Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

Hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng và những vấn đề thực tiễn pháp lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.7 KB, 26 trang )

Hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của các Tổ chức tín dụng
và những vấn đề thực tiễn pháp lý
MỞ ĐẦU
Trong những năm qua, nên kinh tế nước ta đã phát triển với tốc độ khá cao, điều
này phản ánh tiềm lực của hệ thống Ngân hàng rất mạnh mẽ và các Tổ chức tín
dụng đóng vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Đồng
thời cũng phản ánh nhu cầu vốn cho nền kinh tế nước ta là hết sức lớn. Bên cạnh
những mặt tích cực đã đạt được, hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng những
năm qua đã nảy sinh một số biểu hiện không lành mạnh, báo hiệu nguy cơ rủi ro
thất thoát vốn tín dụng từ các khoản nợ sau cho vay của các tổ chức tín dụng ngày
càng chồng chất. Nếu muốn có một nền kinh tế ổn định, đòi hỏi quốc gia phải có hệ
thống ngân hàng vững mạnh, Chính phủ phải thiết lập được hệ thống pháp luật chặt
chẽ để đảm bảo được hành lang an toàn cho hệ thống các Tổ chức tín dụng.
Chính vì vậy, để thấy được rõ hơn tầm quan trọng của hoạt động cho vay theo hợp
đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng , em xin lựa chọn đề tài số 8: “Tìm hiểu hoạt
động cho vay theo hợp đồng tín dụng của các tổ chức tín dụng và những vấn đề
thực tiễn pháp lý, đề xuất hướng giải quyết để xử lý đối với các khoản nợ sau cho
vay của tổ chức tín dụng.” làm đề tài cho bài tập học kỳ của mình.
B. NỘI DUNG
I. KHÁI QUÁT HOẠT ĐỘNG CHO VAY THEO HỢP ĐỒNG TÍN DỤNG CỦA
TỔ CHỨC TÍN DỤNG
1. Khái niệm hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng


Cho vay là một hiện tượng kinh tế khách quan, xuất hiện trong xã hội loài người có
tình trạng tạm thời thừa và tạm thời thiếu vốn. Trong pháp luật dân sự, hiểu theo
nghĩa chung nhất, cho vay là việc một người thỏa thuận để cho người khác được sử
dụng tài sản của mình trong một thời hạn nhất định với điều kiện có hoàn trả, dựa
trên cơ sở sự tín nhiệm của mình với người đó.
Theo quy định Điều 17 Quyết định số: 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31 tháng 12
năm 2001 của Thống đống ngân hàng nhà nước, Về việc ban hành Quy chế cho vay


của tổ chức tín dụng đối với khách hàng: “Việc cho vay của tổ chức tín dụng và
khách hàng vay phải được lập thành hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có
nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng vốn vay, phương thức cho vay, số vốn
vay, lãi suất, thời hạn cho vay, hình thức bảo đảm, giá trị tài sản bảo đảm, phương
thức trả nợ và những cam kết khác được các bên thỏa thuận”.
Hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng là một hoạt động
cho vay dựa trên hình thức pháp lí của quan hệ cho vay giữa tổ chức tín dụng với
khách hàng là hợp đồng tín dụng; tức là, một hoạt động cấp tín dụng của tổ chức tín
dụng cho khách hàng, trong đó tổ chức tín dụng giao cho khách hàng sử dụng một
khoản tiền để sử dụng vào mục đích và thời gian nhất định theo thỏa thuận được ghi
nhận trong hợp đồng tín dụng giữa hai bên chủ thể trong quan hệ cho vay, với
nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi. Tổ chức tín dụng có quyền cho vay ngắn hạn,
trung hạn, dài hạn thông qua hợp đồng tín dụng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản
xuất kinh doanh và đời sống. Khi cho vay, tổ chức tín dụng phải tuân thủ các
nguyên tắc, quy chế pháp lý về cho vay.
2. Đặc điểm hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng
Hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng luôn mang những yếu tố cấu thành cơ bản
của quan hệ cho vay nói chung. Ngoài những dấu hiệu chung của quan hệ cho vay,
hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng còn thể hiện ở
những dấu hiệu có tính đặc thù sau:


Một là, việc cho vay của tổ chức tín dụng là hoạt động nghề nghiệp kinh doanh
mang tính chức năng. Mặc dù theo luật Việt Nam hiện hành, các tổ chức khác
không phải là tổ chức tín dụng cũng có thể thực hiện việc cho vay đối với khách
hàng như một hoạt động kinh doanh nhưng hoạt động cho vay của tổ chức này hoàn
toàn không phải là nghề nghiệp kinh mang tính chức năng như đối với các tổ chức
tín dụng.
Hai là, hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng không chỉ là một nghề kinh doanh
mà hơn nữa còn là một nghề nghiệp kinh doanh có điều kiện, thể hiện ở chỗ hoạt

động cho vay chuyên nghiệp của tổ chức tín dụng phải thỏa mãn một số điều kiện
nhất định như phải có vốn pháp định, phải được Ngân hàng Nhà nước cấp giấy phép
hoạt động ngân hàng trước khi tiến hành việc đăng ký kinh doanh theo luật định.
Ba là, hoạt động cho vay của tổ chức tín dụng ngoài việc tuân thủ các quy định
chung của pháp luật về hợp đồng, nó còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật về hợp
đồng còn chịu sự điều chỉnh, chi phối của các đạo luật về Ngân hàng, kể cả tập quán
thương mại về ngân hàng.
3. Các nguyên tắc của hoạt động cho vay theo hợp đồng tín dụng(HĐTD) của tổ
chức tín dụng (TCTD)
a) Nguyên tắc tránh rủi ro, bảo đảm an toàn trong hoạt động tín dụng:
Trong hoạt động ngân hàng thường có tính rủi ro rất cao và thường mang tính chất
dây chuyền đối với nhiều lợi ích khác nhau trong xã hội. Để tránh những rủi ro này,
các tổ chức tín dụng ngày nay thường thực hiện việc thẩm định tín dụng với tám
biện pháp thẩm định sau: tính cách người đi vay (character), tư cách của người đi
vay (capacity), khả năng trả nợ (capability), dòng tiền (cashflow), vốn (capital),
điều kiện hoạt động (conditions), tài sản chung (collectability) và tài sản thế chấp
(collateral).


b) Nguyên tắc phải sử dụng vốn vay đúng mục đích:
Nguyên tắc này đảm bảo cho các tổ chức tín dụng tránh được những rủi ro từ bên
vay, đồng thời đảm bảo được tính thực hiện hợp đồng, nếu bên vay vi phạm nguyên
tắc này thì bên cho vay có quyền huỷ bỏ hợp đồng và bên vay phải chịu sự điều
chỉnh theo pháp luật.
c) Nguyên tắc hoàn trả khoản tín dụng đúng hạn cả gốc và lãi theo thoả thuận:
Bên vay phải đảm bảo thực hiện đúng nguyên tắc này. Trường hợp bên vay có thể
trả chậm hơn thời han quy định nếu có sự gia hạn và được bên cho vay chấp thuận,
nhưng vẫn phải đảm bảo nguyên tắc này, thanh toán cả gốc và lãi theo đúng thời
gian đã gia hạn.
4. Phân loại cho vay theo hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng

Với sự phát triển không ngừng và đa dạng hóa nhiều hoạt động ngân hàng hiện nay,
việc phân loại cho vay của TCTD có ý nghĩa quan trong cả về lý luận và thực
tiễn .Điều đó thể hiện ở chỗ ,dựa vào kết quả phân loại cho vay mà các nhà làm luật
có thể xây dựng thành những quy chế cho vay phù hợp với hoạt động thực tiễn
nghiệp vụ của các tổ chức tín dụng. Ở đây, em xin đưa ra một số hình thức cho vay
căn cứ vào những tiêu chí sau đây:
a) Căn cứ vào thời hạn sử dụng vốn:
- Cho vay ngắn hạn: là hình thức cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách
hàng với thời hạn sử dụng vốn vay do các bên thỏa thuận là đến một năm. Hình
thức này chủ yếu đáp ứng nhu cầu về vốn lưu động của khách hàng trong hoạt động
kinh doanh hoặc thỏa mãn nhu cầu về tiêu dùng của khách hàng trong một thời hạn
ngắn.


- Cho vay trung và dài hạn: hình thức này khác cho vay ngắn hạn là với thời gian
thỏa thuận là từ trên một năm trở lên. Người đi vay sử dụng hình thức này để thỏa
mãn nhu cầu mua sắm tài sản cố định trong kinh doanh, thỏa mãn nhu cầu sinh
hoạt, tiêu dùng như mua sắm nhà ở, phương tiện đi lại…
b) Căn cứ vào tính chất có bảo đảm của khoản vay:
- Cho vay có bảo đảm bằng tài sản: là hình thức cho vay trong đó nghĩa vụ trả nợ
tiền vay được bảo đảm bằng tài sản của bên vay hoặc của người thứ ba. Việc cho
vay này phải được bảo đảm dưới hình thức ký kết cả hai loại hợp đồng, bao gồm
hợp đồng tín dụng và hợp đồng bảo đảm tiền vay (hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế
chấp, hợp đồng bảo lãnh). Pháp luật cũng cho các bên có thể thỏa thuận lập một hợp
đồng nên trong trường hợp này các thỏa thuận về bảo đảm tiền vay được xem là
một bộ phận hợp thành của hợp đồng có bảo đảm bằng tài sản.
- Cho vay không có bảo đảm bằng tài sản: là hình thức cho vay trong đó nghĩa vụ
hoàn trả tiền vay không được bảo đảm bằng các tài sản cụ thể, xác định của khách
hàng vay hoặc của người thứ ba. Thông thường các bên chỉ giao kết một hợp đồng
duy nhất là hợp đồng tín dụng. Trong trường hợp tổ chức tín dụng cho vay có bảo

đảm bằng tín chấp thì vẫn phải xác lập một văn bản cam kết bảo lãnh bằng uy tín
của mình và gửi cho tổ chức tín dụng để khách hàng vay có thể được tổ chức tín
dụng chấp nhận cho vay.
c) Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn:
- Cho vay kinh doanh: là hình thức cho vay trong đó các bên cam kết số tiền vay sử
dụng vào mục đích thực hiện các công việc kinh doanh của mình. Nếu bên vay vi
phạm sử dụng vào những mục đích khác thì bên cho vay có quyền áp dụng các chế
tài thích hợp như đình chỉ việc sử dụng vốn vay hoặc thu hồi vốn vay trước thời
hạn…


- Cho vay tiêu dùng: bên tham gia vay cam kết số tiền vay sẽ được sử dụng vào việc
thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt hay tiêu dùng như mua sắm đồ gia dụng, mua sắm nhà
cửa hoặc phương tiện đi lại, hay sử dụng vào mục đích học tập…
c) Căn cứ vào phương thức cho vay:
- Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn, khách hàng và TCTD làm thủ tục vay vốn cần
thiết và ký kết hợp đồng tín dụng. TCTD áp dụng phương thức cho vay này khi
khách hàng vay có nhu cầu vay vốn không thường xuyên. Mỗi lần có nhu cầu vay
vốn, khách hàng lập hồ sơ vay vốn theo quy định.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng: Cho vay theo hạn mức tín dụng được áp dụng đối
với khách hàng vay có nhu cầu vay vốn thường xuyên và có đặc điểm sản xuất
– kinh doanh, luân chuyển vốn không phù hợp với phương thức cho vay từng lần
Căn cứ vào phương án, kế hoạch sản xuất, kinh doanh, nhu cầu vay vốn của khách
hàng, tài sản bảo đảm tiền vay, TCTD và khách hàng xác định và thoả thuận một
hạn mức tín dụng duy trì trong khoảng thời gian nhất định hoặc theo chu kỳ sản
xuất, kinh doanh.
- Cho vay theo dự án đầu tư: TCTD cho khách hàng vay vốn để thực hiện các dự án
đầu tư phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư phục vụ đời
sống.
- Cho vay hợp vốn: Theo phương thức này, một nhóm TCTD cùng thực hiện cho

vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng; trong đó,
một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp. Cho vay hợp vốn được thực hiện theo
quy chế này và quy chế đồng tài trợ của các TCTD do Thống đốc Ngân hàng nhà
nước ban hành.


- Cho vay trả góp: Khi vay, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận
số lãi vốn vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra để trả nợ theo nhiều kỳ hạn
trong thời hạn cho vay.
- Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: TCTD chấp nhận
cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh
toán tiềm mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hoặc điểm
ứng tiền mặt là đại lý của TCTD. Việc cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử
dụng thẻ tín dụng theo quy định của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước về phát hành
và sử dụng thẻ tín dụng.
- Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: TCTD cam kết đảm bảo sẵn sàng cho
khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định để đầu tư cho dự án.
TCTD và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng,
mức trả phí hco hạn mức tín dụng dự phòng.
- Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà TCTD thoả thuận bằng văn
bản chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của
khách hàng phù hợp với các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước về
hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
II.PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG CHO VAY THEO HỢP ĐỒNG TÍN
DỤNG CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG
Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng tín dụng
Khái niệm: Hợp đồng tín dụng là là sự thoả thuận bằng văn bản giữa tổ chức tín
dụng (bên cho vay) với khách hàng (bên vay, tổ chức, cá nhân) nhằm xác lập quyền
và nghĩa vụ nhất định giữa các bên theo quy định của pháp luật, theo đó tổ chức tín
dụng (bên cho vay) chuyển giao một khoản vốn tiền tệ cho khách hàng (bên vay) sử



dụng trong một thời hạn nhất định với điều kiện khách hàng sẽ hoàn trả khoản tiền
đó (tiền gốc) và lãi vay sau một thời gian nhất định.
Đặc điểm của hợp đồng tín dụng:
Hợp đồng tín dụng phải được lập dưới hình thức bằng văn bản.
Nội dung hợp đồng thể hiện sự đồng ý giữa bên cho vay chấp nhận cho bên vay sử
dụng một số tiền của mình trong thời hạn nhất định, với điều kiện có hoàn trả dựa
trên sự tín nhiệm.
Về chủ thể: bên cho vay bắt buộc phải là tổ chức tín dụng, có đủ điều kiện luật định,
còn bên vay có thể là tổ chức, cá nhân có đủ điều kiện vay vốn do pháp luật quy
định. Đối tượng của hợp đồng tín dụng bao giờ cũng là tiền, bao gồm tiền mặt và
bút tệ.
Hợp đồng tín dụng chứa đựng rất nhiều rủi ro cho quyền lợi của bên cho vay. Nếu
thời hạn cho vay càng dài thì nguy cơ rủi ro và bất trắc càng lớn.
Về cơ chế thực hiện quyền và nghĩa vụ: nghĩa vụ chuyển giao tiền vay của bên cho
vay bao giờ cũng phải được thực hiện trước để làm cơ sở và tiền đề cho việc thực
hiện quyền và nghĩa vụ của bên vay.
Chủ thể của hợp đồng tín dụng
a. Bên cho vay:
Theo quy định của pháp luật hiện hành, một tổ chức tín dụng muốn trở thành chủ
thể cho vay trong hợp đồng tín dụng phải thoả mãn các điều kiện sau:
Có giấy phép thành lập và hoạt động do Ngân hàng Nhà nước cấp.


Có điều lệ do Ngân hàng Nhà nước chuẩn y.
Có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hợp pháp.
Có người đại diện đủ năng lực và thẩm quyền để giao kết hợp đồng tín dụng với
khách hàng.
Đối với tổ chức không phải là tổ chức tín dụng (TCTD), muốn trở thành chủ thể cho

vay trong hoạt động tín dụng (HĐTD) thì chỉ cần thoả mãn các điều kiện như có
giấy phép hoạt động ngân hàng, có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và có
người đại diện hợp pháp. Trong giấy phép hoạt động ngân hàng và giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh của loại tổ chức này phải ghi rõ hoạt động cho vay là hoạt động
ngân hàng đươc phép thực hiện.
b. Bên vay:
Bên vay là tổ chức, cá nhân phải thoả mãn các điều kiện sau (về nguyên tắc, những
điều kiện này có tính chất bắt buộc chung với mọi chủ thể đi vay trong mọi hợp
đồng tín dụng):
- Bên vay phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự. Đối với tổ chức là
pháp nhân hay không phải là pháp nhân thì phải có người đại diện hợp pháp có đủ
năng lực và thẩm quyền đại diện cho tổ chức đó khi ký kết hợp đồng tín dụng.
- Mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp.
Ngoài ra bên vay còn có một số điều kiện chung sau (những điều kiện này chỉ có
tính bắt buộc phải thỏa mãn đối với bên vay khi chúng được các bên thoả thuận rõ
trong hợp đồng tín dụng):


Bên vay có khả năng tài chính đảm bảo trả nợ trong thời hạn cam kết.
Bên vay có phương án sử dụng vốn khả thi, hiệu quả.
Bên vay có tài sản cầm cố, thế chấp hoặc có bảo lãnh bằng tài sản của người thứ ba
trên cơ sở hợp đồng cầm cố, hợp đồng thế chấp, hợp đồng bảo lãnh.
Giao kết hợp đồng tín dụng
Giao kết hợp đồng tín dụng là một quá trình mang tính chất kỹ thuật nghiệp vụ –
pháp lý do các bên thực hiện theo một trình tự luật định. Việc giao kết hợp đồng tín
dụng bao gồm các giai đoạn chủ yếu sau đây:
Đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: là hành vi pháp lý do một bên thực hiện dưới
hình thức văn bản chính thức gửi cho bên kia, với nội dung thể hiện ý chí mong
muốn được giao kết hợp đồng tín dụng.
Thông thường, bên đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng là các tổ chức, cá nhân có

nhu cầu vay vốn và văn bản đề nghị chính là đơn xin vay, được gửi kèm theo các
giấy tờ, tài liệu chứng minh tư cách chủ thể và khả năng tài chính hay phương án sử
dụng vốn vay. Các tài liệu này do bên vay gửi cho tổ chức tín dụng để xem xét,
thẩm định và được coi như bằng chứng đề nghị giao kết hợp đòng tín dụng.
Thực tiễn giao kết hợp đồng tín dụng ở Việt Nam trong những năm gần đây cho
thấy, có nhiều trường hợp bên chủ động giao kết hợp đồng tín dụng lại chính là tổ
chức tín dụng chứ không phải là khách hàng, nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh
và mở rộng thị trường tín dụng. Những tổ chức tín dụng đã từng đi tiên phong trong
việc lựa chọn phương thức này chính là các ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên
doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. Trong trường hợp này, văn
bản đề nghị là thư chào mời được tổ chức tín dụng gửi cho tổ chức, cá nhân có khả
năng tài chính mạnh, có uy tín trên thương trường và có nhu cầu vay vốn thường


xuyên (gọi là những khách hàng tiềm năng) mà tổ chức tín dụng lựa chọn là bên đối
tác. Trong thư chào mời, bên đề nghị (tổ chức tín dụng) thường đưa ra những điều
kiện có tính chất tổng quát nhất kèm theo những ước khoản cụ thể để cho bên kia
xem xét chấp nhận. Tuy nhiên, do một thư chào mời có thể không nhất thiết phải là
một văn bản dự thảo hợp đồng nên trong thực tế, nếu bên tiếp nhận thư chào mời có
hành vi chấp nhận toàn bộ nội dung của thư chào mời đó thì không vì thế mà hợp
đồng tín dụng được coi là đã hình thành.
Thẩm định hồ sơ tín dụng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng:
Thẩm định hồ sơ tín dụng: là tất cả những hành vi mang tính nghiệp vụ – pháp lý do
tổ chức tín dụng thực hiện nhằm xác định các điều kiện vay vốn đối với bên vay,
trên cơ sở đó mà quyết định cho vay hay không. Do tính đặc biệt quan trọng của
giai đoạn này trong cả quá trình từ cho vay đến thu nợ nên pháp luật đòi hỏi bên cho
vay là tổ chức tín dụng phải triệt để tuân thủ nguyên tắc đảm bảo tính độc lập, phân
định rõ ràng trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm liên đới giữa khâu thẩm định và
khâu quyết định cho vay. Sau khi đã thẩm định hồ sơ tín dụng của khách hàng, bên
cho vay có toàn quyền quyết định việc chấp nhận hoặc từ chối cho vay. Trong

trường hợp từ chối cho vay, tổ chức tín dụng phải thông báo cho khách hàng bằng
văn bản và phải nêu rõ lí do từ chối cho vay. Việc từ chối cho vay không có căn cứ
xác đáng có thể là lí do để khách hàng thực hiện hành vi đối kháng với tổ chức tín
dụng theo quy định của pháp luật.
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng tín dụng: là hành vi pháp lý do bên nhận đề
nghị thực hiện dưới hình thức một văn bản chính thức gửi cho bên kia với nội dung
thể hiện sự đồng ý giao kết hợp đồng tín dụng. Theo đó, hành vi chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng tín dụng chỉ có giá trị như một lời tuyên bố đồng ý ký kết hợp
đồng chứ không thể thay thế cho việc giao kết hợp đồng giữa các bên. Có nghĩa là
việc giao kết hợp đồng tín dụng chỉ được xem là hoàn thành sau khi các bên đã trải
qua giai đoạn thương lượng, đàm phán trực tiếp các điều khoản của hợp đồng (bao


gồm các điều khoản chủ yếu, điều khoản thường lệ, điều khoản tùy nghi) và người
đại diện có thẩm quyền của các bên đã trực tiếp ký tên vào bản hợp đồng tín dụng.
Đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng: Đây là giai đoạn cuối cùng, cũng
là giai đoạn trọng tâm của quá trình giao kết hợp đồng tín dụng. Trong giai đoạn
này, các bên gặp nhau để đàm phán các điều khoản của hợp đồng tín dụng. Giai
đoạn này được coi là kết thúc khi đại diện của các bên đã chính thức ký tên vào văn
bản hợp đồng tín dụng.
Hình thức của hợp đồng tín dụng
Theo quy định tại Điều 51 Luật các tổ chức tín dụng, mọi hợp đồng tín dụng đều
phải được ký kết bằng văn bản thì mới có giá trị pháp lý. Sở dĩ pháp luật quy định
như vậy là vì những ưu điểm sau đây:
- Hợp đồng tín dụng được ký kết bằng văn bản sẽ tạo ra một bằng chứng cụ thể cho
việc thực hiện hợp đồng và giải quyết các tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín
dụng.
- Việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản thực chất là một sự công bố công
khai, chính thức về mối quan hệ pháp lý giữa những người lập ước để cho người thứ
ba biết rõ về việc lập ước đó mà có những phương cách xử sự hợp lý, an toàn trong

trường hợp cần thiết.
- Việc ký kết hợp đồng tín dụng bằng văn bản mới có thể khiến cho các cơ quan có
trách nhiệm của chính quyền thi hành công vụ được tốt hơn.
Theo quy định hiện hành, văn bản hợp đồng tín dụng được hiểu bao gồm văn bản
viết và văn bản điện tử. Hợp đồng tín dụng được xác lập thông qua phương tiện
điện tử dưới hình thức thông điệp dữ liệu được coi là giao dịch bằng văn bản. Các


hợp đồng điện tử được coi là có giá trị pháp lý như văn bản hợp đồng viết và có giá
trị chứng cứ trong quá trình giao dịch.
Nội dung của hợp đồng tín dụng
Nội dung của hợp đồng tín dụng là tổng thể những điều khoản do các bên có đủ tư
cách chủ thể cam kết với nhau một cách tự nguyện, bình đẳng và phù hợp với pháp
luật. Các điều khoản này vừa thể hiện ý chí của các bên, đồng thời cũng làm phát
sinh những quyền và nghĩa vụ pháp lý cơ bản của mỗi bên tham gia hợp đồng tín
dụng.
Theo quy định tại điều 51 Luật các tổ chức tín dụng, nội dung của hợp đồng tín
dụng bao gồm các điều khoản cơ bản sau đây:
Điều khoản về điều kiện vay vốn. Khi thỏa thuận điều khoản này, các bên cần ghi
rõ trong hợp đồng tín dụng những tiêu chuẩn cụ thể mà bên vay phải thỏa mãn thì
hợp đồng tín dụng mới có hiệu lực.
Điều khoản về đối tượng hợp đồng. Trong điều khoản này, các bên phải thỏa thuận
về số tiền vay, lãi suất cho vay, tổng số tiền phải trả khi hợp đồng tín dụng đáo hạn.
Điều khoản về thời hạn sử dụng vốn vay. Các bên phải ghi rõ trong hợp đồng tín
dụng về ngày, tháng, năm trả tiền, hoặc phải trả tiền sau bao lâu kể từ ngày ký hợp
đồng. Nếu có thể gia hạn hợp đồng thì các bên cũng dự liệu trước về khả năng này
trong hợp đồng tín dụng, còn thời gian gia hạn sẽ tiến hành thỏa thuận sau trong quá
trình thực hiện hợp đồng tín dụng.
Điều khoản về phương thức thanh toán tiền vay. Đây là một điều khoản rất quan
trọng vì nó liên quan trực tiếp đến việc thu hồi vốn và lãi cho vay. Vì thế, các bên

phải thỏa thuận rõ ràng số tiền vay sẽ được hoàn trả dần hàng tháng (trả góp) hay là
trả toàn bộ một lần khi hợp đồng vay đáo hạn. Nếu khoản vay được thỏa thuận


thanh toán theo từng kỳ hạn thì các bên cũng có thể dự liệu trước về khả năng điều
chỉnh kỳ hạn trả nợ cho phù hợp với khả năng tài chính của bên vay khi trả nợ.
Điều khoản về mục đích sử dụng tiền vay. Trong điều khoản này, các bên cần ghi rõ
vốn vay sẽ được sử dụng vào mục đích gì. Việc thỏa thuận điều khoản này trong
hợp đồng tín dụng được xem như một giải pháp đảm bảo sự an toàn về vốn cho
người đầu tư là các tổ chức tín dụng, nhằm tránh trường hợp bên vay sử dụng vốn
một cách tùy tiện vào mục đích phiêu lưu, mạo hiểm. Mặt khác, để bảo đảm lợi ích
của cả hai bên và đảm bảo cho đồng vốn đầu tư được sử dụng hiệu quả, pháp luật
cũng cho phép trong thời gian sử dụng vốn, các bên có quyền thỏa thuận lại về mục
đích sử dụng vốn vay mỗi khi xét thấy thời cơ và điều kiện sử dụng vốn đã thay đổi.
Điều khoản về giải quyết tranh chấp hợp đồng tín dụng. Đây là điều khoản mang
tính chất thường lệ, theo đó các bên có quyền thỏa thuận về biện pháp giải quyết
tranh chấp bằng con ¬đường thương lượng, hòa giải hoặc lựa chọn cơ quan tài phán
sẽ giải quyết tranh chấp cho mình. Nếu trong hợp đồng tín dụng không ghi điều
khoản này, có nghĩa là các bên không thỏa thuận thì việc xác định thẩm quyền, thủ
tục giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng tín dụng đó sẽ được thực hiện theo
quy định của pháp luật.
Ngoài ra, nếu hợp đồng tín dụng được giao kết có điều kiện bảo đảm bằng tài sản
như cầm cố, thế chấp, bảo lãnh thì các bên có thể thỏa thuận một điều khoản riêng
rẽ nằm trong hợp đồng tín dụng (hợp đồng chính), hoặc lập thành một hợp đồng phụ
đính kèm theo hợp đồng chính.
6. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng tín dụng
a) Quyền và nghĩa vụ của bên cho vay:
- Nghĩa vụ chuyển giao tiền vay đầy đủ, đúng hạn và địa điểm cho khách hàng vay
sử dụng (nghĩa vụ giải ngân).



- Nghĩa vụ kiểm tra, giám sát việc sử dụng tiền vay và trả nợ của khách hàng.
- Quyền yêu cầu bên vay hoàn trả tiền vay đúng thỏa thuận, kể cả tiền phạt, tiền bồi
thường thiệt hại (nếu có).
b) Quyền và nghĩa vụ của bên vay:
- Quyền từ chối các yêu cầu không hợp lý của tổ chức tín dụng khi ký kết, thực hiện
và thanh lý hợp đồng tín dụng.
- Quyền khiếu nại, khởi kiện việc từ chối cho vay không có căn cứ hoặc các vi
phạm hợp đồng tín dụng của tổ chức tín dụng.
- Quyền yêu cầu bên cho vay thực hiện nghĩa vụ giải ngân đúng thỏa thuận trong
hợp đồng tín dụng.
- Nghĩa vụ sử dụng tiền vay hiệu quả và đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp
đồng tín dụng.
- Nghĩa vụ hoàn trả tiền vay cả gốc và lãi, trả tiền phạt vi phạm hợp đồng tín dụng
và tiền bồi thường thiệt hại cho bên cho vay (nếu có).
7. Vấn đề hiệu lực của hợp đồng tín dụng
a) Các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng tín dụng
Chủ thể tham gia hợp đồng tín dụng phải có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành
vi dân sự
Mục đích và nội dung của HĐTD không trái pháp luật đạo đức và xã hội.


Có sự đồng thuận ý chí giữa các bên cam kết trên nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng
và tự do ý chí.
Hình thức của HĐTD phải phù hợp với quy định của pháp luật ngân hàng.
b) Thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD
Thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD là điểm mốc thời gian mà kể từ đó quyền
và nghĩa vụ pháp lý của các bên tham gia HĐTD bắt đầu phát sinh. Trên thực tế,
pháp luật của từng nước có những quy định rất khác nhau về thời điểm phát sinh
hiệu lực của HĐTD. Còn ở Việt Nam, theo Đ405 BLDS 2005 ta có thể lý giải rằng

thời điểm phát sinh hiệu lực của HĐTD là thời điểm các bên đã thỏa thuận xong các
điều khoản của hợp đồng và bên sau cùng đã ký tên vào văn bản HĐTD.
c) Sự vô hiệu của HĐTD và các nguyên tắc xử lí hậu quả vô hiệu
Trên nguyên tắc, khi một HĐTD không thoả mãn một trong số các điều kiện có
hiệu lực do pháp luật quy định thì giao dịch đó bị coi là vô hiệu và sự vô hiệu này,
về lí thuyết có thể được nhìn nhận là ở trạng thái tuyệt đối (đương nhiên vô hiệu)
hoặc tương đối (có thể vô hiệu).
Trong khoa học pháp lí, việc xác định trạng thái vô hiệu (tuyệt đối hoặc tương đối)
của các giao dịch pháp lí nói chung và giao dịch thương mại của ngân hàng nói
riêng thường dựa vào nguyên tắc cơ bản là:
HĐTD bị coi là vô hiệu tuyệt đối khi mục đích, nội dung, hình thức của hợp đồng vi
phạm các điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội và phương hại đến lợi ích
chung. Hậu quả pháp lý xảy ra là: Hợp đồng không phát sinh hiệu lực kể từ thời
điểm kí kết; các bên phải phục hồi tình trạng ban đầu như trước khi kí kết hợp đồng.


HĐTD bị coi là vô hiệu tương đối khi chủ thể tham gia HĐ ko có năng lực hành vi
dân sự hoặc hợp đồng kí kết không có sự tự nguyện và đồng thuận giữa các bên kí
kết. Hậu quả pháp lý xảy ra cũng giống như đối với HĐTD vô hiệu tuyệt đối.
8.Trách nhiệm pháp lý do vi phạm HĐTD
a)Trách nhiệm pháp lý do vi phạm HĐTD
Trước khi đề cập đến các loại trách nhiệm pháp lý phát sinh do việc vi phạm HĐTD
ta tìm hiểu thế nào là vi phạm HĐTD và 1 hành vi phải thỏa mãn điều kiện gì thì
được coi là vi phạm hợp đồng.
Vi phạm HĐTD là hành vi của 1 bên hoặc cả 2 bên tham gia hợp đồng cố ý hoặc vô
ý làm trái các điều khoản đã cam kết trong HĐTD và phải thỏa mãn các điều kiện:
Người thực hiện hành vi phải là các bên tham gia HĐTD.
Trái với các điều khoản đã cam kết trong HĐTD.
Bên thực hiện hành vi có 1 lỗi xác định là cố ý hoặc vô ý.
Hành vi đó xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của bên đối ước hoặc quyền và lợi ích

chung của toàn xã hội hoặc của tổ chức, cá nhân khác.
Tùy thuộc vào mức độ hậu quả thực tế xảy ra mà có 2 loại trách nhiệm pháp lý phát
sinh khi có việc vi phạm HĐTD:
Trách nhiệm nộp phạt vi phạm HĐTD: nhằm để nâng cao tính kỷ luật hợp đồng nên
không cần phải chứng minh có thiệt hại vật chất xảy ra. Loại trách nhiệm này do
các bên thỏa thuận hoặc áp dụng theo quy định pháp luật.


Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm HĐTD: được áp dụng khi có thiệt hại
vật chất thực tế và xác định được chứng minh bởi bên bị vi phạm. Số tiền bồi
thường thiệt hại do các bên thỏa thuận hoặc thông qua phán quyết của cơ quan tài
phán có thẩm quyền.
b) Tranh chấp phát sinh từ HĐTD và cơ chế giải quyết tranh chấp
- Tranh chấp phát sinh từ HĐTD là tình trạng pháp lý của quan hệ HĐTD, trong đó
các bên thể hiện sự xung đột hay bất đồng ý chí với nhau về những quyền và nghĩa
vụ hoặc lợi ích phát sinh từ HĐTD.
- Giải quyết tranh chấp HĐTD bằng cơ chế thương lượng hoặc hòa giải qua trung
gian.
- Giải quyết tranh chấp HĐTD bằng cơ chế tài phán.
III.THỰC TIỄN PHÁP LÝ VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY THEO HỢP ĐỒNG TÍN
DỤNG CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG
Trong những năm qua, pháp luật về hoạt động cho vay theo HĐTD của các TCTD
đã không ngừng được xây dựng và hoàn thiện. Tuy nhiên, thực tế hoạt động cho
vay của ngân hàng cho thấy, đã phát sinh nhiều bất cập trong các chính sách của
Nhà nước, thực tiễn pháp lý về hoạt động này vẫn còn tồn tại không ít những vấn đề
bất cập.
Thứ nhất, một số quy định cho vay chưa phù hợp với thực tiễn của hoạt động tín
dụng ngân hàng. Điều 126 Luật TCTD 2010 hay Điều 19 của Quy chế cho vay của
TCTD ban hành kèm theo Quyết định 1627/2011/QĐ – NHNN ngày 31 tháng 12
năm 2001 quy định về những trường hợp không được cho vay. Quy định này còn

hơi cứng nhắc, nếu họ có tài sản thuộc quyền sở hữu hoặc sử dụng một cách hợp
pháp và muốn sử dụng để cầm cố thế chấp tại ngân hàng họ đang quản lý hoặc làm


việc thì việc cho vay đối với những đối tượng này không có gì mất an toàn, miễn là
họ sử dụng vốn vay một cách đúng quy định. Ngân hàng cho khách hàng vay dựa
trên những phương án khả thi, tài sản bảo đảm thì tại sao những người này đủ tiêu
chuẩn lại không cho vay. Quy định này đã phần nào loại bỏ một bộ phân không nhỏ
những khách hàng có tiềm năng của ngân hàng.
Thứ hai, quy định về giới hạn cho vay đối với một khách hàng còn nhiều bất cập.
Khoản 1 Điều 18 của Quy chế cho vay của TCTD ban hành kèm theo Quyết định số
1627/2011/QĐ – NHNN quy định “Tổng dư nợ cho vay đối với một khách hàng
không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng, trừ trường hợp đối với
những khoản cho vay từ các nguồn vốn uỷ thác của Chính phủ, của các tổ chức và
cá nhân”. Trên thực tế, khoảng thời gian cần thiết từ khi tổ chức tín dụng đề nghị
qua Ngân hàng Nhà nước lên tới Chính phủ đến khi có quyết định được phép cho
vay thường kéo dài vài tháng, làm lỡ nhiều cơ hội kinh doanh và không phù hợp với
cải cách hành chính hiện nay.
Thứ ba, một số quy định về cơ chế bảo đảm tiền vay và xử lý tài sản bảo đảm tiền
vay chưa thích hợp. Chẳng hạn, pháp luật hiện hành cho phép được sử dụng tài sản
bảo đảm là tài sản hình thành trong tương lai. Tuy nhiên, do là tài sản trong tương
lai nên không thể chắc chắn rằng tài sản đó được hình thành để cho ngân hàng xử
lý, bù lại mất mát nếu xảy ra tranh chấp. Mặt khác, sự thiếu đồng bộ, thiếu nhất
quán giữa các quy định pháp luật về giao dịch bảo đảm tiền vay với các bộ phận
pháp luật khác có liên quan như Bộ luật dân sự, pháp luật đất đai, pháp luật hợp
đồng, pháp luật về giải quyết tranh chấp… là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những
khó khăn, vướng mắc trong quá trình xử lý tài sản bảo đảm tiền vay. Các khó khăn
này không chỉ xảy ra cho khách hàng khi thực hiện thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh
tài sản để vay vốn tổ chức tín dụng mà còn gây khó khăn cho chính các tổ chức tín
dụng ngay trong quá trình thẩm định và phê duyệt các khoản vay có bảo đảm. Điều

này làm cho tỉ lệ nợ quá hạn của các tổ chức tín dụng ngày càng cao, nhất là trong
giao đoạn hiện nay, khi mạng lưới tín dụng đang được mở rộng.


Thứ tư, các quy định khống chế lãi suất trần không phù hợp. Tại Điều 476 Bộ Luật
dân sự quy định: “Lãi suất vay do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá
150% lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố đối với loại cho vay tương
ứng”. Theo phân tích của hiệp hội ngân hàng Việt Nam, quy định này không phù
hợp bởi các lý do sau:
- Một là, việc khống chế trần lãi suất cho vay như thời gian qua là biện pháp can
thiệp hành chính không phù hợp với nền kinh tế thị trường, làm hạn chế sự chủ
động và linh hoạt của các tổ chức tín dụng trong vấn đề huy động vốn và cho vay,
vì lãi suất hình thành dựa trên quan hệ cung cầu vốn của thị trường.
- Hai là, việc khống chế trần lãi suất cho vay tức là đánh đồng lãi suất của các loại
hình tín dụng vì mỗi loại hình tín dụng có mức độ rủi ro khác nhau, chi phí khác
nhau, vì vậy lãi suất cho vay khác nhau. Chính sách lãi suất trần cứng nhắc làm cho
các ngân hàng rất khó đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ, mặt khác, cũng làm hạn
chế sự phát triển của các dịch vụ tài chính mới của các ngân hàng như tín dụng bán
lẻ, tín dụng tiêu dùng, đây là những sản phẩm tất yếu của tổ chức tín dụng hiện đại.
- Ba là, để kiểm soát sự biến động bất thường của lãi suất trên thị trường tiền tệ,
ngân hàng nhà nước đã có các công cụ để kiểm soát như lãi suất tái chiết khấu, lãi
suất tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở và điều hành khối lượng tiền cung ứng mà
không cần giải pháp hành chính cứng nhắc như Điều 476 Bộ luật dân sự quy định.
- Bốn là, Nghị quyết số 23/2008/NQ – QH12 ngày 6/11/2008 của Quốc hội khóa
XII, kỳ họp thứ tư, trong đó cho phép “ Các tổ chức tín dụng điều hành lãi suất cho
vay trên cơ sở lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước theo quy định của pháp luật
và được phép cho vay theo lãi suất thỏa thuận đối với một số dự án sản xuất kinh
doanh có hiệu quả cao.” Để thực hiện Nghị quyết trên của Quốc hội, Chính phủ đã
ban hành Nghị quyết số 30/2008/NQ – CP ngày 11/12/2008 về những biện pháp cấp
bách nhằm ngăn chặn suy giảm kinh tế, trong đó đã cho phép “ Tổ chức tín dụng

thực hiện việc cho vay theo lãi suất thỏa thuận…” Vì vậy, để thực hiện thành công


các giải pháp kích cầu của Chính phủ, đã đến lúc cần thiết phải cho phép các tổ
chức tín dụng thực hiện cho vay theo lãi suất thỏa thuậnđể góp phần thúc đẩy phát
triển phong phú các loại hình dịch vụ, tín dụng, kích thích sản xuất và mở rộng thị
trường tiêu thụ trong nước phát triển.
- Năm là, vấn đề nợ quá hạn và nợ xấu:
+ Nợ quá hạn: Trong nền kinh tế thị trường, các TCTD thu lợi chủ yếu từ các khoản
cho vay với khách hàng, nhưng những khoản cho vay này lại rất dễ gặp những rủi
ro dẫn đến những khoản nợ quá hạn ngày càng lớn. Hiện nay, nợ quá hạn của các
ngân hàng thương mại bị coi là vấn đề bức xúc và phức tạp chất trong hoạt động
cho vay của các TCTD. Những khoản nợ quá hạn khổng lồ mà hiện tại ngành ngân
hàng đang phải gánh chịu đã làm ảnh hưởng rất lớn tới khả năng thanh toán, giảm
số tiên dự trữ và vốn của các TCTD. Chính “tảng băng” về nợ quá hạn đang lặng lẽ
nhấn chìm các TCTD vào vòng xoáy nợ nần mà các TCTD vẫn “không hề hay
biết”.Nợ quá hạn ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động của các TCTD, tới các
doanh nghiệp sử dụng vốn và kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Vì vậy, việc
tìm ra những giải pháp khắc phục tình trạng nợ quá hạn, đảm bảo việc thực hiện nợ
tín dụng đã trở thành một đòi hỏi cấp thiết, cần giải quyết không chỉ cho ngành
ngân hàng mà còn cho cả các cơ quan hữu quan.
+ Nợ xấu: Theo thống kê của Ngân hàng Nhà nước, nợ xấu của các Tổ chức tín
dụng có xu hướng tăng nhanh từ năm 2008 tới nay. Tính đến ngày 25-10-2012,
Ngân hàng Nhà nước cho biết, nợ xấu của toàn bộ nền kinh tế có địa chỉ tại hệ
thống ngân hàng ước khoảng 8,6% (cao hơn khá nhiều so với các quy định của
Basel là 2%) trên tổng dư nợ được cho từ 2,5 triệu tỷ đồng đến 2,8 triệu tỷ đồng.
Trong đó, hơn 85% nợ có tài sản bảo đảm bằng bất động sản có giá trị (theo định
giá ban đầu) vào khoảng 135% khoản nợ xấu. Hệ quả là nợ xấu của các TCTD
không ngừng tăng lên, trở thành “điểm nghẽn” của nền kinh tế đất nước, cản trở sự
lưu thông dòng vốn tín dụng. Song, thực tiễn cho thấy việc giải quyết vấn đề này



đang gặp phải rất nhiều khó khăn, trong đó có rào cản từ chính khuôn khổ pháp lý
về xử lý tài sản bảo đảm.
IV. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM GIẢI QUYẾT NHỮNG HẠN CHẾ CỦA PHÁP
LUẬT PHÁT SINH TRONG QUÁ TRÌNH CHO VAY
1. Cần quy định hạn mức cho vay, các hạn chế đảm bảo an toàn phù hợp với thực tế
thị trường
Luật nên nới lỏng hạn mức, đồng thời, tăng cường biện pháp đảm bảo an toàn khác
như chế độ cung cấp thông tin, biện pháp xử lý khi vốn ngân hàng, nên quy định
giới hạn cấp tín dụng đối với ngân hàng và tổ chức phi ngân hàng là như nhau nhằm
đảm bảo quyền lợi và nâng cao trách nhiệm, tính tự chủ cho các TCTD.
2. Phát triển hệ thống dịch vụ thông tin về khách hàng
Trong quan hệ tín dụng, một bên thường không biết tất cả các thông tin về bên kia.
Sự không cân bằng về thông tin đó gọi là thông tin không đối xứng. Để giải quyết
được tình trạng này, có nhiều bịên pháp đặt ra.Về phía các TCTD, để thoả mãn các
nhu cầu thông tin về khách hàng, thường dựa trên cơ sở giấy tờ, tài liệu mà khách
hàng cung cấp hoặc thông qua các phương tiện thông tin đại chúng hay sử dụng một
số biện pháp khác để thu thập. Tuy nhiên, phạm vi hoạt động cấp tín dụng ngày
càng mở rộng, các khách hàng của TCTD ngày càng đa dạng và phong phú, cùng
với nó việc nắm bắt các thông tin về khách hàng ngày càng trở nên khó khăn hơn.
Do nhu cầu thông tin lớn, trong khi bộ phận chuyên môn của TCTD không thể giải
quyết được hết nhu cầu đó, nên hình thành các doanh nghiệp chuyên thu thập và
cung cấp thông tin về khách hàng là giải pháp hữu ích và phù hợp với điều kiện hội
nhập kinh tế quốc tế hiện nay. Điều đó góp phần giảm thiểu những rủi ro về thông
tin của TCTD khi có một tổ chức chuyên nghiệp thực hiện. Việc xây dựng quy chế
tổ chức và hoạt động của loại doanh nghiệp này là rất cần thiết, sao cho doanh
nghiệp phải chịu trách nhiệm về độ trung thực và tính chính xác của các thông tin



mà mình cung cấp, bên cạnh đó cần phải giới hạn các thông tin mà doanh nghiệp
này được phép cung cấp đảm bảo không vi phạm các quy định của pháp luật về chế
độ thông tin.
3. Giải quyết xử lý quản lý đối với các khoản nợ sau cho vay của TCTD
Với tình hình thực tế của Việt Nam hiện nay, thì nợ xấu và nợ quá hạn đang là
những vấn đề ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động hiệu quả của các TCTD, kìm hãm
nền phát triển kinh tế đất nước. Trong khuôn khổ bài viết, em xin được đề cập đến
những hướng giải quyết xử lí đối với các khoản nợ quá hạn và nợ xấu của các
TCTD.
Đối với nợ quá hạn
Thứ nhất, về giải pháp ngăn ngừa nợ quá hạn: đây là một trong những giải pháp cần
được thực hiện thường xuyên, liên tục, một cách có chủ ý bởi người điều hành, lãnh
đạo TCTD và toàn bộ công nhân viên chức trong các TCTD, đặc biệt là đối với đội
ngũ cán bộ tín dụng. Để thành công trong việc nâng cao chất lượng thực hiện
HĐTD cần thực hiện biện pháp ngăn ngừa nợ quá hạn ngay từ lúc phát sinh món
vay cho đến khi thu hồi hết nợ gốc và lãi. TCTD cần thực hiện đầy đủ các quy định
về bảo đảm tiền vay, tăng cường công tác tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ của ngân hàng. Chấm dứt tình trạng cho vay đảo nợ để giảm nợ quá
hạn một cách giả tạo. Trong quá trình thực hiện HĐTD cán bộ tín dụng cần đi sâu
đi sát khách hàng, theo dõi chặt chẽ quá trình sử dụng vốn vay, nếu phát hiện dấu
hiệu không lành mạnh từ phía người vay cần có biện pháp ngăn chặn kịp thời.
Bên cạnh đó, các TCTD cũng cần phải nghiên cứu kỹ càng hơn tính đúng đắn về ý
nghĩa của việc chuyển nợ quá hạn theo Điều 13 Quyết định 1627, được sửa đổi, bổ
sung bằng khoản 4 điều 1 quyết định 127/2005/QĐ-NHNN, từ đó đề ra kế hoạch
hành động nhất quán, phù hợp với hoàn cảnh đổi mới và tiến trình hội nhập. Đặc
biệt là nhanh chóng thay đổi tư duy và ứng dụng kịp thời các chuẩn mực hoạt động


của ngân hàng thương mại quốc tế vào chuẩn mực hoạt động của ngân hàng mình,
tránh tình trạng chạy đua với các thành tích mang tính bề nổi, chẳng hạn như tìm

mọi cách để giảm tỷ lệ về nợ quá hạn càng thấp càng tốt mà bỏ qua những nguy cơ
tiềm ẩn đang rình rập và đe doạ ngân hàng đằng sau các khoản nợ quá hạn đó.
Thứ hai ,về biện pháp xử lý nợ quá hạn: việc TCTD phân tích nợ quá hạn theo định
kỳ có ý nghĩa rất quan trọng, giúp TCTD nắm được thực trạng chung của đơn vị và
của từng loại cho vay, từng nhóm khách hàng cụ thể, trên cơ sở đó có thể xử lý nợ
một cách thích hợp và có hiệu quả cao. Thông qua phân tích nợ, TCTD cần đề ra
hướng giải quyết hay biện pháp xử lý thích hợp với TCTD, với từng nhóm khách
hàng, và từng món vay cụ thể.
Xử lý quỹ dự phòng bù đắp rủi ro. Đây là một trong những biện pháp quan trọng để
lành mạnh hoá tài chính của các TCTD. Để thực hiện đúng đối tượng và có hiệu quả
biện pháp này, TCTD cần quan tâm: thực hiện nghiêm túc và chính xác việc phân
loại tài sản “có”, trích lập qũy dự phòng theo đúng quy định; rà soát các khoản nợ
khó đòi, có khả năng tổn thất để xác định đúng các khoản nợ thuộc đối tượng xử lý
bù đắp rùi ro; áp dụng triệt để các biện pháp tận thu; lập hồ sơ xử lý tài sản bảo đảm
đầy đủ, chính xác, hợp pháp, hợp lệ, đúng thời gian quy định; xử lý bù đắp rủi ro
theo đúng quy định và thẩm quyền giải quyết của từng cấp.
Khai thác các tài sản bảo đảm tiền vay được coi là biện pháp quan trọng trong việc
xử lý nợ quá hạn của TCTD. Vì tài sản bảo đảm nợ vay là nguồn thu hồi nợ thứ hai
của TCTD khi phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không thể thực
hiện hoặc thực hiện kém hiệu quả không có khả năng trả nợ. Trong trường hợp đó,
TCTD cần tiến hành rà soát lại toàn bộ hồ sơ, thủ tục bảo đảm tiền vay, thực hiện
biện pháp xử lý tài sản phù hợp với từng trường hợp cụ thể. Việc xử lý cần phải tiến
hành khẩn trương nhanh chóng, tranh thủ sự giúp đỡ của cơ quan hữu quan.
Đối với nợ xấu


Về phía các TCTD:
Thứ nhất, đối với các TCTD tính thanh khoán chưa đe dọa sự an toàn của cả hệ
thống: Phải tự xử lý thông qua các biện pháp đã và đang làm như: bán nợ, đòi trực
tiếp, thanh lý tài sản thế chấp, sử dụng quỹ dự phòng bù đắp các khoản nợ không

thu hồi được, hoặc chuyển nợ thành vốn góp nếu thấy khánh nợ có tương lai phát
triển.
Thứ hai, đối với các TCTD yếu kém, có nguy cơ mất khả năng thanh khoản: biện
pháp khả thi là sáp nhập, hoặc giải thể. Các tổ chức này đi tìm, hoặc bị sáp nhập
một cách cưỡng bức bởi một TCTD đủ mạnh. Nếu không sáp nhập được thì các
TCTD này sẽ đặt trong điều kiện kiểm soát đặc biệt của NHNN, nhằm từng bước
xử lý các tồn đọng để đi tới giải thể. Do quy mô tín dụng ngày một lớn, bản thân
các TCTD phải có giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động, giảm thiểu rủi ro hoạt
động để ngăn ngừa nợ xấu xuất hiện trở lại, như ban hành đầy đủ quy trình cho vay,
năng cao năng lực quản trị, điều hành, quản trị rủi ro.
Về phía Ngân hàng Nhà nước:
Phải có biện pháp quyết liệt để xác định số thực về quy mô và cơ cấu của nợ xấu
hiện nay, từ số liệu này mới có thể áp dụng các giải pháp cụ thể cho từng TCTD.
Xử lý nghiêm hành vi che dấu nợ xấu. Đồng thời sửa đổi, bổ sung về cách phân loại
nợ, trích lập sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng. Tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra trong các trường hợp cấp tín dụng, phân loại nợ, trích lập và sử dụng
quỹ dự phòng sai chế độ. Đồng thời có cơ chế buộc các TCTD trong một thời gian
phải đưa nợ xấu xuống một giới hạn nhất định.
Đối với các TCTD có quy mô lớn, ảnh hưởng nhiều tới sự an toàn của cả hệ thống
cũng như nền kinh tế và an sinh xã hội, có khả năng phát triển tiếp, sau khi tự giải
quyết nợ xấu vẫn còn ở mức cao, sẽ được NHNN bơm vốn để hỗ trợ, dưới hình


×