Điều kiện kết hôn và sự cần thiết phải quy định điều kiện kết hôn
LỜI MỞ ĐẦU
Xuất phát từ vị trí, vai trò của gia đình, từ quan niệm gia đình là tế
bào của xã hội nên trong từng thời kỳ phát triển, Đảng và nhà
nước ta luôn dành sự quan tâm lớn tới vấn đề gia đình, đề ra
những chủ trương thể chế hóa bằng pháp luật, đường lối, chính
sách của Đảng. Khi nhà nước quản lý và điều chỉnh quan hệ hôn
nhân thì việc nam nữ tạo lập gia đình trở thành sự kiện pháp lý
làm phát sinh quan hệ vợ chồng, sự kiện này thể hiện dưới một
khái niệm là kết hôn. Kết hôn luôn dựa trên quan điểm bình đẳng,
tự nguyện. Tuy nhiên để làm phát sinh quan hệ hôn nhân thì phải
đáp ứng được điều kiện kết hôn do luật định. Điều kiện kết hôn
được coi là yếu tố quan trọng cần được sửa đổi, bổ sung sao cho
phù hợp với biến động xã hội ngày nay. Để hiểu thêm về vấn đề
này em xin được lựa chọn phân tích về " Điều kiện kết hôn và sự
cần thiết phải quy định điều kiện kết hôn". Do hiểu biết còn hạn
chế nên trong bài còn thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý
của thầy cô để cho bài làm cũng như kiến thức của em thêm hoàn
thiện.
Em xin chân thành cảm ơn thầy cô!
NỘI DUNG
I. Sự cần thiết phải quy định các điều kiện kết hôn.
1. Khái niệm điều kiện kết hôn
Chức năng tái sản xuất ra con người là chức năng quan trọng nhất
của gia đình để duy trì xã hội loài người. Khởi nguồn của gia đình
là sự xác lập quan hệ hôn nhân giữa hai người khác giới, được nhà
nước tôn trọng và bảo vệ. Xét về mặt lý luận, nếu xem gia đình là
nền tảng của xã hội thì điều kiện kết hôn chính là yếu tố pháp lý
cơ sở để xây dựng nền tảng này. Điều kiện kết hôn được quy định
trong luật và cũng bị tác động bởi nền kinh tế, khi xã hội có những
biến đổi mà quy định về điều kiện kết hôn không còn phù hợp nữa
thì phải có sự thay đổi hợp lý. Các quy định về điều kiện kết hôn về
tổng thể cũng góp phần hạn chế các tệ nạn như tảo hôn, kết hôn
không dựa trên tinh thần tự nguyện hay kết hôn với những người
không đủ điều kiện kết hôn; góp phần xây dựng xã hội vững mạnh,
nguồn nhân lực dồi dào và chất lượng.
Tóm lại, việc quy định điều kiện kết hôn là hoàn toàn cần thiết, phù
hợp với xu hướng phát triển , nhu cầu cần thiết của xã hội; phù
hợp với chủ trương, chính sách và đường lối của Đảng.
II. Điều kiện kết hôn.
1. Điều kiện về độ tuổi kết hôn.
Độ tuổi là thước đo cho sự phát triển của con người, đảm bảo khả
năng họ có thể thực hiện sứ mạng của mình là xây dựng gia đình
và phát triển xã hội. Tuổi kết hôn được hiểu là tuổi mà một người
được phép lấy chồng/vợ cũng như quyền làm hoặc buộc phải làm
cha mẹ hoặc các hình thức khác đồng thuận khác. Độ tuổi và các
yêu cầu khác nhau ở mỗi nước, nhìn chung thì độ tuổi kết hôn là
18 tuổi ở nhiều quốc gia, tuy nhiên nhiều nước cho phép độ tuổi
kết hôn sớm hơn nếu có sự đồng ý của cha/mẹ hoặcluật pháp,
hoặc trong trường hợp mang thai (nữ). Độ tuổi kết hôn không chỉ
căn cứ vào khả năng sinh sản của nam, nữ mà còn đảm bảo cho
việc xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, bền
vững. Đồng thời đảm bảo cho con cái sinh ra được khỏe mạnh cả
về thể lực lẫn trí tuệ, có thể phát triển tốt để trở thành công dân
có ích cho xã hội. Con người chỉ khi đạt đến độ tuổi nhất định mới
có suy nghĩ đúng đắn và nghiêm túc trong việc kết hôn của mình.
Hơn nữa, khả năng tham gia vào quá trình lao động tạo ra thu
nhập khi mà con người đạt đến độ tuổi nhất định. Điều đó đảm bảo
cho họ có cuộc sống độc lập về kinh tế, chín muồi về tâm lý, đầy
đủ ý thức xã hội để thực hiện các chức năng của gia đình và duy trì
tế bào của xã hội. Quan niệm của người xưa cho rằng nữ thập tam,
nam thập lục nghĩa là nữ 13 tuổi, nam 16 tuổi là đủ tuổi kết hôn.
Tuy nhiên thì quan niệm ngày nay khi xã hội phát triển đã có sự
thay đổi, cụ thể là theo khoản 1 điều 9 Luật Hôn nhân và gia đình
quy định, tuổi kết hôn của nam là từ hai mươi tuổi trở lên, nữ từ
mười tám tuổi trở lên. Theo quy định này thì " không bắt buộc nam
phải đủ từ hai mươi tuổi trở lên, nữ phải đủ mười tám tuổi trở lên
mới được kết hôn; do đó nam đã bước sang tuổi hai mươi, nữ bước
sang tuổi mười tám mà kết hôn là không vi phạm điều kiện về độ
tuổi" ( mục 1 điểm a Nghị quyết số 02/2000/NQ - HĐTP của Hội
đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một
số quy định của Luật hôn nhân gia đình năm 2000). Ví dụ như anh
A sinh ngày 30/08/1994 thì đến ngày 30/08/2013 là tròn 19 tuổi,
bắt đầu từ sau ngày 30/08/2013 là coi như anh A đã bước sang
tuổi 20, lúc này nếu như anh A kết hôn thì không bị coi là vi phạm
điều kiện kết hôn. Các trường hợp vi phạm về độ tuổi kết hôn sẽ bị
xử lý hành chính theo như Nghị định số 110/2013/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 24 tháng 9 năm 2013 quy định xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hôn
nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá sản doanh nghiệp, hợp
tác xã; cụ thể là điều 47 Nghị định 110/2013/NĐ-CP quy định Hành
vi tảo hôn, tổ chức tảo hôn "1. Cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 500.000
đồng đến 1.000.000 đồng đối với hành vi tổ chức lấy vợ, lấy chồng
cho người chưa đủ tuổi kết hôn.
2. Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với hành vi
cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đủ tuổi
kết hôn mặc dù đã có quyết định của Tòa án nhân dân buộc chấm
dứt quan hệ đó." hoặc có thể bị xử lý hình sự theo điều 148 BLHS
quy định về tội tổ chức tảo hôn,tội tảo hôn "Người nào có một
trong các hành vi sau đây, đã bị xử phạt hành chính về hành vi
này mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ
đến hai năm hoặc bị phạt tù từ ba tháng đến hai năm:a) Tổ chức
việc kết hôn cho những người chưa đến tuổi kết hôn;b) Cố ý duy trì
quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đến tuổi kết hôn
mặc dù đã có quyết định của Toà án buộc chấm dứt quan hệ đó."
2. Điều kiện về sự tự nguyện của nam, nữ trong kết hôn.
Theo từ điển tiếng Việt thì "Tự nguyện" là tự mình muốn làm, tự
mình muốn như thế, không ai bắt buộc. Vậy tự nguyện của nam,
nữ trong kết hôn được hiểu là mong muốn xuất phát từ ý chí của
cả hai, tự mình quyết định việc kết hôn và thể hiện ý chí muốn trở
thành vợ chồng. Kết hôn phải dựa trên ý chí của nam, nữ mà
không bị tác động bởi bất cứ người nào khiến họ phải kết hôn trái
với nguyện vọng của họ. Hai bên nam nữ mong muốn trở thành vợ
chồng xuất phát từ tình yêu thương giữa họ và nhằm mục đích là
cùng nhau xây dựng gia đình. Sự tự nguyện của hai bên nam nữ
trong việc kết hôn phải thể hiện rõ là họ mong muốn được gắn bó
với nhau, cùng nhau chung sống suốt đời nhằm thỏa mãn nhu cầu
tình cảm giữa hai người. Sự tự nguyện là yếu tố quan trọng đảm
bảo cho hôn nhân có thể tồn tại lâu dài và bền vững. Sự tự nguyện
trong kết hôn thường được thể hiện ở việc cùng nhau đi đăng ký
kết hôn.
Pháp luật quy định việc kết hôn phải có sự tự nguyện của cả hai
bên nam nữ là nhằm bảo đảm cho họ được tự do thể hiện ý chí và
tình cảm khi kết hôn. Sở dĩ pháp luật quy định vậy là xuất phát từ
quyền con người được công nhận trên toàn thế giới trong Bản
Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền của Liên hợp quốc ngày 10 tháng
12 năm 1948, cụ thể là điều 16 " Ðiều 16:
1. Nam và nữ trong tuổi trưởng thành có quyền kết hôn và lập gia
đình, mà không bị hạn chế về lý do chủng tộc, quốc tịch hay tôn
giáo. Nam nữ đều có quyền bình đẳng lúc kết hôn, trong đời sống
vợ chồng và lúc ly hôn.
2. Hôn nhân chỉ có thể tiến hành khi cả hai đều được tự do quyết
định và đồng ý thật sự."
Sự tự nguyện này phải được thể hiện bởi ý chí của một người có
đầy đủ năng lực hành vi dân sự và đang trong tình trạng hoàn toàn
tỉnh táo. Do đó, đối với những người bị mắc bệnh tâm thần hoặc
một bệnh lý nào đó mà không có khả năng nhận thức, điều khiển
hành vi của mình và bị tòa án tuyên bố là mất năng lực hành vi
dân sự thì pháp luật cũng cấm kết hôn. Trong trường hợp người có
đầy đủ năng lực hành vi dân sự nhưng bị chấn động về thần kinh
hoặc đang trong tình trạng say rượu, bia thì họ cũng tạm thời
không được đăng ký kết hôn cho đến khi hồi phục khả năng nhận
biết và hoàn toàn tỉnh táo.
Để đảm bảo việc kết hôn hoàn toàn tự nguyện thì pháp luật cũng
có một số quy định như sau:
Thứ nhất, những người muốn kết hôn phải cùng có mặt tại cơ quan
đăng ký kết hôn nộp tờ khai đăng ký kết hôn. Trong trường hợp đặc
biệt, nếu một người vắng mặt do lý do chính đáng thì có thể gửi
cho UBND nơi đăng ký kết hôn đơn in nộp hồ sơ vắng mặt, trong
đơn nêu rõ lý do vắng mặt, có xác nhận của UBND cấp xã nơi cư
trú. Đến ngày UBND tiến hành đăng ký kết hôn và trao giấy chứng
nhận kết hôn thì đôi nam nữ phải có mặt để một lần nữa, cả hai trả
lời trước cán bộ hộ tịch và đại diện cơ quan đăng ký kết hôn ràng,
đến lúc bấy giờ họ vẫn hoàn toàn tự nguyện kết hôn với nhau.
Thứ hai, pháp luật không cho phép cử người đại diện trong việc
đăng ký kết hôn đồng thời cũng không cho phép những người kết
hôn vắng mặt tại lễ đăng ký két hôn. Thông thường, lễ đăng ký kết
hôn của công dân Việt Nam với nhau được tiến hành tại UBND cấp
xã. Tuy nhiên, đối với khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa mà
điều kiện đi lại quá khó khăn thì lễ đăng ký kết hôn được tổ chức
tại thôn, bản, phum, sóc nơi cư trú của một trong hai người ( điều
8 Nghị định số 32/2002/NĐ-CP ngày 27/3/2002 của Chính phủ quy
định việc áp dụng Luật hôn nhân và gia đình đối với dân tộc thiểu
số). Trong thực tế thì cũng có trường hợp vì lý do khách quan hay
chủ quan khi tổ chức đăng kí kết hôn chỉ có một bên nam hoặc nữ
thì việc kết hôn vẫn được công nhận là hợp pháp khi " trước khi tổ
chức đăng ký kết hôn đã thực hiện đúng quy định tại khoản 1 điều
13 và sau khi tổ chức đăng ký kết hôn họ thực sự về chung sống
với nhau" ( Mục 2 điểm c Nghị quyết số 02/20002/NĐ-HĐTP).
Thứ ba, pháp luật quy định việc kết hôn phải không có hành vi
cưỡng ép kết hôn, lừa dối để kết hôn hoặc cản trở việc kết hôn tự
nguyện, tiến bộ. Do đó, những trường hợp kết hôn do cưỡng ép, bị
lừa dối đều coi là kết hôn trái pháp luật. Bên cạnh đó, nhà nước
cũng đảm bảo sự tự nguyện bằng cách có chế tài hình sự đối với
những hành vi vi phạm sự tự nguyện tiến bộ của việc kết hôn mà
cụ thể là điều 146 BLHS quy định Tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản
trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ như sau: "Người nào cưỡng ép
người khác kết hôn trái với sự tự nguyện của họ, cản trở người
khác kết hôn hoặc duy trì quan hệ hôn nhân tự nguyện, tiến bộ
bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải
hoặc bằng thủ đoạn khác đã bị xử phạt hành chính về hành vi này
mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến
ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm."
3. Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn
quy định tại điều 10 Luật hôn nhân và gia đình.
Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình quy định thì việc kết hôn bị
cấm trong các trường hợp sau:
+ Người đang có vợ hoặc chồng ( khoản 1 điều 10 Luật hôn nhân
và gia đình năm 2000). Hệ thống pháp luật nước ta quy định khi
kết hôn nam nữ phải tuân theo nguyên tắc hôn nhân một vợ một
chồng. Những người được quyền kết hôn phải là những người chưa
có vợ có chồng hoặc đã có vợ/ chồng nhưng vợ/chồng chết hay vợ
chồng đã ly hôn. Pháp luật cấm những người đang có vợ/ chồng
kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác nhằm xóa
bỏ chế độ đa thê dưới thời đại phong kiến. Hôn nhân một vợ một
chồng lấy tình yêu giữa nam và nữ làm cơ sở xác lập hôn nhân và
lấy tình yêu làm cơ sở duy trì quan hệ hôn nhân. Tuy nhiên đối với
những trường hợp nam nữ lấy nhau nhưng không đăng kí kết hôn
và chung sống với nhau trong quan hệ vợ chồng trên thực tế trước
khi luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực thì vẫn được
Nhà nước thừa nhận. Ngoài ra người đang có vợ, có chồng còn bao
gồm cả những người đã sống chung với người khác như vợ chồng
từ trước ngày 3/1/1987 và đang chung sống như vợ chồng mà
không đăng ký kết hôn.
Hiện nay vẫn còn tồn tại một số trường hợp một chồng hai vợ hoặc
một vợ hai chồng. Đó là trường hợp cán bộ, bộ đội miền Nam đã có
vợ, có chồng ở miền Nam nhưng khi tập kết ra Bắc lại lấy vợ, lấy
chồng khác. Nhà nước đặc biệt quan tâm tới vấn đề này và coi đây
là hậu quả chiến tranh, những trường hợp này theo nhà nước là
cần được bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các đương sự,
đặc biệt là đối với phụ nữ và con. Trên tinh thần đó Tòa án nhân
dân tối cao đã ra thông tư số 60/DS ngày 22/2/1978 hướng dẫn các
tòa án địa phương khi giải quyết các vụ việc liên quan. Do đó, tuy
vi phạm nguyên tắc hôn nhân một vợ, một chồng nhưng không bị
coi là kết hôn trái pháp luật.
Để đảm bảo cho nguyên tắc kết hôn một vợ, một chồng; Nhà nước
ta đã có nhiều biện pháp nhằm ngăn chặn, ví dụ như khi đăng kí
kết hôn thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký kết hôn phải
xác minh tình trạng hôn nhân của các bên nam, nữ và chỉ tiến
hành đăng kí kết hôn cho họ khi cả nam và nữ đều đang không có
vợ, có chồng. Bên cạnh đó cũng có các biện pháp xử lý đối với
những người có hành vi vi phạm như xử phạt hành chính " 1. Phạt
tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với một trong các
hành vi sau:
a) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn với người khác,
chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn với người mà mình biết
rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;
b) Đang có vợ hoặc đang có chồng mà chung sống như vợ chồng
với người khác;
c) Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà chung sống như vợ chồng
với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ;"
( khoản 1 - điều 48 -Nghị định số 110/2013/NĐ-CP ) Hoặc có thể bị
xử lý hình sự theo điều 147 BLHS quy định tội vi phạm chế độ hôn
nhân một vợ, một chồng " 1. Người nào đang có vợ, có chồng mà
kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người
chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ
chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ gây hậu
quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này
mà còn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến
một năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến một năm.
2. Phạm tội trong trường hợp đã có quyết định của Toà án tiêu huỷ
việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ
chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ
đó, thì bị phạt tù từ sáu tháng đến ba năm".
+ Người bị mất năng lực hành vi dân sự ( khoản 2 điều 10 Luật hôn
nhân và gia đình năm 2000). Người bị mất năng lực là một người
do bị bệnh tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận
thức, làm chủ được hành vi của mình, thì theo yêu cầu của người
có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định tuyên bố mất
năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định
có thẩm quyền. ( khoản 1- điều 24 BLDS năm 2005). Pháp luật
cấm không cho họ kết hôn là hoàn toàn hợp lý, bởi vì:
- Những người bị mất năng lực hành vi dân sự không có khả năng
nhận biết, điều khiển hành vi nên họ không thể thực hiện được
nghĩa vụ với vợ, chồng và đối với các con; không thể thực hiện
trách nhiệm của mình trong gia đình.
- Khi họ bị mất năng lực hành vi dân sự cũng không thể biết được
nguyện vọng thật sự của họ, khó xác định cuộc hôn nhân dựa trên
tinh thần tự nguyện.
- Dựa trên căn cứ khoa học thì bệnh tâm thần là loại bệnh có tính
di truyền nên các nhà làm luật cũng cho rằng, cần phải có quy
định cấm những người mắc bệnh này kết hôn để đảm bảo cho con
cái sinh ra được khỏe mạnh, bảo đảm cho nòi giống được phát
triển tốt và bảo đảm cho hạnh phúc gia đình.
+ Cấm những người cùng dòng máu về trực hệ, những người có họ
trong phạm vi ba đời hoặc đã từng có quan hệ thích thuộc kết hôn
với nhau.( theo quy định tại khoản 3 và khoản Điều 10 Luật Hôn
nhân và gia đình).
+ Cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính.( khoản 5 điều 10
Luật Hôn nhân và gia đình).
III. Những hạn chế của pháp luật về điều kiện kết hôn và phương
hướng giải quyết.
1. Độ tuổi kết hôn.
Quy định độ tuổi kết hôn trong thực tiễn áp dụng đã có một số bất
cập sau:
- Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày
23/12/2000 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao
hướng dẫn áp dụng một số quy định của Luật Hôn nhân và Gia
đình năm 2000 thì chỉ cần nam bước sang tuổi hai mươi, nữ bước
sang tuổi mười tám là đủ tuổi kết hôn. Tuy nhiên, theo quy định tại
Điều 18, 19 của Bộ luật dân sự năm 2005 thì “người từ đủ mười
tám tuổi trở lên là người thành niên…” và “người thành niên có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ…” nên xảy ra trường hợp mâu
thuẫn khi cá nhân đủ tuổi kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2000 nhưng lại chưa là người thành niên, chưa có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ và bị hạn chế trong việc xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự theo quy định tại Bộ Luật Dân sự năm 2005.
- Theo quy định tại khoản 3 Điều 57 Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2004 thì cá nhân chỉ có thể tự mình tham gia quan hệ tố tụng khi
đã đủ 18 tuổi trở lên. Theo Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thì
nữ bước sang tuổi 18 mà kết hôn được coi là hợp pháp và họ được
quyền tự do ly hôn. Tuy nhiên, quyền tự do ly hôn của họ không
thể thực hiện nếu sau khi kết hôn và đến thời điểm có yêu cầu ly
hôn họ chưa đủ 18 tuổi.
- Về sự phù hợp với pháp luật chuyên ngành: Trong khi Điều 9 Luật
HN&GĐ quy định độ tuổi kết hôn của nam là từ 20 tuổi trở lên, nữ
từ 18 tuổi trở lên thì trong thực tiễn, khi thực hiện Luật Phòng,
chống bạo lực gia đình và các văn bản liên quan, đặc biệt là Nghị
định số 110/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực phòng, chống bạo lực gia đình, việc xác định hành vi vi phạm
bạo lực gia đình, đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự đối
với người vợ là khó khăn vì nếu vi phạm ngay sau khi kết hôn thì
người vi phạm chưa đủ 18 tuổi (chưa thành niên). Quy định về tuổi
kết hôn cũng chưa đồng bộ với các điều ước quốc tế về giới và
bình đẳng giới, ví dụ công ước CEDAW về tuổi trẻ em và bình đẳng
nam, nữ trong kết hôn.
- Tuổi kết hôn so với một số nước và vùng lãnh thổ thấp hơn so với
Việt Nam; áp dụng pháp luật nước ngoài đối với quan hệ HN&GĐ
có yếu tố nước ngoài quy định pháp luật nước ngoài sẽ được áp
dụng cho quan hệ HN&GĐ có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam
nhưng nếu trái với những nguyên tắc liên quan đến quan hệ hôn
nhân gia đình nhưng lại được quy định trong các văn bản pháp luật
khác thì có được áp dụng hay không
Ngoài ra, thực tiễn thi hành quy định về tuổi kết hôn còn rất nhiều
bất cập giữa quy định của pháp luật và tập quán về tuổi kết hôn.
Ở một số địa phương, cộng đồng, người dân vẫn kết hôn theo độ
tuổi trong tập quán dẫn tới tình trạng tảo hôn vẫn còn tồn tại ở các
nhóm cộng đồng này. Báo cáo tổng kết của một số địa phương cho
thấy, tỷ lệ kết hôn trước tuổi luật định ở vùng cao, nơi đồng bào
dân tộc ít người sinh sống còn khá cao.
Kiến nghị :Nghiên cứu sửa đổi tuổi kết hôn theo hướng nam, nữ
được kết hôn khi từ đủ 18 tuổi để đảm bảo cá nhân khi đăng ký kết
hôn có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và năng lực hành vi tố tụng
dân sự. Hơn nữa, cùng với điều kiện kinh tế và cuộc sống ngày
càng được nâng cao, sự phát triển về thể chất, nhận thức xã hội
của nam, nữ, vấn đề giới tính đã được phổ cập rộng rãi nên việc
sửa đổi quy định tại khoản 1 Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2000 thành “Nam, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên” là phù hợp, thể
hiện quyền bình đẳng giữa nam, nữ trong việc kết hôn, phù hợp
với tuổi có năng lực hành vi dân sự đầy đủ quy định trong Bộ luật
Dân sự.
2.Điều kiện về sự tự nguyện của nam, nữ.
Trong luật Hôn nhân và gia đình cũng như trong nghị quyết số
02/2000/NQ - HĐTP cũng đã hướng dẫn về những trường hợp bị coi
là một bên lừa dối nhưng là dưới dạng liệt kê hành vi như:lừa dối là
nếu kết hôn sẽ xin việc cho, nếu kết hôn thì bảo lãnh ra nước
ngoài,... chứ không có những tiêu chí như thế nào là " lừa dối",
không khái quát được hết các trường hợp lừa dối khiến cho việc
xác định hành vi lừa dối trong hôn nhân có nhiều vướng mắc.
Trên thực tế sự tự nguyện chỉ có thể được xác định thông qua hành
vi thể hiện ý chí của người kết hôn trước cơ quan nhà nước có
thẩm quyền công nhận việc kết hôn. Bản thân yếu tố chủ quan
bên trong như tình cảm, mong muốn , nguyện vọng của người kết
hôn như thế nào thì lại khó có thể biết. Bên cạnh đó vấn đề thẩm
định sự tự nguyện kết hôn có yếu tố nước ngoài còn nhiều hạn
chế, nhất là trong cách tiến hành phỏng vấn. Một số cơ quan nhà
nước vẫn tiến hành phỏng vấn một cách hời hợt cho qua, chưa làm
đúng với tinh thần và tầm quan trọng của thủ tục phỏng vấn, cán
bộ biết tiếng nước ngoài cũng không nhiều nên nhiều khi cán bộ
phỏng vấn không hiểu được các đương sự nói gì.
Kiến nghị: Cần có những biện pháp giáo dục, tuyên truyền hợp lý
để nâng cao tinh thần tuân thủ pháp luật của người dân. Bên cạnh
đó cũng cần có những biện pháp thích hợp để nâng cao hiệu quả
của việc thẩm định sự tự nguyện kết hôn và nâng cao trình độ của
các cán bộ trong các cơ quan nhà nước.
3.Những trường hợp cấm kết hôn.
Thứ nhất về việc xác định thế nào là người đang có vợ, có chồng.
Trên thực tế việc xác định tình trạng hôn nhân của các bên không
phải lúc nào cũng đơn giản. Đặc biệt đối với những người chung
sống với nhau như vợ chồng nhưng không đăng kí kết hôn. Theo
quy định của pháp luật hiện hành, nam nữ chung sống với nhau
như vợ chồng từ trước ngày 3/1/1987 được pháp luật công nhận là
vợ chồng. Tuy nhiên rất khó xác định họ chung sống với nhau từ
thời điểm nào, thế nào là chung sống với như vợ chồng, đặc biệt
đối với những cặp không sống chung thường xuyên tại một địa
phương. Vì vậy dẫn đến tình trạng người đang có vợ hoặc có chồng
vẫn được cơ quan có thẩm quyền chấp nhận yêu cầu đăng kí kết
hôn.
Thứ hai, về quy định cấm người mất năng lực hành vi dân sự theo
khoản 2 điều 10 Luật HN & GĐ. Người mất năng lực dân sự được
hiểu là người bị mắc căn bệnh làm mất khả năng nhận thức, điều
khiển hành vi và có quyết định của Tòa án tuyên bố người đó bị
mất năng lực hành vi dân sự. Trên thực tế có rất ít người là ông,
bà, cha, mẹ, anh, chị,em.... yêu cầu tòa án tuyên bố người thân
của mình bị mất năng lực hành vi dân sự nên vẫn có nhiều trường
hợp người mất năng lực hành vi dân sự được đăng kí kết hôn.
Nhiều cơ quan đăng kí kết hôn còn lúng túng trong việc xác minh
người này có thuộc diện cấm kết hôn không.
Kiến nghị: Cần sửa đổi khoản 2 điều 10 luật HN & GĐ theo hướng
giống như điểm b điều 7 Luật HN & GĐ năm 1986 chỉ quy định
người mất năng lực hành vi dân sự là người không có khả năng
nhận thức và điều khiển hành vi, khi có yêu cầu đăng kí kết hôn sẽ
được cơ quan giám định tư pháp xác định xem có đủ điều kiện sức
khỏe không.
- Cần có quy định thủ tục rõ ràng xác minh quan hệ nhân thân của
các bên kết hôn. Công tác đăng kí và quản lý hộ tịch cần quy định
rõ thủ tục xác minh quan hệ nhân thân của người kết hôn, kết quả
phải được thể hiện bằng văn bản. Điều này nhằm hạn chế bớt tình
trạng người thuộc trường hợp cấm kết hôn vẫn kết hôn.