Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Mối quan hệ các chuẩn mực xã hội bất thành văn với pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (83.93 KB, 13 trang )

Mối quan hêê các chuẩn mực xã hôêi bất thành văn với pháp luâ êt.
A. MỞ ĐẦU
Bên cạnh pháp luật, với tư cách một loại chuẩn mực xã hội, trong
đời sống xã hội còn có sự hiện diện của nhiều loại chuẩn mực xã
hội khác nhau với tính chất, mức độ phổ biến, phạm vi tác động,
điều chỉnh và cơ chế thực hiện khác nhau. Trong bài tập này, em
xin phân tích “mối quan hệ các chuẩn mực xã hội bất thành văn
với pháp luật” bao gồm: chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực phong
tục, tập quán và chuẩn mực thẩm mỹ.
B. NỘI DUNG
I. Khái niệm:
1. Chuẩn mực xã hội bất thành văn:
Chuẩn mực xã hội bất thành văn nghĩa là các quy tắc, yêu cầu của
chuẩn mực xã hội này không được ghi chép thành văn bản dưới
dạng một bộ luật nào cả.
2. Pháp luật:
Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự, là công cụ điều chỉnh các
quan hệ xã hội do Nhà nước ban hành, thể hiện ý chí của giai cấp
cầm quyền và được thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế của
Nhà nước.
3. Chuẩn mực đạo đức:


Chuẩn mực đạo đức là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi đối
với hành vi xã hội của con người, trong đó xác lập những quan
điểm, quan niệm chung về công bằng và bất công, về cái thiện và
cái ác, về lương tâm, danh dự, trách nhiệm và những phạm trù
khác thuộc đời sống đạo đức, tinh thần của xã hội.

4. Chuẩn mực phong tục, tập quán:
Chuẩn mực phong tục, tập quán là hệ thống các quy tắc, yêu cầu,


đòi hỏi được xác lập nhằm củng cố những mẫu mực giao tiếp, ứng
xử trong các cộng đồng người, các quy tắc sinh hoạt công cộng lâu
đời của con người, được hình thành qua quá trình lịch sử lặp đi, lặp
lại nhiều lần, trở thành thói quen trong lao động, cuộc sống và sinh
hoạt hàng ngày của các cộng đồng xã hội.
5. Chuẩn mực thẩm mỹ:
Chuẩn mực thẩm mỹ là hệ thống các quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi về
mặt thẩm mỹ đối với hành vi xã hội của con người, tuân theo
những quan điểm, quan niệm đang được phổ biến, thừa nhận
trong xã hội về cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài, cái anh hùng, cái
tuyệt vời, được xác lập trong các quan hệ thẩm mỹ, trong các hoạt
động sáng tạo nghệ thuật, trong lối sống và sinh hoạt…của cá
nhân và các nhóm xã hội.
II. Mối quan hệ giữa các chuẩn mực xã hội bất thành văn
với pháp luật:


1. Mối quan hệ giữa chuẩn mực đạo đức với pháp luật:
Pháp luật có mối quan hệ chặt chẽ với đạo đức. Đạo đức là tập hợp
các quan điểm, quan niệm của con người (một giai cấp, một cộng
đồng người) về cái thiện và cái ác, về sự công bằng và bất công,
về nghĩa vụ, danh dự và các phạm trù khác thuộc đời sống tinh
thần của xã hội. Các quan điểm, quan niệm này rất khác nhau,
được quy định bởi những điều kiện của đời sống vật chất xã hội; từ
đó hình thành nên một hệ thống các quy tắc ứng xử của con người.
Khi đạo đức đã trở thành niểm tin nội tâm thì nó sẽ là cơ sở cho
hành vi xã hội của con người. Ví dụ khi bé, đứa trẻ luôn được dạy
“kính trên, nhường dưới”, “hiếu thảo với ông bà, ba mẹ, thân thiết
với anh chị, nhường nhịn các em nhỏ”; do vậy, tới khi trưởng
thành, đứa trẻ đó đã là thanh niên và con người này luôn luôn hiếu

thảo với ông bà, cha mẹ, chan hòa với anh chị em trong gia đình.
Trong xã hội có giai cấp, mỗi giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau
đều có quan niệm đạo đức riêng của mình; vì vậy, các quy phạm
đạo đức tồn tại trong xã hội cũng có nhiều loại và chúng có sự tác
động qua lại lẫn nhau. Giai cấp thống trị, vì nắm quyền lực trong
tay, nên có điều kiện và ưu thế để nâng các quan niệm đạo đức
của mình thành pháp luật. Do đó, pháp luật luôn phản ánh đạo đức
của giai cấp cầm quyền. Ví dụ: Xã hội chủ nô coi việc giết nô lệ là
việc riêng của chủ nô, đến xã hội phong kiến, việc giết nông nô bị
lên án. Đạo đức phong kiến bóp nghẹt cá nhân dưới uy quyền của
tôn giáo và quý tộc; đạo đức tư sản giải phóng cá nhân, coi trọng
nhân cách. Tuy nhiên, do có sự tác động qua lại của nhiều loại đạo
đức của các giai cấp khác nhau trong xã hội, nên pháp luật không
thể không phản ánh quan điểm, lợi ích của các giai cấp khác nhau
đó. Trong khi xây dựng và thực hiện pháp luật, dù muốn hay


không, giai cấp cầm quyền buộc phải tính đến yếu tố đạo đức
nhằm tạo cho pháp luật một khả năng thích ứng, khiến cho nó
dường như thể hiện ý chí chung của mọi tầng lớp xã hội. Có những
quy phạm pháp luật, khi đã trở nên phổ biến trong xã hội, thành
yếu tố thường trực trong hành vi xã hội của con người, sẽ trở thành
quy phạm đạo đức.
Mặc dù chịu sự tác động của đạo đức và các quy phạm xã hội
khác, nhưng pháp luật có tác động mạnh mẽ đối với đạo đức. Pháp
luật có thể loại bỏ các chuẩn mực đạo đức đã lỗi thời, cải tạo các
chuẩn mực đạo đức, góp phần tạo nên những chuẩn mực đạo đức
mới, phù hợp hơn với tiến bộ xã hội. Ví dụ thời phong kiến Việt
Nam, khi một người con gái bỗng nhiên có con mà chưa cưới
chồng thì người này sẽ bị cạo đầu, bôi vôi, cho trôi sông; nhưng

ngày nay thì điều này không còn do xã hội đã có cái nhìn thoáng
hơn, tôn trọng hơn đối với quyết định của những người con gái ấy
và pháp luật quy định những điều khoản khắt khe về tội xúc phạm
danh dự, nhân phẩm của người khác.
Chuẩn mực đạo đức và pháp luật tuy khác nhau về phạm vi tác
động, cơ chế tác động tới các quan hệ tới các quan hệ xã hội,
nhưng chúng có chung mục đích điều tiết, điều chỉnh hành vi của
con người. Mối quan hệ giữa chuẩn mực đạo đức và pháp luật là
mối quan hệ tác động qua lại, hỗ trợ lẫn nhau và bổ sung cho nhau
trong quá trình điều chỉnh hành vi của con người. Trong mối quan
hệ này, chuẩn mực đạo đức có phạm vi điều chỉnh các quan hệ xã
hội rộng hơn, còn pháp luật có phạm vi điều chỉnh sâu hơn. Trong
một số trường hợp, định hướng đạo đức muốn được thực hiện một
cách phổ biến trong xã hội thì phải thông qua các quy phạm pháp
luật để thể hiện. Ví dụ về giữ phép lịch sự tại công sở Điều 6 trong


Quyết định 129/2007/QĐ-TTg Ban hành Quy chế văn hoá công sở
tại các cơ quan hành chính nhà nước quy định:
“Điều 6. Lễ phục
Lễ phục của cán bộ, công chức, viên chức là trang phục chính thức
được sử dụng trong những buổi lễ, cuộc họp trọng thể, các cuộc
tiếp khách nước ngoài.
1. Lễ phục của nam cán bộ, công chức, viên chức: bộ comple, áo
sơ mi, cravat.
2. Lễ phục của nữ cán bộ, công chức, viên chức: áo dài truyền
thống, bộ comple nữ.
3. Đối với cán bộ, công chức, viên chức là người dân tộc thiểu số,
trang phục ngày hội dân tộc cũng coi là lễ phục.”
Điều đó cho thấy, ở một số khía cạnh nhất định pháp luật có ưu

thế nổi trội hơn so với chuẩn mực đạo đức. Pháp luật không chỉ ghi
nhận các chuẩn mực đạo đức, mà còn là công cụ, phương tiện bảo
vệ chuẩn mực đạo đức một cách hữu hiệu bằng các biện pháp,
chế tài cụ thể. Pháp luật có vai trò to lớn trong việc duy trì, bảo vệ
và phát triển các quy tắc đạo đức phù hợp, tiến bộ trong xã hội.
Ngược lại, chuẩn mực đạo đức là nền tảng tinh thần để thực hiện
các quy định của pháp luật. Trong nhiều trường hợp, các cá nhân
trong xã hội thực hiện một hành vi pháp luật hợp pháp không phải
vì họ hiểu các quy định của pháp luật, mà hoàn toàn xuất phát từ
các quy tắc đạo đức. Ví dụ công chức đi làm luôn sắp xếp bàn làm
việc gọn gàng vì họ không muốn đồng nghiệp chê cười là cẩu thả,
lộn xộn; họ không nói tục chửi bậy nơi công sở vì họ tin làm như
vậy là không lịch sự; tuy nhiên có thể họ sẽ không biết những điều
trên được quy định tại các văn bản luật. Cụ thể: Điều 8 và Điều 15


trong Quyết định 129/2007/QĐ-TTg Ban hành Quy chế văn hoá
công sở tại các cơ quan hành chính nhà nước quy định:
“Điều 8. Giao tiếp và ứng xử
Cán bộ, công chức, viên chức khi thi hành nhiệm vụ phải thực hiện
các quy định về những việc phải làm và những việc không được
làm theo quy định của pháp luật.
Trong giao tiếp và ứng xử, cán bộ, công chức, viên chức phải có
thái độ lịch sự, tôn trọng. Ngôn ngữ giao tiếp phải rõ ràng, mạch
lạc; không nói tục, nói tiếng lóng, quát nạt.”
“Điều 15. Phòng làm việc
Phòng làm việc phải có biển tên ghi rõ tên đơn vị, họ và tên, chức
danh cán bộ, công chức, viên chức.
Việc sắp xếp, bài trí phòng làm việc phải bảo đảm gọn gàng, ngăn
nắp, khoa học, hợp lý.

Không lập bàn thờ, thắp hương, không đun, nấu trong phòng làm
việc.”
Nhiều quy tắc, yêu cầu, đòi hỏi của chuẩn mực đạo đức được nhà
nước sử dụng và nâng lên thành quy phạm pháp luật. Khi xây
dựng và ban hành pháp luật, nhà nước không thể không tính tới
các quy tắc của chuẩn mực đạo đức. Ví dụ về lòng biết ơn của con
cháu với ông bà tổ tiên:
“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng 10 tháng 3”
Ngày 2/4/2007, Quốc hội đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung Điều
73 của Bộ luật Lao động số 84/2007/QH11. Luật này có hiệu lực từ


ngày 11/4/2007. Theo đó, người lao động được nghỉ làm việc,
hưởng nguyên lương Ngày Giỗ Tổ Hùng Vương: 01 ngày (ngày 10
tháng 3 âm lịch). Nếu những ngày này trùng vào ngày nghỉ hàng
tuần thì người lao động được nghỉ bù vào ngày tiếp theo.
2. Mối quan hệ giữa chuẩn mực phong tục, tập quán với
pháp luật:
Chuẩn mực phong tục tập quán và pháp luật có mối quan hệ hữu
cơ với nhau. Do gắn bó chặt chẽ với những thói quen, nếp sống
của các cộng đồng xã hội nên chuẩn mực phong tục, tập quán
được coi là các quy tắc xử sự chung, điều chỉnh các quan hệ xã hội
ngay từ khi trong xã hội còn chưa xuất hiện nhà nước và pháp luật.
Nhiều phong tục, tập quán trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ rất
bền chặt trong nhân dân và có sức mạnh hơn cả những đạo luật.
Nhiều thuần phong mỹ tục rất cần thiết cho đạo lí làm người, giữ
gìn trật tự, kỉ cương xã hội. Ví dụ cúng Thổ Công là cúng vị thần
cai quản nhà cửa; tảo mộ là để nhắc nhở con cháu nhớ về những
con người đã sinh thành nuôi dưỡng mình, nhớ về ông bà tổ tiên,

con cháu được dịp tỏ lòng hiếu thảo. Khi nhà nước xuất hiện, nhà
nước đã tìm cách vận dụng các phong tục, tập quán để phục vụ
cho lợi ích của mình, thay đổi nội dung của chúng cho phù hợp,
thừa nhận và nâng cấp chúng thành các quy phạm pháp luật hoặc
coi chúng là tập quán pháp. Ví dụ: kế thừa và phát huy truyền
thống đạo đức, phong tục, tập quán tốt đẹp trong gia đình Việt
nam là một trong các nhiệm vụ cơ bản của Luật hôn nhân và gia
đình. Để cụ thể hoá nhiệm vụ này, khoản 1 Điều 3 Luật hôn nhân
và gia đình năm 2000 quy định trách nhiệm của Nhà nước và xã
hội: “Vận động nhân dân xoá bỏ phong tục, tập quán lạc hậu về
hôn nhân và gia đình, phát huy truyền thống, phong tục tập quán


tốt đẹp thể hiện bản bản sắc của mỗi dân tộc; xây dựng quan hệ
hôn nhân và gia đình tiến bộ”, và Điều 6 Luật này đã khẳng định:
“Trong quan hệ hôn nhân và gia đình, những phong tục, tập quán
thể hiện bản sắc của mỗi dân tộc mà không trái với những nguyên
tắc quy định tại Luật này thì được tôn trọng và phát huy”. Vận
dụng các qui định của pháp luật, trong thực tiễn xét xử của Toà án
nhân dân các cấp, đặc biệt Toà án ở các tỉnh miền núi, vùng sâu,
vùng xa đã áp dụng nhiều phong tục, tập quán để giải quyết các
tranh chấp về hôn nhân và gia đình. Hay, trong thực hiện và áp
dụng pháp luật, nhà làm luật có thể trù liệu và cho phép giải quyết
một số vụ việc phức tạp theo phong tục, tập quán của mỗi địa
phương. Chẳng hạn, Điều 409 Bộ Luật Dân sự 2005 cho phép sử
dụng tập quán nơi giao dịch được xác lập để giải thích quyền,
nghĩa vụ của các bên; Điều 625 quy định việc bồi thường theo tập
quán đối với thiệt hại do gia súc thả rông gây ra; Điều 3 cũng quy
định: “Trong trường hợp pháp luật không quy định và các bên
không thoả thuận thì có thể áp dụng phong tục, tập quán, nếu

không có phong tục, tập quán thì áp dụng quy định tương tự của
pháp luật. Tập quán và các quy định tương tự của pháp luật không
được trái với những nguyên tắc quy định trong bộ luật này”. Như
vậy, chuẩn mực phong tục ,tập quán là một nguồn quan trọng để
hình thành pháp luật.
Chuẩn mực phong tục, tập quán là sự thể hiện ý chí chung của
cộng đồng xã hội, được các thành viên của nó thừa nhận, tuân thủ
và thực hiện một cách tự nguyện. Nó là một trong những nhân tố
tạo nên sự đồng thuận xã hội. Với ý nghĩa đó, chuẩn mực phong
tục, tập quán góp phần quan trọng trong việc đưa pháp luật vào
đời sống cộng đồng xã hội một cách thuận lợi.


Pháp luật cũng có tác động quan trọng đối với chuẩn mực phong
tục, tập quán. Pháp luật có thể góp phần củng cố, khẳng định,
phát huy các phong tục, tập quán; hoặc ngược lại, có thể can
thiệp, cưỡng bức để loại bỏ chúng ra khỏi đời sống cộng đồng.
Trong mối liên hệ này, cần lưu ý hai khía cạnh sau:
Một là, đối với những phong tục, tập quán có giá trị truyền thống,
mang tính nhân văn sâu sắc, đã trở thành thuần phong mỹ tục, có
tác dụng tích cực tới cộng đồng xã hội thì pháp luật cần thừa nhận,
củng cố, giữ gìn và phát huy vai trò của chúng trong đời sống xã
hội; vận dụng chúng vào trong nếp sống, nếp suy nghĩ, hành vi
pháp luật của mỗi người. Ví dụ, theo tập quán của người Mường,
Thái, Thổ ở tỉnh Thanh Hoá thì khi vợ chồng mâu thuẫn với nhau
vai trò của đại diện hai họ lúc cưới xin rất quan trọng trong việc
hoà giải. Nếu hai vợ chồng có ý định ly hôn thì những người đại
diện cho họ vợ và họ chồng tìm mọi cách phân tích, hoà giải để hai
vợ chồng đoàn tụ với nhau. Đây là tập quán rất tốt cần được vận
dụng cho các án kiện ly hôn của những đôi vợ chồng thuộc các tộc

người này.
Về nguyên tắc, Nhà nước và xã hội tôn trọng và phát huy các
phong tục, tập quán tốt đẹp về hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên,
“Tính chất tốt đẹp” của phong tục, tập quán là một giá trị trừu
tượng, nội dung của giá trị này thay đổi theo từng giai đoạn phát
triển của xã hội, đồng thời cũng phụ thuộc vào quan niệm của
từng cá nhân, gia đình, cộng đồng, tầng lớp xã hội và giai cấp. Vì
vậy, nó có thể được xác định đánh giá theo nhiều góc độ, nhiều
quan niệm khác nhau. (Trên thực tế, trong quá trình soạn thảo Luật
Hôn nhân – Gia đình năm 2000, đã có không ít những ý kiến lo
ngại về những khó khăn trong kế thừa, phát huy truyền thống đạo


đức tốt đẹp, đặc biệt trong áp dụng phong tục, tập quán về hôn
nhân và gia đình, bởi vì: rất khó xác định phong tục, tập quán nào
là tốt đẹp cần được kế thừa và phát huy; phong tục, tập quán nào
cần được xoá bỏ, do đó, có thể tạo kẽ hở cho những tập tục lạc
hậu tồn tại, hoặc gây ra sự lạm dụng tập quán nhiều hơn là áp
dụng qui phạm pháp luật, gây khó khăn trong việc đưa Luật Hôn
nhân – Gia đình vào đời sống xã hội….).
Hai là, đối với những phong tục, tập quán đã lạc hậu, lỗi thời, đã
trở thành hủ tục, thậm chí mang màu sắc mê tín dị đoan ( đồi
phong bại tục ), thì bên cạnh việc tích cực vận động, tuyên truyền
để nhân dân nhận thức được và tự giác loại bỏ; trong những trường
hợp cần thiết, nhà nước, chính quyền các cấp phải dùng tới sức
mạnh cưỡng chế của pháp luật nhằm loại trừ chúng ra khỏi đời
sống của cộng đồng; góp phần xây dựng lối sống văn minh, phù
hợp với tiến bộ xã hội. Ví dụ Nhiều dân tộc (Tày, Nùng, Thái ở Lào
Cai…) cho con trai được hưởng gia tài, con trai trưởng được tôn
trọng ngang với người cha(5). Tập quán này Toà án cần phê phán,

không áp dụng trong việc giải quyết các tranh chấp, đặc biệt các
tranh chấp liên quan đến tài sản trong gia đình.
3. Mối quan hệ giữa chuẩn mực thẩm mỹ với pháp luật:
Chuẩn mực thẩm mỹ và pháp luật có sự tác động qua lại lẫn nhau.
Chuẩn mực thẩm mỹ tác động trong hầu hết các lĩnh vực quan hệ
xã hội, trong đó có quan hệ pháp luật, điều chỉnh hành vi thẩm mỹ
của con người phù hợp với các quan điểm, qun niệm trong xã hội
về cái đẹp, cái xấu, cái cao cả… Chuẩn mực thẩm mỹ đòi hỏi các
bộ luật, đạo luật được ban hành phải phù hợp với các giá trị, chuẩn
mực thẩm mỹ đang phổ biến trong xã hội thì mới dễ dàng được


nhân dân tuân thủ và thực hiện. Khi đó, bản thân các bộ luật, đạo
luật cũng mang các giá trị thẩm mỹ, là một “tác phẩm nghệ
thuật”. Nhiều quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực thẩm mỹ, do phù
hợp và đáp ứng được nhu cầu, lợi ích của nhà nước về tổ chức,
quản lí xã hội, đã được nhà nước thừa nhận và vận dụng trong các
đạo luật. Ví dụ Điều 4 trong Quyết định 129/2007/QĐ-TTg Ban
hành Quy chế văn hoá công sở tại các cơ quan hành chính nhà
nước quy định:
“ Các hành vi bị cấm
1. Hút thuốc lá trong phòng làm việc;
2. Sử dụng đồ uống có cồn tại công sở, trừ trường hợp được sự
đồng ý của lãnh đạo cơ quan vào các dịp liên hoan, lễ tết, tiếp
khách ngoại giao;
3. Quảng cáo thương mại tại công sở.”
Các văn bản luật của nhà nước điều chỉnh các lĩnh vực văn hóa,
văn nghệ, trật tự công cộng, ứng xử nơi công sở, kiến trúc…là
những minh chứng sống động cho mối liên hệ này. Như vậy, chuẩn
mực thẩm mỹ là cơ sở lý luận và thực tiễn để nhà nước xây dựng

và ban hành các quy phạm pháp luật điều chỉnh các lĩnh vực xây
dựng, quy hoạch đô thị, văn hóa – nghệ thuật, quảng cáo, du lịch,
bảo tồn di sản văn hóa, thời trang…
Đối với pháp luật, vấn đề không dừng lại ở chỗ cứ ban hành thật
nhiều văn bản luật có chất lượng cao, điều quan trọng hơn là làm
thế nào để các văn bản luật đó đi vào thực tiễn cuộc sống, trở
thành pháp luật thường trực trong hành vi của mỗi người. Nhìn
trên phương diện này, chuẩn mực thẩm mỹ có tác dụng định
hướng, điều chỉnh hành vi pháp luật của các cá nhân, phù hợp với


các quy tắc, yêu cầu của chuẩn mực thẩm mỹ. Trong nhiều trường
hợp, vì những lí do nhất định, các cá nhân không biết đến các quy
định của pháp luật, nhưng do các quy tắc pháp luật phù hợp với
các chuẩn mực thẩm mỹ, nên các hành vi pháp luật cũng trùng với
hành vi thẩm mỹ; các cá nhân thực hiện hành vi pháp luật dựa
trên các quan điểm, quan niệm thẩm mỹ của họ. Ví dụ được giáo
dục từ nhỏ nên rất nhiều người Trung Quốc, cụ thể ở thành phố
Quảng Châu, biết giữ gìn vệ sinh đường phố, không khạc nhổ, ném
vỏ hoa quả trên đường; nhưng có thể họ không biết rằng ném vỏ
hoa quả, nhổ bã kẹo cao su trên mặt đất hay đi vệ sinh bậy nơi
công cộng nằm trong danh sách một loạt những hành vi bị cấm
mà chính quyền thành phố Quảng Châu, Trung Quốc đăng tải trên
website của họ hôm 7/1/2010. Quy định nhằm cải thiện hành vi
ứng xử của cư dân tại dự án chung cư mới do chính quyền tài trợ.
Chuẩn mực thẩm mỹ, cũng như các chuẩn mực xã hội khác, luôn
vận động, biến đổi và thay đổi, có những quy tắc thẩm mỹ mất đi
và có những chuẩn mực thẩm mỹ mới ra đời, đáp ứng yêu cầu của
quan hệ thẩm mỹ trong xã hội. Pháp luật, do đặc trưng về sức
mạnh cưỡng bức của nó, góp phần củng cố, bảo vệ các chuẩn mực

thẩm mỹ tiến bộ, phù hợp; đồng thời, loại bỏ những quy tắc thẩm
mỹ đã lạc hậu và xây dựng những chuẩn mực thẩm mỹ mới tương
ứng với lối sống văn minh, hiện đại. Ví dụ về quy tắc thẩm mỹ lạc
hậu: thời phong kiến Trung Quốc, người phụ nữ được coi là đẹp thì
phải có bàn chân nhỏ nhắn, càng nhỏ càng cao quý, vì vậy, họ
phải bó bàn chân mình từ thủa bé. Dần dần hình thức này biến
chuyển từ chuẩn mực thẩm mỹ thành phong tục. Đến bây giờ thì
đây đã là một quy tắc thẩm mỹ cổ hủ, phong tục lạc hậu, đem lại
nhiều phiền hà cho người phụ nữ trong việc sinh hoạt cũng như
sức khỏe của họ. Vì vậy, luật pháp đã loại bỏ quy tắc thẩm mỹ này.


C. KẾT LUẬN
Từ khi Nhà nước được thành lập, pháp luật được sinh ra thì các
chuẩn mực xã hội đã có những tác động lên luật pháp. Mối quan
hệ giữa các chuẩn mực xã hội và pháp luật là mối quan hệ tác
động qua lại, tương tác với nhau. Trong các loại chuẩn mực xã hội
thì chuẩn mực xã hội bất thành văn như chuẩn mực đạo đức,
chuẩn mực phong tục, tập quán và chuẩn mực thẩm mỹ vừa là
nguồn của pháp luật, vừa giúp pháp luật đi vào thực tiễn cuộc
sống thuận lợi hơn.



×