Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Sự khác biệt về quyền và nghĩa vụ của người cư trú và người không cư trú khi sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.74 KB, 21 trang )

Sự khác biệt về quyền và nghĩa vụ của Người cư trú và Người không
cư trú khi sử dụng ngọai hối trên lãnh thổ Việt Nam
.

Hiện nay, trong nền kinh tế hiện đại mỗi quốc gia đều có xu hướng
sử dụng ngoại hối để nhập khẩu hàng hóa hay can thiệp vào thị
trường hàng hóa, thị trường tiền tệ, điều hòa cán cân thanh toán
quốc tế…góp phần phát triển kinh tế đất nước. Đặc biệt từ sau khi
Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức WTO, nhu
cầu sử dụng ngoại hối ngày càng gia tăng không ngừng và có ảnh
hưởng sâu sắc lớn lao đối với nền kinh tế xã hội của quốc gia. Một
vấn đề nổi cộm hiện nay là nạn đô la hóa đang đe dọa chủ quyền
tiền tệ của Việt Nam. Tình trạng đôla hóa của nền kinh tế nước ta
có thể đã xảy ra ngay từ trước khi nước ta bắt đầu mở cửa và trở
nên phổ biến sau khi nền kinh tế trải qua thời kỳ lạm phát nghiêm
trọng vào cuối thập niên 1980 khiến đồng đôla Mỹ trở thành một
phương tiện dự trữ giá trị đáng tin cậy trước một đồng bạc Việt
Nam đang suy yếu. Thực trạng này rất đáng lo ngại và khiến
những nhà phân tích kinh tế trong và ngoài nước đã nhiều lần cảnh
báo về mặt trái của hiện tượng đôla hóa, nhất là tác động của nó
trong việc vô hiệu hóa các biện pháp kinh tế vĩ mô của nước ta.
Câu hỏi đặt ra là làm sao chúng ta có thể thành công trong việc
khuyến khích, nâng đỡ sản xuất trong nước, giải quyết nạn ứ đọng
và giảm giá hàng nội địa, giải quyết nạn thất nghiệp trong nỗ lực
khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ toàn
cầu vừa qua, khi mà đồng đôla cứ liên tục bơm hàng lậu với giá rẻ
mạt qua biên giới? Làm sao chúng ta có thể hỗ trợ hiệu quả cho
nhà xuất khẩu, khắc phục tình trạng nhập siêu kéo dài hàng thập


niên, khi mà sự hiện diện không thể kiểm soát của đồng đôla trong


nền kinh tế cứ thường xuyên đội tỷ giá đồng bạc Việt Nam lên cao?

Chính vì thế chính phủ Việt Nam đã tìm cách lựa chọn cho mình
những chính sách thích hợp trong quản lý ngoại hối và điều tiết
hoạt động ngoại hối, trong đó có quyền sử dụng ngoại hối của tổ
chức cá nhân trên lãnh thổ Việt Nam.
B- NỘI DUNG
Lý luận chung về sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam
I.1- Khái niệm ngoại hối và sử dụng ngoại hối
a) Ngoại hối là một khái niệm dùng để chỉ các phương tiện có giá
trị dùng để thanh toán giữa các quốc gia. Tùy theo quan niệm của
luật quản lý ngoại hối của mỗi nước mà khái niệm ngoại hối có thể
là không giống nhau.Tồn tại sự khác nhau này là do mỗi quốc gia
có chủ trương không giống nhau trong tìm hiểu về những tác động
hay ảnh hưởng của ngoại hối đối với đời sống kinh tế xã hội và cơ
chế quản lý sử dụng chúng phù hợp với thái độ của nhà cầm quyền
đối với ngoại hối, chính sách tiền tệ của nước đó trong từng thời
kỳ.
Các nhà làm luật Việt Nam lựa chọn giải pháp định nghĩa về ngoại
hối bằng cách liệt kê các tài sản được coi là ngoại hối gồm:


- Đồng tiền của quốc gia, lãnh thổ khác, đồng tiền chung Châu Âu
và các đồng tiền chung khác dùng trong thanh toán quốc tế và
khu vực (gọi là ngoại tệ);
- Phương tiện thanh toán bằng ngoại tệ, gồm séc, thẻ thanh toán,
hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, chứng chỉ tiền gửi và các
phương tiện thanh toán khác;
- Các loại giấy tờ có giá bằng ngoại tệ, gồm trái phiếu Chính phủ,
trái phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu và các loại giấy tờ có giá

khác;
- Vàng thuộc dự trữ ngoại hối Nhà nước, trên tài khoản ở nước
ngoài của người cư trú; vàng dưới dạng khối, thỏi, hạt, miếng trong
trường hợp mang vào và mang ra khỏi lãnh thổ Việt Nam;
- Đồng tiền của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong
trường hợp chuyển vào và chuyển ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc
được sử dụng trong thanh toán quốc tế.
Ví dụ: trong vụ việc ông Trương Johnny và ba người con ruôt mang
theo hành lý với gần 80.000USD khi xuất cảnh khỏi Việt Nam sang
Singapore vào ngày 19/06/2010 vừa qua, số ngoại tệ 80.000USD
chính là ngoại hối.
b) Sử dụng ngoại hối:
Xét dưới góc độ khoa học pháp lý, hoạt động ngoại hối được hiểu
là tổng hợp các hành vi pháp lý trong quá trình chiếm hữu, sử
dụng và định đoạt các tài sản là ngoại hối.Theo khoản 8 Điều 4


Pháp lệnh ngoại hối ngày 13/12/2005 thì : “Hoạt động ngoại hối là
hoạt động của người cư trú, người không cư trú trong giao dịch
vãng lai, giao dịch vốn, sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam,
hoạt động cung ứng dịch vụ ngoại hối và các giao dịch khác liên
quan đến ngoại hối”.
Ví dụ anh A là công dân Việt Nam sinh sống và làm việc tại Mỹ kể
từ ngày 2/5/2008. Vào ngày 1/3/2011, chị B là vợ anh A hiện đang
sinh sống tại Việt Nam đã gửi cho anh A 1.000USD thông qua tài
khoản ngoại tệ tại ngân hàng BIDV. Trong trường hợp này hành vi
gửi tiền của chị B chính là một hoạt động ngoại hối, theo đó chị B
(người cư trú) đã thực hiện một giao dịch vãng lai là chuyển tiền
một chiều từ Việt Nam ra nước ngoài với anh A (người không cư
trú).

Theo định nghĩa trên, sử dụng ngoại hối chính là một hành vi của
hoạt động ngoại hối của người cư trú, người không cư trú trên lãnh
thổ Việt Nam.
I.2- Chủ thể sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam
Theo định nghĩa về hoạt động ngoại hối tại khoản 8 Điều 4 Pháp
lệnh ngoại hối ngày 13/12/2005 thì hoạt động ngoại hối là hoạt
động của người cư trú và người không cư trú, do đó chủ thể sử
dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam bao gồm người cư trú và
người không cư trú.
Cách phân loại chủ thể sử dụng ngoại hối thành người cư trú và
người không cư trú tạo cơ sở cho Nhà nước ta có những chính sách
quản lý phù hợp đối với từng đối tượng quản lý nhà nước về ngoại


tệ. Tuy nhiên hiện nay các nhà làm luật Việt Nam vẫn chưa đưa ra
một định nghĩa khái quát về người cư trú và người không cư trú.
Người cư trú : Căn cứ theo các quy định của pháp luật người cư trú
được xác định là người có mặt tại Việt Nam từ 12 tháng liên tục trở
lên và có nơi ở thường xuyên tại Việt Nam( như đăng ký thường
trú, hợp đồng thuê nhà có kì hạn trên 12 tháng…)� bao gồm:
- Tổ chức tín dụng được thành lập, hoạt động kinh doanh tại Việt
Nam (sau đây gọi là tổ chức tín dụng);
- Tổ chức kinh tế được thành lập, hoạt động kinh doanh tại Việt
Nam trừ đối tượng quy định tại điểm a khoản này (sau đây gọi là tổ
chức kinh tế);
- Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ
chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện
của Việt Nam hoạt động tại Việt Nam;
- Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự của Việt Nam tại

nước ngoài;
- Văn phòng đại diện tại nước ngoài của các tổ chức quy định tại
các điểm a, b và c khoản này;
- Công dân Việt Nam cư trú tại Việt Nam; công dân Việt Nam cư trú
ở nước ngoài có thời hạn dưới 12 tháng; công dân Việt Nam làm
việc tại các tổ chức quy định tại điểm d và điểm đ khoản này và cá
nhân đi theo họ;


- Công dân Việt Nam đi du lịch, học tập, chữa bệnh và thăm viếng
ở nước ngoài;
- Người nước ngoài cư trú tại Việt Nam có thời hạn từ 12 tháng trở
lên, trừ các trường hợp người nước ngoài học tập, chữa bệnh, du
lịch hoặc làm việc cho cơ quan đại diện ngoại giao, lãnh sự, văn
phòng đại diện của các tổ chức nước ngoài tại Việt Nam.
Người không cư trú: là những đối tượng khác với những đối tượng
là người cư trú. Như vậy người không cư trú có thể là:
- Tổ chức kinh tế nước ngoài được thành lập và hoạt động kinh
doanh tại nước ngoài;
- Tổ chức kinh tế Việt Nam, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài ở Việt Nam hoạt động kinh doanh tại nước ngoài;
- Tổ chức tín dụng Việt Nam, tổ chức tín dụng nước ngoài ở Việt
Nam được thành lập và hoạt động kinh doanh tại nước ngoài;
- Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ
chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề
nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện của nước ngoài hoạt động tại nước
ngoài;
- Cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, cơ quan đại diện
của tổ chức quốc tế, cơ quan đại diện các tổ chức liên chính phủ,
cơ quan đại diện các tổ chức phi chính phủ, lực lượng vũ trang và

các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ


chức xã hội - nghề nghiệp của nước ngoài hoạt động tại Việt Nam;
người nước ngoài làm việc trong các tổ chức này và những cá nhân
đi theo họ;
- Văn phòng đại diện tổ chức kinh tế nước ngoài; văn phòng đại
diện tổ chức tín dụng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam ;
- Người nước ngoài cư trú tại nước ngoài; người nước ngoài cư trú
tại Việt Nam có thời hạn dưới 12 tháng;
- Công dân Việt Nam cư trú ở nước ngoài có thời hạn từ 12 tháng
trở lên;
Ví dụ: B là công dân Việt Nam xuất cảnh sang Nhật Bản du học từ
ngày 1/9/2009 và hiện đang là du học sinh Việt Nam tại trường đại
học Tokyo của Nhật Bản. Như vậy tại thời điểm hiện tại B đã có thời
gian cư trú tại Nhật Bản là hơn 2 năm nhưng do B xuất cảnh sang
Nhật Bản với mục đích để học tập nên B vẫn được xác định là
người cư trú theo quy định của Pháp luật Việt Nam.
Trong trường hợp trên nếu B là công dân Nga đang cư trú tại Việt
Nam thì B vẫn được coi là người không cư trú tại Việt Nam.
I.3- Nguyên tắc sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam
a) Hạn chế sử dụng ngoại hối.
Mọi giao dịch thanh toán, niêm yết, quảng cáo của người cư trú và
người không cư trú trên lãnh thổ Việt Nam không được thực hiện
bằng ngoại hối trừ các giao dịch với các tỏ chức tín dụng �.


b) Mở và sử dụng tài khoản:
NCT và NKCT được mở tài khoản tiền gửi ngoại tệ tại các tổ chức
tín dụng được phép để thực hiện các giao dịch hợp pháp của mình

trên lãnh thổ Việt Nam như tiếp nhận ngoài tệ từ nước ngoài
chuyển vào hoặc từ các nguồn thu ngoại tệ ở trong nước; chuyển
ngoại tệ để bán cho các tổ chức tín dụng được phép; chi trả bằng
ngoại tệ cho các giao dịch hợp pháp của mình thông qua tổ chức
tín dụng, rút ngoại tệ tiền mặt để chi tiêu cho nhu cầu cá nhân…
NCT là tổ chức, cá nhân có quyền mở và sử dụng tài khoản ngoại
tệ của mình ở nước ngoài để thỏa mãn các nhu cầu chính đáng,
hợp pháp của mình theo quy định của pháp luật. Khi chấm dứt
hoạt động hoặc hết hạn ở nước ngoài, các tổ chức cá nhân là chủ
tài khoản phải đóng tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài và chuyển
toàn bộ số dư ngoại tệ về nước.
Riêng đối với NCT là tổ chức kinh tế có chi nhánh, văn phòng đại
diện ở nước ngoài hoặc có nhu cầu mở tài khoản ngoại tệ ở nước
ngoài, phải tuân thủ các quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam về điều kiện, hồ sơ, thủ tục cấp và thu hồi giấy phép mở và
sử dụng tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài.
NCT là cá nhân nước ngoài được mở và sử dụng tài khoản đồng
Việt Nam để thực hiện các giao dịch thu, chi và giao dịch đầu tư
gián tiếp theo quy định của pháp luật Việt Nam.


NKCT là tổ chức, cá nhân được mở và sử dụng tài khoản đồng Việt
Nam tại tổ chức tín dụng được phép để thực hiện các giao dịch
thu, chi theo quy định của pháp luật.
Sử dụng ngoại tệ tiền mặt của cá nhân
NCT, NKCT là cá nhân có ngoại tệ tiền mặt được quyền cất giữ,
mang theo người, cho tặng, thừa kế, bán cho các tổ chức tín dụng
được phép, chuyển, mang ngoại tệ tiền mặt ra nước ngoài phục vụ
cho các nhu cầu và mục đích hợp pháp của mình.
Người cư trú là công dân Việt Nam được gửi tiết kiệm, rút gốc và

lãi bằng ngoại tệ.
Phát hành thẻ thanh toán
NCT và NKCT là cá nhân được sử dụng thẻ thanh toán quốc tế để
giao dịch với khách hàng thông qua các tổ chức tín dụng được
phép và các đơn vị chấp nhận thẻ. Các đơn vị chấp nhận thẻ chỉ
được nhận thanh toán bằng đồng Việt Nam từ ngân hàng thanh
toán thẻ.
Như vậy, có thể thấy rằng, hành vi sử dụng ngoại hối được đề cập
chủ yếu ở đây là ngoại tệ và pháp luật thừa nhận quyền sở hữu
ngoại tệ của các chủ thể trong việc cất giữ, mang theo người khi
xuất nhập cảnh, cho tặng, để tại thừa kế,…
Sự khác biệt về quyền và nghĩa vụ của Người cư trú và Người
không cư trú khi sử dụng ngọai hối trên lãnh thổ Việt Nam


Mở và sử dụng tài khoản
Nguồn thu ngoại tệ vào tài khoản cá nhân
Quy định của pháp luật
Sự khác biệt
NCT
Thu ngoại tệ chuyển khoản từ nước ngoài vào theo các hợp đồng
xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ hoặc từ nguồn tài trợ, viện trợ được
pháp luật cho phép; Thu ngoại tệ tiền mặt chuyển khoản dưới hình
thức cho, tặng, thừa kế, phù hợp với quy định của pháp luật; Thu
ngoại tệ chuyển khoản dưới hình thức cho, tặng, thừa kế phù hợp
với quy định của pháp luật; Thu ngoại tệ chuyển khoản hoặc tiền
mặt ở trong nước từ việc được phép nhận lương, thưởng và phụ
cấp khác bằng ngoại tệ; Các khoản thu ngoại tệ khác được Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước cho phép� .
Người cư trú có quyền thu ngoại tệ từ nguồn tặng cho, thừa kế còn

NKCT thì không có quyền này.
NKCT
Thu chuyển khoản từ nước ngoài vào; Thu ngoại tệ tiền mặt mang
từ nước ngoài nộp vào (có xác nhận của Hải quan cửa khẩu); Thu
ngoại tệ chuyển khoản hoặc tiền mặt từ việc nhận lương, thưởng,
phụ cấp khác của các tổ chức ở trong nước và các nguồn thu ngoại
tệ khác được pháp luật Việt Nam cho phép; Thu ngoại tệ chuyển


khoản từ việc bán Đồng Việt Nam lấy ngoại tệ trên tài khoản tiền
gửi Đồng Việt Nam; Các nguồn thu ngoại tệ khác được Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước cho phép�;
b, Nguồn chi ngoại tệ từ tài khoản cá nhân
Quy định của pháp luật
Sự khác biệt
NCT
Chi thanh toán tiền nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ cho tổ chức và
cá nhân ở nước ngoài; Chi thanh toán tiền hàng hoá và dịch vụ cho
tổ chức và cá nhân ở trong nước được phép thu ngoại; Chuyển ra
nước ngoài (bằng chuyển khoản hoặc tiền mặt) để sử dụng cho
các mục đích của cá nhân; Bán cho các tổ chức tín dụng được
phép hoạt động ngoại hối; Rút ngoại tệ tiền mặt để sử dụng vào
các mục đích cất giữ, gửi tiết kiệm ngoại tệ và các mục đích khác
được pháp luật cho phép; Đầu tư vào các giấy tờ có giá bằng ngoại
tệ; Chuyển đổi ra các công cụ thanh toán khác bằng tiền nước
ngoài như séc, thẻ thanh toán và các công cụ thanh toán khác
hoặc được chuyển đổi ra các loại ngoại tệ khác theo quy định của
Ngân hàng được phép; Cho, tặng, thừa kế theo quy định của pháp
luật; Người cư trú là cá nhân người nước ngoài được phép chuyển
ra nước ngoài số ngoại tệ có trên tài khoản ngoại tệ của mình.

Vậy, NCT có quyền rút ngoại tệ tiền mặt để sử dụng vào các mục
đích cất giữ, gửi tiết kiệm ngoại tệ, NKCT không có quyền này.


NCT có quyền đầu tư vào các giấy tờ có giá bằng ngoại tệ.
NKCT
Chuyển khoản ra nước ngoài; Chi thanh toán tiền hàng hoá và dịch
vụ cho tổ chức và cá nhân ở trong nước được phép thu ngoại tệ;
Bán cho các tổ chức tín dụng được phép hoạt động ngoại hối; Được
chuyển đổi ra các công cụ thanh toán khác bằng ngoại tệ như: séc,
thẻ thanh toán và các công cụ thanh toán khác; Được chuyển đổi
ra các loại ngoại tệ khác theo quy định của Ngân hàng được phép;
Rút ngoại tệ tiền mặt mang theo người khi xuất cảnh hoặc chi tiêu
tại những nơi được Ngân hàng Nhà nước cho phép thu ngoại tệ
tiền mặt; Chuyển sang tài khoản ngoại tệ của Người không cư trú
khác ở trong nước; Cho, tặng, thừa kế theo quy định của pháp luật.
NKCT có quyền chuyển sang tài khoản ngoại tệ của Người không
cư trú khác ở trong nước
c, Mở tài khoản ngoại tệ của tổ chức
Mở tài khoản ngoại tệ là quyền được đề cập tại Khoản 1 Điều 5;
Điều 6 Nghị định số 63/1998/NĐ – CP ngày 17/8/1998 của Chính
phủ về quản lý ngoại hối và Mục I Chương I, Mục I, Mục II Chương II
Phần thứ hai Thông tư số 01/1999/TT – NHNN7 của Ngân hàng Nhà
nước hướng dẫn thi hành Nghị định số 63/1998/NĐ – CP ngày
17/8/1998 của Chính phủ về quản lý ngoại hối cho đối tượng NCT
là tổ chức, NKCT là tổ chức đang hoạt động tại Việt Nam và NKCT
đang hoạt động ở nước ngoài
NCT



NKCT
NCT là tổ chức tín dụng được phép mở tài khoản ngọai tệ tại ngân
hàng nước ngoài để thực hiện các hoạt động ngoại hối ở nước
ngoài.
NKCT là tổ chức được mở và sử dụng tài khoản đồng Việt Nam tại
tổ chức tín dụng được phép để thực hiện các giao dịch, thu chi
theo quy định của pháp luật.
Mua bán ngoại tệ
a, Mua ngoại tệ.
Đối với công dân Việt Nam, vấn đề này được quy định tại Điều 14
Nghị định số 63/1998/NĐ – CP ngày 17/8/1998 của Chính phủ về
quản lý ngoại hối và được hướng dẫn chi tiết tại Mục I Chương IV
Thông tư 01/ 1999/TT – NHNN7 của Ngân hàng Nhà nước hướng
dẫn thi hành Nghị định số 63/1998/NĐ – CP ngày 17/8/1998 của
Chính phủ về quản lý ngoại hối
Đối với NKCT và NCT là người nước ngài, vấn đề này được quy định
tại Điều 14 Nghị định số 63/1998/NĐ – CP ngày 17/8/1998 của
Chính phủ về quản lý ngoại hối và được hướng dẫn chi tiết tại Mục
II Chương IV Thông tư 01/ 1999/TT – NHNN7 của Ngân hàng Nhà
nước hướng dẫn thi hành Nghị định số 63/1998/NĐ – CP ngày
17/8/1998
Quy định của pháp luật


Sự khác biệt
Người cư trú:
công dân Việt Nam có nhu cầu ngoại tệ để chuyển, mang ra nước
ngoài cho các mục đích đi du lịch, học tập, công tác, thăm viếng,
chữa bệnh, trả tiền hội viên và các loại phí khác cho nước ngoài
hoặc trợ cấp, thừa kế cho gia đình và người thân ở nước ngoài, có

thể được liên hệ với các Ngân hàng được phép để mua ngoại tệ
sau khi gửi cho Ngân hàng đơn xin mua ngoại tệ và các Giấy tờ
hợp pháp chứng minh các nhu cầu thực tế phải chi ngoại tệ ở nước
ngoài.
NCT là tổ chức kinh tế Việt Nam, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài và bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh,
chi nhánh công ty nước ngoài, nhà thầu nước ngoài, nhà thầu liên
danh với nước ngoài, tổ chức tín dụng ở Việt Nam, cơ quan nhà
nước, đơn vị lực lượng vũ trang, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị
- xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, quỹ xã hội,
quỹ từ thiện của Việt Nam được mua ngoại tệ tại các Ngân hàng
được phép để đáp ứng cho các giao dịch vãng lai hay các giao dịch
được phép khác trên cơ sở xuất trình các giấy tờ và chứng từ hợp
lệ; NCT là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và bên nước
ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh có dự án đặc biệt
quan trọng đầu tư theo chương trình của Chính phủ trong từng thời
kỳ, hoặc có dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng, dự án quan
trọng khác được Chính phủ Việt Nam bảo đảm cân đối ngoại tệ
hoặc bảo đảm hỗ trợ cân đối ngoại tệ thì thực hiện việc mua ngoại


tệ theo quy định về quản lý ngoại hối trong lĩnh vực đầu tư trực
tiếp nước ngoài tại Việt Nam.
Người không cư trú:
NKCT là cá nhân có các khoản thu nhập bằng đồng Việt Nam từ
lương, thưởng, phụ cấp hoặc các nguồn thu khác bằng đồng Việt
Nam được pháp luật Việt Nam cho phép thì được sử dụng số đồng
Việt Nam đó để mua ngoại tệ tại các Ngân hàng được phép và
được chuyển ngoại tệ ra nước ngoài khi có nhu cầu; Khi hết thời
hạn làm việc tại Việt Nam hoặc kết thúc hợp đồng lao động ký với

phía Việt Nam có nhu cầu chuyển ra nước ngoài toàn bộ số thu
nhập bằng ngoại tệ trong thời gian ở Việt Nam thì khi làm thủ tục
chuyển tiền phải xuất trình cho Ngân hàng chuyển tiền văn bản
của cơ quan thuế có thẩm quyền xác nhận đã hoàn thành các
nghĩa vụ tài chính ở Việt Nam.
Người không cư trú là cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh
sự, cơ quan đại diện tổ chức quốc tế, cơ quan đại diện các tổ chức
liên chính phủ, cơ quan đại diện các tổ chức phi chính phủ, lực
lượng vũ trang và tổ chức chính trị, tổ chức chính trị-xã hội, tổ
chức xã hội, tổ chức xã hội-nghề nghiệp của nước ngoài, văn
phòng đại diện của tổ chức kinh tế nước ngoài và của tổ chức tín
dụng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam có các nguồn thu bằng
đồng Việt Nam từ việc cấp visa, các loại phí lãnh sự khác và các
giao dịch hợp pháp khác được mua ngoại tệ và được chuyển ngoại
tệ ra nước ngoài thông qua các Ngân hàng được phép trên cơ sở
xuất trình các giấy tờ có liên quan.


Như vậy, NCT là công dân Việt Nam khi mua ngoại tệ phải có lí do
chính đáng và phải có đơn xin mua ngoại tệ và các Giấy tờ hợp
pháp chứng minh các nhu cầu thực tế phải chi ngoại tệ ở nước
ngoài nhưng ngoài quy định đó pháp luật không quy định nào khác
về điều kiện mua ngoại tệ.
Còn NKCT chỉ được mua ngoại tệ khi có thu nhập bằng đồng Việt
Nam và được pháp luật Việt Nam cho phép thì mới được mua ngoại
tệ bằng tiền Việt Nam tại các tổ chức tín dụng được phép và phải
có văn bản của cơ quan thuế có thẩm quyền xác nhận đã hoàn
thành nghĩa vụ tài chính.
Hai là, NKCT là tổ chức chỉ được mua ngoại tệ khi có các nguồn thu
hợp pháp bằng đồng Việt Nam

b, Bán ngoại tệ.
Người cư trú có nghĩa vụ bán ngoại tệ thu được từ các giao dịch
vãng lai cho các ngân hàng được phép hoạt động ngoại hối tại Việt
Nam trong thời hạn 15 ngày làm việc, kể từ ngày ngoại tệ được ghi
“Có” vào tài khoản tiền gửi. Tỷ lệ bán được quy định riêng cho
từng loại đối tượng cụ thể : 80% đối với tổ chức kinh tế, 100% đối
với các tổ chức phi lợi nhuận, 0% đối với một số khoản tiền thu từ
việc trợ nhân đạo, nhận ủy thắc, tạm nhập tái xuất…
Người không cư trú không có nghĩa vụ này.
Sử dụng ngoại tệ bằng tiền mặt của cá nhân
Gửi tiền tiết kiệm:


Theo quy định tại Điều 4 Mục II Chương I Thông tư số 01/1999/TT –
NHNN7 của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thi hành Nghị định số
63/1998/NĐ – CP ngày 17/8/1998 của Chính phủ về quản lý ngoại
hối thì chỉ cho phép cá nhân là NCT mới có quyền gửi tiết kiệm
ngoại tệ tại các tổ chức tín dụng được phép và được hưởng lãi suất
bằng ngoại tệ và được rút ra cả gốc và lãi bằng ngoại tệ theo thể
lệ tiền gửi tiết kiệm ngoại tệ còn NKCT không có quyền này.
Cất giữ mang theo ngoại tệ khi xuất nhập cảnh:
Để hạn chế và ngăn ngừa tình trạng tích lũy ngoại tệ quá lớn khi di
chuyển vào hoặc ra khỏi Việt Nam lam mất cân bằng thị trường
ngoại hối trong nước, Ngân hành nhà nước Việt Nam đã có quy
định về hạn mức ngoại tệ tiền mặt được mang vào, mang ra khỏi
lãnh thổ Việt Nam. Theo Quyết định số 921/2005/QĐ-NHNN ngày
27/6/2005 về sửa đổi Quyết định 337/1998/QĐ-NHNN của Thống
đốc NHNN về mang ngoại tệ tiền mặt và đồng Việt Nam bằng tiền
mặt khi xuất nhập cảnh, hạn mức phải khai báo với Hải quan của
khẩu khi xuất nhập cảnh đối với ngoại tệ tiền mặt là 7.000 USD và

đối với tiền Việt Nam là 15 triệu VND.
Tuy nhiên vấn đề cất giữ ,mang theo ngoại tệ khi xuất nhập cảnh
không có sự khác biệt giữa người cư trú và người không cư trú.
Thừa kế, tặng cho:
Quyết định 1437/QĐ – NHNN không quy định trường hợp cho, tặng
ngoại tệ cho đối tượng ở nước ngoài mà chỉ có quy định về việc
chuyển ngoại tệ ra nước ngoài trong trường hợp trợ cấp, thừa kế.


Điều này có thể hiểu rằng, việc cho tặng thừa kế ngoại tệ chỉ được
thực hiện trên lãnh thổ Việt Nam.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, quyền tặng cho, thừa kế
của người cư trú không bị hạn chế, còn người không cư trú không
có quyền nhận ngoại tệ từ việc tặng cho, thừa kế trên lãnh thổ Việt
Nam.
Phát hành thẻ thanh toán
Quyền sử dụng thẻ thanh toán không có sự khác biệt giữa người cư
trú và người không cư trú. Người cư trú và người không cư trú được
sử dụng thẻ thanh toán quốc tế để giao dịch với khách hàng thông
qua các đơn vị chấp nhận thẻ và chỉ được sử dụng ngoại tệ để
thanh toán cho tổ chức, cá nhân được phép thu ngoại tệ (Điểm 2
Mục II Chương I Phần thứ nhất Thông tư số 01/1999/TT – NHNN7
của Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn thi hành Nghị định số
63/1998/NĐ – CP ngày 17/8/1998 của Chính phủ về quản lý ngoại
hối)
Nhận xét: Có thể thấy, do sự tác động và ảnh hưởng của người
không cư trú đến nền kinh tế Việt Nam là không lớn nên các quy
định của pháp luật nước ta về vấn đề sử dụng ngoại hối trên lãnh
thổ Việt Nam của người không cư trú không được chặt chẽ, đồng
thời họ có ít quyền, nghĩa vụ hơn so với người cư trú.

Một số đánh giá cá nhân về vấn đề sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ
Việt Nam


Do quản lý ngoại hối là một lĩnh vực phức tạp, thị trường ngoại hối
luôn chịu tác động mạnh mẽ bởi hoàn cảnh khách quan và thay
đổi không ngừng nên tuy nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản
pháp lý điều chỉnh vấn đề sử dụng ngoại hối nhưng hệ thống pháp
luật quản lý ngoại hối Việt Nam vẫn còn thiếu sót và chưa theo kịp
sự biến động của thị trường.
Đặc biệt trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay một số quy định hạn
chế quyền sử dụng ngoại hối của các tổ chức, cá nhân tỏ ra không
còn phù hợp, cần được sửa đổi bổ sung như các trường hợp được
ghi thu trên tài khoản ngoại tệ, hạn mức ngoại tệ được mang theo
người khi xuất nhập cảnh không phải khai báo hải quan, các thủ
tục hành chính khi mua, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài…
Thứ nhất, nhà nước ta nên có quy định hạn chế quyền sở hữu đối
với ngoại tệ của người cư trú là cá nhân để ngăn chặn tình trạng
đô lá hóa trong thời gian qua do người dân Việt Nam vẫn có tâm lý
cất giữ tiền của trong nhà mà không mang đến ngân hàng cất gửi
giữ.
Thứ hai, vấn đề mua bán ngoại tệ tại các cửa khẩu vẫn chưa có
giải pháp hữu hiệu để điều chỉnh. Ví dụ như tại cửa khẩu Lao Bảo
(Quảng Trị). Đặc biệt, tại các cửa hàng kinh doanh vàng bạc tư
nhân có thực hiện mua bán ngoại tệ theo giấy ủy nhiệm, với tư
cách là đại lý cho các ngân hàng thương mại nhưng thực chất, sự
ủy nhiệm này chỉ là hình thức. Bởi lẽ, số liệu các giao dịch mà các
cửa hàng này báo cáo thấp hơn rất nhiều so với các giao dịch thực
tế, tỷ giá cũng không theo quy định của các ngân hàng thương
mại. Các cửa hàng đều tự mua, tự bán mà rất ít khi bán cho các

ngân hàng thương mại.


C- KẾT LUẬN
Những năm vừa qua, Nhà nước ta đã có những bước phát triển
trong việc công nhận và đảm bảo quyền sử dụng ngoại hối của các
tổ chức, cá nhân, góp phần quan trọng phát triển nền kinh tế. Tuy
nhiên, trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, vẫn còn những quy
định cần phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp hơn với yêu cầu của
thực tiễn. Để làm được được điều đó, không chỉ những cơ quan
quản lý nhà nước, các nhà làm luật và chính chúng ta, những
người dân trực tiếp sử dụng ngoại hối trên lãnh thổ Việt Nam phải
phối hợp với Nhà nước xây dựng một chính sách ngoại tệ vừa hài
hòa giữ nhu cầu của người dân và lợi ích của nhà nước, vừa đảm
bảo phát triển kinh tế đất nước.
- Xem Khoản 1 Điều 4 Pháp lệnh Ngoại hối năm 2005 và Khoản 1
Điều 3 Nghị định số 160/2006/ NĐ – CP ngày 28/12/2006 quy định
chi tiết thi hành Pháp lệnh Ngoại hối
- Khoản 2 Điều 4 Pháp lệnh ngoại hối ngày 13/12/2005
- Khoản 3 Điều 4 Pháp lệnh ngoại hối ngày 13/12/2005
- Điều 29 Nghị định số số 160/2006/NĐ – CP ngày 28/12/2006 quy
định chi tiết thi hành Pháp lệnh Ngoại hối 2005.
- Khoản 2 Điều 5 Nghị định số 63/1998/NĐ – CP ngày 17/8/1998
của Chính phủ về quản lý ngoại hối và được hướng dẫn thực hiện
tại Thông tư số 01/1999/TT – NHNN7 của Ngân hàng Nhà nước


hướng dẫn thi hành Nghị định số 63/1998/NĐ – CP ngày 17/8/1998
của Chính phủ về quản lý ngoại hối về phần thu và phần chi


- Điều 6 - Nghị định số 63/1998/NĐ – CP ngày 17/8/1998 của Chính
phủ về quản lý ngoại hối



×