóa quan hệ, ông
hiểu rằng ông phải là cầu nối cho sự thúc đẩy quan hệ cho hai quốc gia này,
góp phần tạo dựng một thế giới hòa bình, ổn định và hợp tác. Cụ thể, giống
như các nước Mĩ Latinh khác, Cuba là quốc gia có đông đảo người theo Thiên
Chúa giáo, trong các chuyến thăm Cuba của Giáo hoàng Francis, vấn đề bình
thường hóa quan hệ Mĩ -Cuba đã được người đứng đầu Toà thánh Vatican đề
cập trong các cuộc gặp với lãnh đạo Cuba. Đức giáo hoàng Francis cũng đã
liên tục gửi thư đến Tổng thống Barack Obama và Chủ tịch Raul Castro đề
nghị hai bên hãy nối lại mối quan hệ, giải quyết các vấn đề nhân đạo, vấn đề
quyền con người mà trực tiếp là việc trao đổi tù nhân giữa Mĩ và Cuba- những
nhân vật có vai trò quan trọng trong việc quyết định bình thường hóa quan hệ.
Nhờ có Vatican, Tuyên bố bình thường hóa đã được diễn ra.
Bên cạnh đó, Canada một đồng minh truyền thống của Mĩ từng có mối
quan hệ căng thẳng với Cuba (trong thời gian từ năm 1996 đến năm 2014) đã
có nhiều nỗ lực làm trung gian cho tiến trình bình thường hóa quan hệ MĩCuba. Chính phủ Stephen Harper, thông qua các tổ chức xã hội dân sự đã có
15


những kênh tiếp xúc nhằm thúc đẩy bình thường hóa quan hệ.
1.3.2. Mục tiêu và sự thay đổi trong chính sách đối ngoại của Mĩ
Thứ nhất, lệnh trừng phạt của Mĩ đối với Cuba không đem lại hiệu

quả như mong muốn.
Tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao Mĩ- Cuba cho thấy thất
bại của gần 10 đời Tổng thống Mĩ (từ John F. Kennedy, Lyndon B. Johnson,
Richard Nixon, Gerald Ford, Roland Reagan, George H.W.Bush, Bill Clinton,
George W.Bush). Hơn nửa thế kỷ qua, Mĩ đã tiến hành hàng loạt các biện
pháp cứng rắn, trong đó có kéo dài các lệnh trừng phạt kinh tế, coi Cuba là
quốc gia tài trợ cho khủng bố…để gây ra muôn vàn khó khăn cùng cực chồng
chất lên nhân dân Cuba. Mĩ cũng đã kích động hoặc phối hợp với các nước
đồng minh và chư hầu ở khắp nơi và tại cả những vùng láng giềng với Cuba
để o ép và quấy phá cả về chính trị, thương mại, quân sự, văn hóa, tài chính
nhưng đều thất bại. Mĩ đã lợi dụng những diễn biến lớn trên thế giới nhất là
sự sụp đổ của Liên Xô và nhiều nước xã hội chủ nghĩa khác ở Đông Âu trong
những năm 90 của thế kỷ trước; sự phá sản của Chiến tranh lạnh dẫn đến tình
hình thế giới hình như chỉ còn một cực, một siêu cường, để gây sức ép mạnh
với Cuba trong hoàn cảnh nước này không còn nhận được sự chi viện và giúp
đỡ của Liên Xô và phe xã hội chủ nghĩa nữa để khuất phục Cuba. Bất chấp
việc Đại Hội đồng Liên Hợp quốc từ năm 1992 năm nào cũng thông qua
quyết định yêu cầu Mĩ bỏ lệnh cấm vận đối với Cuba. Ngược lại, những thách
thức trên đã không làm suy yếu được La Habana dù gặp nhiều khó khăn do
lệnh cấm vận gây ra, nhưng Cuba vẫn đứng vững và được nhiều quốc gia trên
thế giới ủng hộ.
Ngay tại bản thân nước Mĩ, chính sách của Mĩ đối với Cuba không
được lòng người. Chính sách phong tỏa gây nên sự bất mãn của hai bộ phận
công dân trong nước Mĩ. Bộ phận thứ nhất là một số nhà doanh nghiệp và chủ
trang trại. Họ khoanh tay ngồi nhìn hàng hóa và vốn đầu tư của nước khác
tiến vào thị trường Cuba, còn Mĩ thì không thể. Tuy những năm gần đây,
16


Chính phủ Mĩ cho phép một số sản phẩm nông nghiệp được xuất sang Cuba

nhưng vẫn có không ít hạn chế. Xét thấy chính sách đối nội và đối ngoại của
Cuba trong những năm gần đây đã xuất hiện những thay đổi lớn, càng ngày
càng nhiều người Mĩ yêu cầu chính quyền Obama thay đổi chính sách đối với
La Habana, những tờ báo lớn như Thời báo New York, Nhật báo phố Wall…
liên tục phê phán chính sách của Chính phủ đối với Cuba. Bộ phận công
chúng thứ hai là dân di cư Cuba ở Mĩ. Tổng số dân Cuba ở Mĩ khoảng 2 triệu
người, trong đó có thế hệ cũ có ý thức phản đối Cuba mạnh mẽ đều đã qua
đời, phần lớn đều là thế hệ mới và ý thức phản đối Cuba của họ đã phai nhạt.
Những chính sách của Washington đối với La Habana khiến cho sự liên hệ
giữa họ với người thân ở Cuba rất không thuận tiện. Không chỉ nhân dân Mĩ,
các doanh nghiệp mà ngay cả các Thượng nghị sĩ Mĩ đều phản đối chính sách
này. Ngày 19/2/2008 hơn 100 hạ nghị sĩ Mĩ đã ký tên vào bức thư gửi Ngoại
trưởng Mĩ Condoleezza Rice đề nghị chính quyền xem xét lại chính sách cấm
vận chống Cuba được chính quyền Mĩ thực hiện suốt gần 5 thập kỷ. Trong lá
thư có chữ ký của 104 trong tổng số 435 hạ nghị sĩ Mĩ, các nghị sĩ thừa nhận
suốt 5 thập kỷ qua, Mĩ đã thi hành chính sách bao vây kinh tế, cô lập ngoại
giao nhằm mục tiêu thay đổi chính phủ Cuba. Tuy nhiên sự kế thừa có trật tự
ở Cuba cho thấy chính sách này không thành công. Các nghị sĩ cũng cho rằng
chính sách này của Mĩ không gây được bất kỳ ảnh hưởng nào tại thời điểm
này và cũng không mang lại lợi ích quốc gia nào cho Mĩ hay người dân Cuba.
Điều đó đã góp phần buộc nhà cầm quyền Mĩ phải thay đổi suy nghĩ.
Giới chức Công giáo Mĩ cho rằng, chính sách đối đầu và cô lập suốt 50 năm
qua đã không đem lại việc thay đổi chế độ, nên bắt buộc phải xét xem liệu
chính sách tiếp xúc có dẫn tới những thay đổi hay không. Tổng thống Barack
Obama cũng thừa nhận các chính sách trừng phạt, bao vây cấm vận chống
Cuba đã lỗi thời và cần có một sự thay đổi cho chính sách ngoại giao giữa hai
bên. “Một sự thay đổi có ý nghĩa nhất về chính sách trong hơn 50 năm qua là
chúng ta sẽ chấm dứt cách tiếp cận lỗi thời nhiều thập kỉ qua mà không thúc
17



đẩy được các lợi ích của Mĩ, thay vào đó sẽ bình thường hóa quan hệ với
Cuba” [1, tr.32]. Chính vì vậy, hiện nay là thời điểm thích hợp để Mĩ mở ra
một hướng đi mới cho mối quan hệ với Cuba, bởi vì việc “đóng băng” quan
hệ với Cuba đang gây trở ngại cho chính sách của Mĩ ở khu vực.Việc cắt đứt
quan hệ ngoại giao và cấm vận Cuba nhiều thập kỉ đã khiến hình ảnh của
Washington xấu đi tại khu vực Mĩ Latinh, nhất là ở những nước có quan hệ
gần gũi với Cuba. Theo nhà lãnh đạo Mĩ, những điều chỉnh trong chính sách
đối ngoại với Cuba sẽ tạo điều kiện để hai bên xích lại gần nhau hơn, tìm lại
sự tin tưởng lẫn nhau để hướng tới một tương lai phát triển bền vững và ổn
định ở khu vực.
Thứ hai, Tổng thống Barack Obama muốn tăng thêm thành quả
chính trị cho mình.
Ngày 20/1/2009, nghị sĩ Barack Obama đã chính thức tuyên thệ để trở
thành Tống thống thứ 44 của Hợp chúng quốc Hoa Kì, Chính quyền Tổng
thống Obama đã thừa hưởng một di sản nặng nề sau 8 năm cầm quyền của
chính quyền Bush trước đó: Về đối nội, Mĩ rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế
tài chính toàn cầu chỉ kém cuộc đại suy thoái 1929-1933 với mức độ tăng
trưởng tụt xuống mức âm (-6 % năm 2009). Đến tháng 9/2008, tổng nợ quốc
gia của Mỹ đã lên tới 9.700 tỉ USD (chia bình quân mỗi người dân Mĩ phải
cõng khoản nợ lên tới 31.700 USD/ người). Thâm hụt ngân sách gia tăng mỗi
năm càng làm tăng gánh nặng nợ quốc gia của Mĩ. Cuộc khủng hoảng tài
chính, tín dụng, địa ốc khiến tỉ lệ thất nghiệp của Mĩ tăng lên 6,1%, mức cao
nhất trong vòng 5 năm trở lại [18; tr 67].
Về mặt quốc tế, vị thế và hình ảnh của nước Mĩ bị suy giảm nghiêm
trọng trên trường quốc tế, nhất là sự sa lầy của Mĩ ở Iraq và Afghanistan trong
cuộc chiến chống khủng bố dù đã đổ nhiều tỉ USD, vũ khí, khí tài và mất
hàng nghìn binh lính. Gần đây, Mĩ và các đồng minh của mình, đặc biệt là
khối xâm lược Bắc Đại Tây Dương (NATO) vấp phải tình hình khó xử ở
Ukraine khi Liên bang Nga đòi lại bán đảo Crimea để sáp nhập vào Liên bang

18


Nga làm, khiến Mĩ và đồng minh lúng túng mặc dù đã dùng nhiều biện pháp
trả đũa quyết liệt điện Kremlin nhưng không có hiệu quả. Thêm vào đó, Mĩ
đang có nhu cầu xoay trục mạnh sang khu vực châu Á- Thái Bình Dương để
tái cân bằng với các cường quốc khác. Điều này làm suy yếu sâu hơn thế và
lực của Mĩ, đặt ra những ưu tiên và mục tiêu cấp bách trong việc điều chỉnh
chính sách của chính quyền Mĩ. Việc thừa hưởng di sản của người tiền nhiệm
G. Bush mang nhiều bất lợi hơn là thuận lợi đối với Tổng thống đắc cử B.
Obama trong việc khôi phục hình ảnh đất nước, nhất là các vấn đề liên quan
đến chính sách đối ngoại- lĩnh vực tối quan trọng đối với bất kì nhiệm kì
Tổng thống Mĩ nào và cũng là lĩnh vực bị đánh giá là mắc nhiều sai lầm nhất
trong hai nhiệm kì của G. Bush.
Một điểm cũng rất đáng chú ý là cuộc bầu cử Tổng thống Mĩ đang đến
gần, thế nhưng chính quyền của Tồng thống B. Obama phải đối mặt với nhiều
khó khăn như kinh tế phục hồi chậm, mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc,
khủng bố quốc tế gia tăng, không giải quyết dứt điểm cuộc khủng hoảng ở
một số khu vực trên thế giới… Trong khi đó, Tổng thống Obama bị chỉ trích
là “quá do dự” trong các vấn đề quốc tế, Đảng Dân chủ thì mất quyền kiểm
soát lưỡng viện sau cuộc bầu cử giữa nhiệm kì. Vì vậy, việc lựa chọn bình
thường hóa quan hệ với Cuba sẽ giúp Tổng thống và Đảng Dân chủ lấy lại sự
ủng hộ của công chúng Mĩ trước kì bầu cử Tổng thống vào năm 2016.
Đối diện với những khó khăn và thách thức đó, Tổng thống Obama có
những điều chỉnh căn bản đối với các vấn đề toàn cầu mà Mĩ đang theo đuổi.
Từ khi vận động tranh cử Tổng thống, Barack Obama đã hứa hẹn nếu được cử
tri tín nhiệm ông sẽ thực hiện chính sách ngoại giao mới. Chính sách này có
thể tóm tắt như sau: thay vì cứng rắn như hầu hết các vị Tổng thống tiền
nhiệm, ông sẽ thực hiện đường lối mà ông gọi là “ngoại giao khôn khéo”, mở
rộng đối thoại, sẵn sàng bắt tay làm việc vì lợi ích chung, kể cả trực tiếp nói

chuyện với lãnh đạo các nước đang nằm trong danh sách thù địch của Mĩ
nhằm tạo dựng lại thế và lực cũng như hình ảnh và uy tín của Mĩ trên trường
19


quốc tế. Chính sách đó được áp dụng cả với Cuba. Sau khi tuyên thệ nhậm
chức Tổng thống, ông cho biết muốn có quan hệ tốt đẹp hơn với nước láng
giềng Cuba và trên thực tế Mĩ đã có điều chỉnh “chịu nhún” một chút để ổn
định “sân sau” của mình tại Mĩ Latinh, tìm kiếm “sự khởi đầu mới” trong
quan hệ với Cuba.
Thứ ba, Mĩ muốn tranh giành ảnh hưởng với các nước, nhất là với
Nga và Trung Quốc tại Cuba và Mĩ Latinh.
Trong lịch sử, Cuba là một quốc gia độc lập, Cuba vừa coi Mĩ là nhân
tố tác động đến kinh tế vừa là mối đe dọa với nền chính trị tự chủ của nước
mình. Mĩ thì coi Cuba là mối đe dọa chiến lược tiềm tàng. Sự cấm vận của Mĩ
đối với Cuba không diễn ra liên tục. Điều đó xuất hiện chỉ khi một nước thù
địch liên minh với Cuba và hiện diện tại Cuba, bản thân Cuba không đe dọa
được Mĩ. Khi không có cường quốc nào tại Cuba thì Mĩ cũng không bao giờ
thờ ơ với Cuba, nhưng vấn đề Cuba trở nên bớt nhạy cảm hơn. Trong bối
cảnh mới, mặc dù vẫn là “siêu cường duy nhất trong số các nước ngang hàng”
trên trường quốc tế song sức mạnh của Mỹ lại đang bị suy giảm tương đối
trong khi các nước lớn khác đều vươn lên mạnh mẽ, nhất là với Nga và Trung
Quốc. Hai quốc gia này đang ngày càng có quan hệ hiệu quả với Cuba và cả
khu vực Mĩ Latinh trong thời gian gần đây, điều này đe dọa đến lợi ích của
mỹ ở chính khu vực.
Sau khi cách mạng Cuba năm 1959 thành công, Cuba trở thành nhà
nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên và duy nhất ở Mỹ Latinh. Từ đó đến nay, mặc
dù chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, Cuba vẫn kiên trì
thể chế chính trị- xã hội theo tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lê nin. Vì thế, việc
Cuba có quan hệ mật thiết với Trung Quốc và Nga cũng là điều dễ hiểu. Với

vị trí nằm sát sườn Mĩ, Cuba có một vị trí đặc biệt đối với an ninh quốc gia
Mĩ và trên thực tế đảo quốc này cũng luôn được Nga và Trung Quốc dành sự
quan tâm đặc biệt.
Sau khi Liên Xô sụp đổ, sự hiện diện của Nga tại Cuba suy giảm nhiều,
20


nhưng đã có dấu hiệu tăng trở lại trong những năm gần đây. Tháng 8/2008,
cuộc chiến giữa Nga và Grudia xảy ra. Để đối phó với cuộc chiến này, Mĩ đã
đối phó các tàu chiến tại biển Đen. Nga cũng phản ứng bằng cách phái tàu
chiến và máy bay ném bom chiến lược tới vùng Caribe. Sau đó các phái đoàn
cấp cao của Nga đã hội đàm với Cuba, làm gia tăng sự căng thẳng. Tuy nhiên
đây chỉ là một phần nhỏ với những căng thẳng đã có. Nga không phải mối đe
dọa đối với vận chuyển Mĩ tại vịnh Mehico, và Nga cũng không có khả năng
sớm thực hiện được điều đó vì khả năng có hạn của mình trong việc thực thi
sức mạnh tại nơi xa như vậy [33, tr.8]. Tuy nhiên, trong quan điểm của Mĩ sự
thăm dò của Nga nhắc nhở rẳng Cuba vẫn là mối đe dọa tiềm tàng và chính
quyền Obama cần phải quan tâm đến việc ngăn ngừa La Habana và Moscova
lại gần nhau bởi điều này nằm trong bước đi chiến lược của Nga nhằm tái khả
năng ảnh hưởng tại khu vực Mĩ Latinh. Tháng 4/2013, Tổng tham mưu
trưởng Quân đội Nga Valery Gerasimow đã có chuyến thăm các căn cứ tình
báo và quân sự chính của Cuba. Bốn tháng sau, Nga điều một tàu chiến thuộc
Hạm đội Biển Đen hoạt động dọc bờ biển Cuba và cập cảng của một số nước
Trung, Nam Mĩ. Đáng chú ý, trong bối cảnh quan hệ Mĩ- Nga ngày càng xấu
đi (do liên quan đến cuộc khủng hoảng chính trị tại Ukraine) thì không có gì
đảm bảo rằng Moscova lại không khôi phục hợp tác quân sự với La Habana
nhằm cân bằng với Mĩ. Điều đó phần nào được thể hiện trong chuyến thăm
chính thức Cuba của Tổng thống Nga Putin vào tháng 7/2014, mang theo
“món quà” là cam kết xóa đến 90% (tương đương 30 tỉ USD) món nợ khổng
lồ 35 tỉ USD mà Cuba nợ từ thời Liên Xô [1; tr 32]. Nhà lãnh đạo Nga cũng

kí hàng loạt thỏa thuận hợp tác với Chủ tịch Cuba Raul Castro về kinh tế, xã
hội, giáo dục, y tế, công nghiệp… trong đó có thỏa thuận hợp tác khai thác
dầu khí tại vùng biển của Cuba. Trong khi đó, Trung Quốc thì đang là nhà
đầu tư lớn nhất vào đảo quốc Caribe này. Hiện có ít nhất 65 công ty lớn của
Trung Quốc đang làm ăn trên đất Cuba. Bắc Kinh cũng đã nắm cảng biển lớn
nhất của Cuba, dự kiến lớn nhất vùng Caribe vào năm 2015, tại khu công
21


nghiệp Mariel. Các mối quan hệ kinh tế và ngoại giao thân thiết sẽ tạo điều kiện
thúc đẩy các mối quan hệ về quân sự giữa Cuba với Nga và Trung Quốc. Đánh
giá vấn đề này, một quan chức an ninh quốc gia Mĩ cho rằng: “chúng ta cần
phải hành động ngay để đảm bảo rằng Cuba sẽ không trở thành một quân cờ
của Nga hoặc Trung Quốc, qua đó cũng sẽ trở thành một bàn đạp đe dọa an
ninh Mĩ khi họ hiện diện quân sự tại đó” [1; tr 33]. Do đó, bình thường hóa quan
hệ với Cuba, Mĩ có cơ hội và điều kiện giành lại ảnh hưởng địa- chính trị với
Cuba; đồng thời, tạo cơ hội để phát triển đầu tư ở nhiều nước Mĩ Latinh- nơi mà
Trung Quốc và Nga đang tăng cường ảnh hưởng. Đây là vấn đề rất quan trọng
đối với Mĩ, nếu “chậm chân”, Washington sẽ vĩnh viễn bị gạt ra bên lề các tiến
trình chính trị, kinh tế và an ninh ở khu vực được coi là “sân sau” của họ.
Thứ tư, lấy lại uy tín và ảnh hưởng đã bị suy giảm đáng kể ở khu vực
Trong những năm gần đây, môi trường địa- chính trị khu vực Mĩ Latinh
- vốn là “sân sau” của Mĩ đã có thay đổi căn bản. Theo đó, các nước Mĩ
Latinh đều đi theo hướng cảnh tả, nhất là cảnh tả ôn hòa ở các nước, như
Brazil, Argentina hay chính phủ cảnh tả cấp tiến ở Vênzuena, làm cho vai trò
chủ đạo của Washington đối với khu vực này bị suy giảm đáng kể. Trong khi
đó, Cuba không chỉ là nước xã hội chủ nghĩa duy nhất ở Tây bán cầu, mà còn
là một trong những ngọn cờ đầu của phong trào cảnh tả Mĩ latinh, nên có uy
tín và quan hệ mật thiết với các nước trong khu vực.
Không chỉ với Cuba mà với nhiều nước Mĩ Latinh khác, Mĩ cũng đang

vấp phải những sự bất bình ra mặt. Người ta vẫn nhớ việc Tổng thống Brazil
Dilma Rousseff đã lập tức hủy quyết định chuyến thăm cấp nhà nước đến
Washington ngay khi nghe tin Mĩ nghe lén mình. Các thông tin Mĩ nghe lén
bị các cựu nhân viên NSA Edward Snowden tiết lộ cũng khiến Argentina và
Brazil tìm đến nhau để bàn giải pháp tăng cường phòng thủ an ninh mạng của
hai nước. Hằng năm, vào thời điểm định kì tổ chức Hội nghị thượng đỉnh các
nước châu Mĩ, các nước Mĩ Latinh thường mời Cuba, bất chấp sự phản đối

22


×