Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Bài tập môn môn học CHỦ NGHĨA DUY vật BIỆN CHỨNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.05 KB, 23 trang )

MÔN HỌC : CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG
Câu hỏi.
Đồng chí hãy vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng để phê phán : Bệnh chủ
quan duy ý chí, bệnh bảo thủ trì trệ, bệnh phiến diện, bệnh giáo điều và bệnh kinh
nghiệm chủ nghĩa còn rơi rớt lại trong một số ít đảng viên của ta.
Bài làm
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam, trong thực tiễn cách mạng
của đất nước, chúng ta đã đạt được những thành tựu rất lớn, tuy nhiên trong quá
trình đó chúng ta cũng gặp không ít khó khăn thử thách, có những giai đọan phát
triển mạnh mẽ nhưng cũng có lúc thoái trào, có bước tiến nhưng cũng có bước lùi.
Nguyên nhân dẫn đến những lúc thoái trào, những bước lùi trên có phần nào bắt
nguồn từ các căn bệnh còn rơi rớt lại trong một số ít đảng viên của ta. Đó là các
căn bệnh chủ quan duy ý chí, bệnh bảo thủ trì trệ, bệnh phiến diện, bệnh giáo điều
và bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa.
1. Trước hết đối với hai căn bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo thủ trì trệ :
Bệnh chủ quan duy ý chí là căn bệnh có khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của
nhân tố chủ quan, cường điệu tính sáng tạo của ý thức, của ý chí, xa rời hiện thực
khách quan, bất chấp quy luật khách quan, lấy nhiệt tình cách mạng thay thế cho sự
yếu kém về tri thức khoa học. Đây là lối suy nghĩ và hành động đơn giản, nóng vội,
chạy theo nguyện vọng chủ quan; thể hiện rõ trong khi định ra những chủ trương,
chính sách và lựa chọn phương pháp tổ chức họat động thực tiễn theo hướng áp
đặt, rơi vào ảo tưởng, chủ quan. Ví dụ như : mục tiêu đặt ra quá cao, biện pháp
không có tính khả thi .v.v. Ngoài ra bệnh chủ quan duy ý chí còn do nguồn gốc
lịch sử, xã hội, giai cấp, tâm lý của người sản xuất nhỏ chi phối. Cơ chế quan liêu
bao cấp cũng tạo điều kiện cho sự ra đời của căn bệnh này.
Bệnh bảo thủ, trì trệ là tuyệt đối một nhận thức nào đó về sự vật có được trong
hòan cảnh lịch sử phát triển nhất định của nó và xem đó là nhận thức duy nhất


đúng về tòan bộ sự vật trong quá trình phát triển tiếp theo của nó. Hay nói cách
khác, bệnh bảo thủ, trì trệ là khuynh hướng cường điệu vai trò quyết định của vật


chất, sùng bái sức mạnh của quy luật, hạ thấp vai trò của nhân tố chủ quan –
khuynh hướng đó sẽ dẫn đến bảo thủ, trì trệ, ngại gian khổ, bó tay khuất phục trước
khó khăn, trước hòan cảnh khách quan. Biểu hiện của “bệnh” này là tình trạng ỷ
lại, dựa dẫm, chờ đợi, ngại đổi mới, thậm chí cản trở cái mới, bằng lòng thỏa mãn
với cái đã có – là bạn đồng hành với chủ nghĩa quan liêu, độc đóan và hậu quả tất
yếu là làm cản trở, thậm chí còn kéo lùi sự phát triển.
Hai căn bệnh này xuất phát từ khuynh hướng sai lầm, cực đoan trong việc nhận
thức mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
Chúng ta đã biết theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, giữa vật chất và ý thức có mối
quan hệ biện chứng, thể hiện qua vai trò quyết định của vật chất đối với ý thức và
tính độc lập tương đối, sự tác động trở lại của ý thức đối với vật chất. Vật chất là
cơ sở, cội nguồn sản sinh ra ý thức. Vật chất là cái có trước, nó sinh ra ý thức,
quyết định nội dung và xu hướng phát triển của ý thức. Không có vật chất thì
không thể có ý thức bởi vì nguồn gốc của ý thức chính là vật. Tuy nhiên, mặc dù
do vật chất sinh ra và quy định nhưng ý thức lại có tính độc lập tương đối. Sự phản
ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh sáng tạo chủ động chứ không thụ
động máy móc nguyên si, vì vậy nó có tác động trở lại đối với vật chất thông qua
hoạt động thực tiễn của con người. Tuy vậy, sự tác động của ý thức đối với vật
chất cũng chỉ với mức độ nhất định, nó không thể sinh ra hay tiêu diệt các quy luật
vận động của vật chất.
Từ mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, chúng ta rút ra được nguyên
tắc khách quan. Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta trong nhận thức và hành động
phải xuất phát từ chính bản thân sự vật với những thuộc tính, những mối liên hệ
vốn có của nó, những quy luật khách quan, phải có thái độ tôn trọng sự thật, không
được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình cảm làm


điểm xuất phát cho chiến lược, sách lược cách mạng. Việc thực hiện nguyên tắc
khách quan không có nghĩa là quan điểm khách quan xem nhẹ, tính năng động,
sáng tạo của ý thức mà nó còn đòi hỏi phải phát huy tính năng động sáng tạo của ý

thức, của nhân tố chủ quan. Bởi vì quá trình đạt tới tính khách quan đòi hỏi chủ thể
phải phát huy tính năng động, sáng tạo trong việc tìm ra những biện pháp, những
con đường để từng bước thâm nhập sâu vào bản chất của sự vật, trên cơ sở đó thực
hiện việc biến đổi từ cái “vật tự nó” thành cái phục vụ cho nhu cầu lợi ích của con
người
Vì vậy trong thực tế nhận thức và hoạt động của con người, việc tuyệt đối hóa một
trong hai mặt của vật chất và ý thức đã dẫn tới bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh
bảo thủ trì trệ.
Trước thời kỳ đổi mới Đảng ta đã mắc bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo thủ trì
trệ trong việc xác định mục tiêu và hướng đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật,
cải tạo XHCN và quản lý kinh tế. Đảng ta đã nóng vội muốn xóa bỏ ngay nền kinh
tế nhiều thành phần, chỉ còn lại hai thành phần là : kinh tế quốc doanh và tập thể;
hay có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng mà không chú ý
đến phát triển công nghiệp nhẹ và nông nghiệp trong khi nước ta là một nước nông
nghiệp, tất cả những điều kiện vật chất khách quan đều thuận lợi để phát triển nông
nghiệp; Đồng thời đã duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung quan liêu, bao
cấp, cơ chế xin – cho, có nhiều chủ trương sai lầm trong việc cải cách giá cả, tiền
tệ, tiền lương; công tác tư tưởng và tổ chức cán bộ phạm nhiều khuyết điểm
nghiệm trọng. Từ đó đã kìm hãm sự phát triển kinh tế – xã hội, làm cho nhân dân
bị nghèo nàn, đất nước lạc hậu, hạn chế việc phát huy các nguồn lực, chậm khai
thác tiềm năng xây dựng đất nước.
Để khắc phục hai căn bệnh nêu trên, cần thực hiện những biện pháp là :
- Phải tiến hành đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để trên tất cả các lĩnh vực của
đời sống xã hội, đổi mới từ quan niệm, tư duy lý luận đến đổi mới cơ chế chính


sách, tổ chức cán bộ, phong cách và lề lối làm việc. Thực hiện đổi mới với những
hình thức, bước đi, cách làm phù hợp, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm
mà trước hết là đổi mới tư duy kinh tế, nâng cao năng lực nhận thức và vận dụng
quy luật, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của Đảng viên.

- Tăng cường phát huy dân chủ, phát huy tiềm năng cán bộ KHKT, đội ngũ cán bộ
quản lý.
- Tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, tổng kết cái mới, không ngừng bổ sung,
phát triển, hoàn chỉnh lý luận.
- Phải đổi mới và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới.
2. Đối với căn bệnh phiến diện :
Bệnh phiến diện là “bệnh” khi xem xét sự vật hiện tượng chỉ nhìn thấy những sự
vật cá biệt mà không nhìn thấy mối quan hệ qua lại giữa những sự vật ấy, chỉ nhìn
thấy sự tồn tại mà không nhìn thấy sự phát sinh và tiêu vong của sự vật ấy, nhìn
trạng thái tĩnh mà quên mất sự vận động của sự vật. “nhìn thấy cây mà không thấy
rừng”. Có khi cũng chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối liên hệ nhưng dàn trải đều, đánh
giá ngang nhau ở vị trí, vai trò của các mối liên hệ, không biết so sánh, phân tích
để làm nối bật cái cơ bản nhất, cái quan trọng nhất đang chi phối sự tồn tại, vận
động, chuyển hóa và phát triển của SVHT.
Căn bệnh này xuất phát từ việc không nhận thức và vận dụng đúng nguyên lý về
mối liên hệ phổ biến trong chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến là một trong hai nguyên lý cơ bản của phép biện
chứng duy vật, trong đó mối liên hệ phổ biến là khái niệm dùng để chỉ sự liên quan
tác động, ràng buộc, quy định và chuyển hóa lẫn nhau giữa các mặt, các yếu tố
trong một sự vật, hiện tượng (SVHT) hoặc giữa các SVHT với nhau. Mọi SVHT
trong thế giới khách quan đều tồn tại trong những mối liên hệ tác động lẫn nhau, sự
vật này thay đổi kéo theo sự vật kia thay đổi và không có một SVHT nào tồn tại
một cách cô lập, tách rời, do đó mối liên hệ giữa các SVHT mang tính phổ biến.


Mối liên hệ này còn mang tính khách quan do đây là cái vốn có từ bên trong SVHT
chứ không phải do áp đặt từ bên ngoài, nó bắt nguồn từ tính thống nhất vật chất
của thế giới vật chất của thế giới, từ sự tồn tại và phát triển của chính SVHT. Các
SVHT trong thế giới vật chất rất đa dạng nên mối liên hệ giữa chúng cũng đa dạng.
Từ nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, chúng ta rút ra ý nghĩa phương pháp luận là

trong nhận thức và hoạt động thực tiễn đòi hỏi chủ thể phải có quan điểm toàn diện
và quan điểm lịch sử cụ thể. Quan điểm toàn diện đòi hỏi khi xem xét, đánh giá sự
vật hiện tượng, ta phải đặt chúng vào mối quan hệ với các SVHT khác, xem xét
các SVHT trong mối quan hệ qua lại giữa các bộ phận, các yếu tố các thuộc tính
khác nhau của chính bản thân SVHT và giữa SVHT đó với những SVHT khác (kể
cả trực tiếp, gián tiếp). Quan điểm lịch sử cụ thể đòi hỏi khi xem xét mọi vấn đề do
thực tiễn đặt ra hoặc khi đánh giá một SVHT, để nhìn thấy được bản chất của sự
vật hiện tượng chúng ta gắn nó với không gian và thời gian cụ thể, với những điều
kiện, những hoàn cảnh lịch sử cụ thể của sự tồn tại của sự vật, không được đánh
giá chung.
Vì vậy việc không nhận thức và vận dụng đúng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến,
về quan điểm toàn diện, quan điểm lịch sử cụ thể, tách rời các mặt khi xem xét một
vấn đề, hoặc xem xét không gắn với những hoàn cảnh lịch sử cụ thể dẫn tới căn
bệnh phiến diện.
Trước thời kỳ đổi mới ( Đại hội 6 ), Đảng ta đã mắc phải “bệnh” phiến diện, một
chiều trong việc xây dựng phương thức sản xuất XHCN : chỉ tập trung xây dựng
QHSX mà không thấy được vai trò của LLSX (tức là chưa vận dụng đúng quy luật
QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX), chỉ thấy một mặt của
PTSX là QHSX, dẫn đến xây dựng một QHSX tiên tiến vượt xa với tính chất và
trình độ của LLSX đưa đến không phát triển được nền kinh tế đất nước. Hoặc là
khi xây dựng QHSX chỉ chú ý đến quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất mà không
chú ý đến mối quan hệ giữa nó với việc tổ chức quản lý sản xuất và phân phối sản


phảm dẫn đến quốc hữu hóa TLSXC, phát triển kinh tế quốc doanh và tập thể (2
thành phần kinh tế chủ yếu lúc bấy giờ với 2 hình thức sở hữu là : là sở hữu nhà
nước và sở hữu tập thể) đưa đến nền sản xuất bị đình trệ, nền kinh tế chậm phát
triển.
Để khắc phục bệnh phiến diện một chiều, chúng ta cần phải có quan điểm toàn
diện, quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét nghiên cứu SNHT, phải biết kết hợp

chặt chẽ giữa “chính sách có dàn đều” và “chính sách có trọng điểm” trong phát
triển kinh tế. Đổi mới phải thực hiện toàn diện, đồng bộ triệt để với những bước đi,
hình thức, cách làm phù hợp. Trong mỗi bước đi của công cuộc đổi mới đó phải
xác định đúng khâu then chốt để tập trung sức giải quyết, làm cơ sở đổi mới các
khâu khác, các lực lượng khác, như lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm thúc đẩy
mạnh mẽ các lĩnh vực khác.
3. Đối với căn bệnh giáo điều và bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa.
Bệnh giáo điều là căn bệnh mà khuynh hướng tuyệt đối hóa lý luận, coi thường
kinh nghiệm thực tiễn, coi lý luận là bất di bất dịch, việc nắm lý luận chỉ dừng lại ở
những nguyên lý chung trừu tượng, không chú ý đến những hoàn chỉnh lịch sử cụ
thể của sự vận dụng lý luận. Bệnh giáo điều thuộc lòng lý luận, cho rằng áp dụng
lý luận áp dụng vào đâu cũng được không xem xét điều kiện cụ thể của mình. Ví
dụ như theo Mác thì phải xóa bỏ tư hữu dẫn đến việc ta tiến hành cải tạo XHCN
xóa tất cả các thành phần kinh tế nhằm mục đích chỉ còn 2 thành phần kinh tế quốc
doanh và tập thể mà không thấy được rằng "Nền kinh tế nhiều thành phần là một
đặc trưng của thời kỳ quá độ", sự có mặt của nhiều thành phần kinh tế với các mối
quan hệ tác động qua lại của nó sẽ tạo động lực cho sự phát triển kinh tế trong giai
đoạn này.
Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa là căn bệnh áp dụng nguyên si rập khuôn mô hình của
nước khác, của địa phương khác vào nước mình, địa phương mình mà không sáng
tạo lại. Bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa có khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của tri


thức kinh nghiệm, coi thường lý luận, đề cao thực tiễn, hạ thấp lý luận, ngại học
tập lý luận.
Một trong những nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều
xuất phát từ khuynh hướng nhận thức sai lệch về mối quan hệ giữa lý luận và thực
tiển.
Giữa lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng, tác động qua lại với nhau.
Trong mối quan hệ đó, thực tiễn có vai trò quyết định, vì thực tiễn là hoạt động vật

chất, còn lý luận là sản phẩm của hoạt động tinh thần. Vai trò quyết định của thực
tiễn đối với lý luận thể hiện ở chổ : chính thực tiễn là cơ sở, là động lực, là mục
đích, là tiêu chuẩn để kiểm tra nhận thức và lý luận; nó cung cấp chất liệu phong
phú sinh động để hình thành lý luận và thông qua hoạt động thực tiễn, lý luận mới
được vật chất hóa, hiện thực hóa, mới có sức mạnh cải tạo hiện thực. Lý luận mặc
dù được hình thành từ thực tiễn nhưng nó có vai trò tác động trở lại đối với thực
tiễn. Sự tác động của lý luận thể hiện qua vai trò xác định mục tiêu, khuynh hướng
cho hoạt động thực tiễn (lý luận là kim chỉ nam cho hoạt động thực tiễn), vai trò
điều chỉnh hoạt động thực tiễn, làm cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn.
Từ mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn, ta rút ra được quan điểm thực
tiễn. Quan điểm thực tiễn đòi hỏi khi xem xét sự vật hiện tượng phải gắn với thực
tiễn, phải theo sát sự phát triển của thực tiễn để điều chỉnh nhận thức cho sự phù
hợp với sự phát triển của thực tiễn, hiệu quả của thực tiễn để kiểm tra những kết
luận của nhận thức, kiểm tra những luận điểm của lý luận. Quan điểm thực tiễn
cũng đòi hỏi những khái niệm của chúng ta về sự vật phải được hình thành, bổ
sung và phát triển bằng con đường thực tiễn, trên cơ sở thực tiễn chứ không phải
bằng con đường suy diễn thuần túy, không phải bằng con đường tự biện. Do thực
tiễn luôn vận động và phát triển nên phải thường xuyên tổng kết quá trình vận
dụng lý luận vào thực tiễn, xem nó thừa thiếu nhằm bổ sung phát triển nó cho phù
hợp.


Vì vậy việc vi phạm sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn dẫn tới căn bệnh kinh
nghiệm chủ nghĩa và bệnh giáo điều.
Trước thời kỳ đổi mới ( Đại hội 6 ), căn “bệnh” giáo điều biểu hiện ở nước ta là
qua việc xóa bỏ chế độ tư hữu, tiến hành cải tạo XHCN; xóa tất cả các thành phần
kinh tế, chỉ còn kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Điều này do áp dụng lý luận
vào đâu cũng được mà không xem xét điều kiện thực tiễn, điều kiện cơ sở vật chất
khách quan của đất nước.
Còn đối với căn bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa biểu hiện ở việc bắt chước một cách

rập khuôn theo mô hình XHCN ở Liên Xô ( cũ ) : Liên Xô có bao nhiêu bộ ta cũng
có bấy nhiêu bộ, Liên Xô phát triển công nghiệp nặng thì ta cũng phát triển công
nghiệp nặng mà không xem xét đến điều kiện cụ thể của Việt Nam, đồng thời
không chú ý đến phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ trong khi nước ta là
một nước nông nghiệp với tất cả những điều kiện vật chất khách quan đều thuận
lợi để phát triển nông nghiệp.
Để khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, bệnh giáo điều chúng ta cần phải nâng
cao trình độ lý luận; Đẩy mạnh tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, thảo luận
dân chủ, sớm làm rõ và kết luận những vấn đề mới, bức xúc nảy sinh từ thực tiễn;
từng bước cụ thể hóa, bổ sung phát triển đường lối, chính sách của Đảng, đấu tranh
với khuynh hướng, tư tưởng sai ; đổi mới và nâng cao chất lượng công tác nghiên
cứu lý luận, công tác giảng dạy và học tập lý luận; mở rộng dân chủ và giữ vững
định hướng chính trị trong họat động lý luận; đổi mới công tác lý luận của Đảng
viên trên nền tảng Chủ Nghĩa Marx – Lénin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác lý luận, Đảng định hướng cho
công tác lý luận.
Kết luận :
Từ những sai lầm về việc không nhận thức và vận dụng đúng các quan điểm của
phép duy vật biện chứng đã dẫn đến những “ căn bệnh “ như đã phân tích ở trên đã


dẫn đến một cái giá mà những người cộng sản đã phải trả q đắt, đó là sự tan vở
của hệ thống xã hội chủ nghĩa, sự thóai trào của phong trào cộng sản và cơng nhân
quốc tế. Đó là bài học xương máu mà Đảng Cộng Sản Việt Nam đã rút ra được để
tiến hành họach định và thực hiện đường lối đổi mới từ Đại Hội tòan quốc của
Đảng lần thứ 6 đến nay.
Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục tổng kết từ sự vận động của thực tiễn trong nước
và trên thế giới đã khẳng định một trong những bài học chủ yếu đưa cơng cuộc đổi
mới ở nước ta đi đến thắng lợi là : “ đường lối đúng đắn của Đảng là nhân tố quyết
định thành cơng của đổi mới. Đảng khởi xướng và lãnh đạo cơng cuộc đổi mới,

tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, hòan thiện đường lối đổi mới; thường
xun xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tạo ra sự thống nhất về quan điểm, ý chí và hành
động trong tòan Đảng; lãnh đạo tổ chức thực hiện, xây dựng và kiện tòan bộ máy
nhà nước trong sạch, vững mạnh”. ( VK-ĐHĐBTQ lần thứ IX – NXB – CTQG,
H.2001, trang 82 ) ./.

Seminar : Đồng chí hãy vận dụng lý luận Triết Học Duy Vật Biện Chứng
để phân tích, phê phán một số “ căn bệnh” : chủ quan duy ý chí, bảo
thủ trì trệ, phiến diện, kinh nghiệm và giáo điều của một số Đảng viên ở
nước ta ?

Bài sọan :

I. KHÁI QUÁT VỀ CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG :


Như chúng ta đã biết, Marx đã kế thừa hạt nhân hợp lý của Hégel là phép biện
chứng và của Feurebac là quan điểm duy vật, đồng thời khái quát những thành
tựu của khoa học tự nhiên đương thời, Marx đã cải tạo phép biện chứng của
Hégel đặt nó vào hiện thực, trên thế giới quan duy vật, ng đã xây dựng nên
phép biện chứng duy vật : nó vừa mang tính duy vật triệt để, vừa mang tính
khoa học. Đó là sự thống nhất giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận
biện chứng.
Để phê phán một số căn “căn bệnh” : chủ quan duy ý chí, bảo thủ trì trệ,
phiến diện, kinh nghiệm và giáo điều chúng ta phải vận dụng chủ nghóa DVBC
để đánh giá, phê phán mà cụ thể là ứng dụng các nguyên lý của phép biện
chứng; nắm vững được đònh nghóa vật chất, ý thức và mối quan hệ giữa vật chất
và ý thức; mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn để tìm hiểu những nguyên
nhân và nêu lên được hướng khắc phục các “căn bệnh” nêu trên.
Triết học là gì ? triết học là hệ thống những tri thức lý luận chung nhất

của con người về thế giới bao gồm : thế giới tự nhiện, xã hội và con người (tư
duy); về các mối quan hệ qua lại giữa con người và thế giới; về vò trí và vai trò
của con người trong thế giới đó. Triết học là hạt nhân thế giới quan của một
giai cấp hay một lực lượng xã hội nhất đònh.
Theo đònh nghóa vật chất của Lénin :” vật chất là một phạm trù triết học
dùng để chỉ thực tại khách quanđược đem lại cho con người trong cảm giác;
được cảm giác của chúng ta chụp lại, chép lại, phản ánh và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác. Do đó vật chất là tồn tại khách quan bên ngòai ý thực và
không phục thuộc vào ý thức, bất kể là sự vật tồn tại ấy con người đã nhận thức


được hay chưa nhận thức được. Như vậy, Lénin đã khẳng đònh, thừa nhận vật
chất là tính thứ nhất và ý thức là tính thứ hai.
Ý thức là gì ? Ý thức là một thuộc tính của vật chất nhưng nó không phải
của một dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính của một dạng vật chất sống có tổ
chức cao – chính là bộ óc con người. Ý thức phụ thuộc vào họat động của bộ óc,
bộ óc của con người cùng với thế giới bên ngòai tác động lên bộ óc chính là
nguồn gốc tự nhiên của ý thức. Con người là sản phẩm cao nhất của quá trình
phát triển từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của vật chất vận động và
trong quá trình đó con người đã thông qua lao động sáng tạo, ngôn ngữ và
những quan hệ xã hội đã hình thành nên ý thức – đây chính là nguồn gốc xã hội
của ý thức, là nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết đònh sự ra đời và
phát triển của ý thức. Như vậy, ý thức là một hiện tượng xã hội.
Bản chất của ý thức : Ý thức là sự phản ánh thế giới khách quan vào bộ
óc con người, là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh
mang tính tích cực, chủ động và sáng tạo. Tính năng động của ý thức thể
hiện : một là : Ý thức là sự phản ánh khái quát, trừu tượng, gián tiếp, được thể
hiện thông qua cái “vỏ vật chất” của nó là hệ thống ngôn ngữ (tiếng nói, chữ
viết); hai là : sự phản ánh của ý thức không phải là sự sao chép, liệt kê những
hiện tượng, những mối liên hệ bên ngòai, mang tính ngẫu nhiên của đối tượng

mà là một quá trình con người không ngừng tìm kiếm, tích lũy những hiểu biết
mới ngày càng đầy đủ và sâu sắc hơn về mặt bản chất, quy luật vận động và
phát triển của sự vật; ba là : sự phản ánh sáng tạo của ý thức gắn liền với nhu
cầu của cuộc sống vào họat động thực tiễn của con người, ý thức có thể dự báo


những cái sẽ xảy ra trong tương lai, nhờ đó con người có thể chủ động và tự
giác hơn trong hành động; bốn là : tính sáng tạo của ý thức còn được thể hiện ở
chỗ thông qua họat động thực tiễn của con người ý thức tác động làm biến đổi
thế giới, tạo ra những đối tượng chưa có sẵn trong tự nhiên.
Qua nội dung đã phân tích ở trên, vật chất và ý thức có mối quan hệ biện
chứng như thế nào ? và ý nghóa phương pháp luận của vấn đề được thể hiện ra
sao ?
Qua đònh nghóa ta thấy : vật chất quyết đònh ý thức :
- Vật chất là cơ sở, là cội nguồn của ý thức, nó sản sinh ra ý thức, không
có vật chất là không có ý thức. Trong đó : bộ óc của con người là cơ quan vật
chất của ý thức; các sự vật hiện tượng trong thế giới khách quan được phản ánh
vào bộ óc; họat động thực tiễn, họat động sản xuất là nền tảng xã hội của sự
hình thành và phát triển ý thức.
- Vật chất quyết đònh nội dung của ý thức, muốn thay đổi một thói quen
trong phong tục tập quán nào đó thì phải thay đổi điều kiện vật chất. Ý thức lý
luận khoa học cũng do vật chất hiện thực khách quan quyết đònh.
- Vật chất quyết đònh sự biến đổi nội dung của ý thức, ý thức ra đời từ từ
vật chất, từ quá trình phản ánh hiện thực khách quan, phản ánh những điều kiện
sinh họat vật chất của xã hội, phản ánh quá trình lao động, đấu tranh, sản xuất
của xã hội .v.v.
- Vật chất là điều kiện khách quan để hiện thức hóa ý thức, tư tưởng.
Qua phân tích và nội dung của vật chất và ý thức ta thấy sự tác động trở
lại của ý thức đối với vật chất như sau :



Ý thức do vật chất sinh ra và quyết đònh, song sau khi ra đời, ý thức có
tính độc lập tương đối nên có sự tác động trở lại đối với vật chất thông qua họat
động thực tiễn của con người :
- Vai trò của ý thức biểu hiện trong việc xác đònh xây dựng mục tiêu, cơ
chế, chính sách cùng các biện pháp, các bước đi .v.v. cho họat động thực tiễn
của con người. Ví vật, trong những điều kiện khách quan nhất đònh, ý thức tư
tưởng trở thành nhân tố quyết đònh làm cho họat động của con người đúng hay
sai, thành công hay thất bại .v.v.
- Vai trò của ý thức, sức mạnh của ý thức không phải ở chỗ nó tách rời
điều kiện vật chất, thóat ly hiện thực khách quan, mà là biết dựa vào điều kiện
vật chất để có nhận thức đúng thế giới khách quan, để cải tạo thế giới một cách
chủ động, sáng tạo và có hiệu quả. Lénin nói :” ý thức con người không chỉ
phản ánh thế giới khách quan mà còn tạo ra thế giới khách quan”.
Qua nghiên cứu nội dung chủ yếu của Triết Học Mác-xít về hai phạm trù
cơ bản là vật chất và ý thức, về mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức
giúp chúng ta rút ra ý nghóa thiết thực đối với họat động nhận thức và họat động
thực tiễn. Đây là một trong những nội dung chủ yếu, yêu cầu cấp bách của việc
nhận thức lại, vận dụng sáng tạo, bổ sung va phát triển học thuyết Marx-Lénin
trong thời đại ngày nay nói chung, trong điều kiện đổi mới xây dựng CNXH ở
nước ta nói riêng.
Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức có ý nghóa phương pháp luận hết sức
quan trọng – đó là :


- Nguyên tắc khách quan trong nhận thức và hành động : Đây chính là
yêu cầu có tính chất bắt buộc nhằm đảm bảo sự thành công của họat động nhận
thức và hành động thực tiễn. Nguyên tắc này được rút ra từ quan điển duy vật
biện chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức. Nó đòi hỏi họat động nhận
thức và họat độnt thực tiễn phải xuất phát từ khách quan, tôn trọng và hành

động theo quy luật khách quan; phải xuất phát từ chính bản thân sự vật với
những thuộc tính, những mối liên hệ vốn có của nó, những quy luật khách quan,
không được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, không được lấy tình
cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược và sách lược cách mạng. Xuất phát từ
khách quan nghóa là tòan bộ những họat động của con người phải dựa trên việc
phát hiện, khai thác, và sử dụng sức mạnh của các yếu tố sau :
+ Những điều kiện, hòan cảnh vật chất khách quan như : tiềm năng,
tài nguyên, điều kiện đòa lý, khí hậu . . . hay các điều kiện là bối cảnh quốc
tế . . .
+ Những quan hệ vật chất khách quan trong đời sống xã hội : quan
hệ sản xuất, quan hệ giai cấp, những quan hệ vật chất mới nảy sinh trong quá
trình thực hiện chính sách mở của, hội nhập ...
+ Những quy luật khách quan : bao gồm cả những quy luật tự nhiên
và quy luật xã hội; cả những quy luật đã được nhận thức và chưa nhận thức . .
.Sự tác động của các quy luật khách quan là cái xuyên suốt, cái chi phối vận
động và phát triển của hiện thực khách quan. Bởi vậy, năng lực nhận thức và
vận dụng quy luật khách quan là cái có ý nghóa quyết đònh đối với sự thánh
công hay thất bại của con người.


- Phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố
chủ quan : việc thực hiện nguyên tắc khách quan không những không lọai trừ
mà còn đòi hỏi phải phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai
trò nhân tố chủ quan. Trước hết có nghóa là việc sử dụng các điều kiện sức
mạnh vật chất khách quan, sức mạnh của quy luật . . .đến mức độ nào, hiệu quả
lợi ích mà chúng mang lại cho con người đến đâu là tùy thuộc vào khả năng của
chính con người. Thông qua việc phát huy tính năng động, sáng tạo của ý thức,
phát huy vai trò nhân tố chủ quan bằng việc tổ chức các họat động phù hợp, con
người thực hiện biến đổi cái “vật tự nó”, tức là cái khách quan thành cái “vật
cho ta”, tức là phục vụ nhu cầu nào đó của con người. Việc phát huy tính năng

động, sáng tạo của ý thức, phát huy vai trò nhân tố chủ quan, sức mạnh của nó
được thể hiện ở sự tác động tổng hợp của các yếu tố sau :
+ Thứ nhất : tri thức, năng lực nhận thức và vận dụng các quy luật
khách quan – đây là yếu tố cơ bản nhất của nhân tố chủ quan.
+ Thứ hai : Ý chí, tình cảm, nhiệt tình, động cơ hành động của con
người . . . là yếu tố có vai trò rất quan trọng, có tác dụng đònh hướng cho việc
phát huy sức mạnh của nhân tố chủ quan.
+ Thứ ba : năng lực tổ chức họat động thực tiễn – đây là điều kiện
để thực hiện sự chuyển hóa sức mạnh cải tạo hiện thực trong thực tế.
Tóm lại : quan điểm khách quan này có thể được tóm tắt với hai nội dung
cơ bản sau : phải xuất phát từ khách quan, tôn trọng và hành động theo quy luật
khách quan; đồng thời phải phát huy vai trò năng động, sáng tạo của nhân tố
chủ quan.


II. MỘT SỐ “CĂN BỆNH” & BIỂU HIỆN CỦA NÓ :
Để phân tích các “căn bệnh”, từ đó tìm hiểu nguyên nhân của nó, phê
phán nó chúng ta cần tìm hiểu rõ nội dung của các “căn bệnh” đó là gí ? biểu
hiện của nó như thế nào ?
1. “Bệnh” chủ quan duy ý chí :
Nội dung và biểu hiện : Là khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ
quan, cường điệu tính sáng tạo của ý thức, của ý chí, xa rời hiện thực khách
quan, bất chấp quy luật khách quan, lấy nhiệt tình cách mạng thay thế cho sự
yếu kém về tri thức khoa học.
Đây là lối suy nghỉ và hành động đơn giản, nóng vội, chạy theo nguyện
vọng chủ quan; thể hiện rõ trong khi đònh ra những chủ trương, chính sách và
lựa chọn phương pháp tổ chức họat động thực tiễn theo hướng áp đặt, rơi vào ảo
tưởng, chủ quan. Ví dụ như : mục tiêu đặt ra quá cao, biện pháp không có tính
khả thi .v.v. Ngòai ra bệnh chủ quan duy ý chí còn do nguồn gốc lòch sử, xã hội,
giai cấp, tâm lý của người sản xuất nhỏ chi phối. Cơ chế quan liêu bao cấp cũng

tạo điều kiện cho sự ra đời của căn bệnh này.
Trước thời kỳ đổi mới ( Đại hội 6 ) Đảng ta đã mắc bệnh chủ quan duy ý
chí trong việc xác đònh mục tiêu và hướng đi về xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật, cải tạo XHCN và quản lý kinh tế. Đảng ta đã nóng vội muốn xóa bỏ ngay
nền kinh tế nhiều thành phần, chỉ còn lại hai thành phần là : kinh tế quốc doanh
và tập thể; hay có lúc đẩy mạnh quá mức việc xây dựng công nghiệp nặng mà
không chú ý đến phát triển công nghiệp nhẹ và nông nghiệp trong khi nước ta
là một nước nông nghiệp, tất cả những điều kiện vật chất khách quan đều thuận


lợi để phát triển nông nghiệp; chúng ta đã duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế
tậo trung quan liêu, bao cấp, cơ chế xin – cho, có nhiều chủ trương sai lầm trong
việc cải cách giá cả, tiền tệ, tiền lương; công tác tư tưởng và tổ chức cán bộ
phạm nhiều khuyết điểm nghiệm trọng.
Hướng khắc phục : Để khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí chúng ta phải
tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp. Trước hết là đổi mới tư duy lý luận, nhất là
tư duy về CNXH, về con đường đi lên CNXH ở nước ta, đẩy mạnh công tác
tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận, dùng lý luận để hướng dẫn, giải thích
những vấn đề do thực tiễn đặt ra; Đổi mới tòan diện, đồng bộ và triệt để với
những hình thức, bước đi và cách làm phù hợp, lấy đổi mới kinh tế làm trọng
tâm; tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, nâng cao năng lực nhận
thức và bận dụng quy luật, tăng cường phát huy dân chủ, phát huy tiềm năng,
trình độ chính trò, chuyện môn nghiệp vụ, quản lý của cán bộ khoa học kỹ thuật,
cán bộ Đảng viên nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước; Đổi mới, nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt
Nam trong điều kiện mới, củng cố, bồi dưỡng tình cảm, ý chí cách mạng trong
tòan Đảng, tòan dân; xây dựng và kiện tòan bộ máy nhà nước trong sạch, vững
mạnh.
2. “Bệnh” bảo thủ, trì trệ : Qua nghiên cứu nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến và nguyên lý về sự phát triển. Theo quan điểm của phép duy vật biện

chứng, mọi sự vận hiện tượng đều tồn tại bằng cách tác động nhau, ràng buộc
nhau, quy đònh và chuyển hóa lẫn nhau; tất cả đều vận động, biến đổi, phát sinh
( phát triển ) và mất đi.


Phát triển là một phạm trù triết học dùng để khái quát hóa quá trình vận
động tiến lên từ thấp tới cao, từ đơn giản đến phức tạp, từ kém hòan thiện đến
hòan thiện hơn. Quan điểm duy vật biện chứng khẳng đònh rằng thế giới vật
chất luôn luôn vận động và phát triển đi lên, sự vận động không ngừng là
khuynh hướng chung của mọi sự vật hiện tượng. Nguồn gốc của sự phát triển
nằm ngay trong bản thân của sự vật, do mâu thuẩn của sự vật quy đònh, là quá
trình tự thân của mỗi sự vật hiện tượng. Do vậy, phát triển là một quá trình
khách quan độc lập với ý thức của con người. Vì thế, khi xem xét các sự vật
hiện tượng phải đặt nó trong sự vận động, sự phát triển, phải phát hiện ra các
xu hướng biến đổi chuển hóa của chúng
Quán triệt quan điểm về sự phát triển chúng ta cần phải khắc phục, phê
phán “bệnh” bảo thủ, trì trệ, đònh kiến
Nội dung và biểu hiện : “bệnh” bảo thủ, trì trệ, đònh kiến là tuyệt đối
một nhận thức nào đó về sự vật có được trong hòan cảnh lòch sử phát triển nhất
đònh của nó và xem đó là nhận thức duy nhất đúng về tòan bộ sự vật trong qua
trình phát triển tiếp theo của nó. Hay nói cách khác, “bệnh” bảo thủ, trì trệ là
khuynh hướng cường điệu vai trò quyết đònh của vật chất, sùng bái sức mạnh
của quy luật, hạ thấp vai trò của nhân tố chủ quan – khuynh hướng đó sẽ dẫn
đến bảo thủ, trì trệ, ngại gian khổ, bó tay khuất phục trước khó khăn, trước
hòan cảnh khách quan. Biểu hiện của “bệnh” này là tình trạng ỷ lại, dựa dẫm,
chờ đợi, ngại đổi mới, thậm chí cản trở cái mới, bằng lòng thỏa mãn với cái đã
có – là bạn đồng hành với chủ nghóa quan liêu, độc đóan và hậu quả tất yếu là
làm cản trở, thậm chí còn kéo lùi sự phát triển.



Trước thời kỳ đổi mới ( Đại hội 6 ), ở nước ta căn “bệnh” này có một số
biểu hiện như : duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tậo trung quan liêu, bao
cấp nên đã kìm hãm sự phát triển kinh tế – xã hội, làm cho nhân dân bò nghèo
nàn, đất nước lạc hậu ; chậm đối mới các chính sách cụ thể, chính sách tiền
lương, đãi ngộ .v.v. nên làm hạn chế việc phát huy các nguồn lực, chậm khai
thác tiền năng xây dựng đất nước.
Hướng khắc phục : Vì vậy trong thời kỳ đổi mới và hiện nay chúng ta cần phải
tiếp tục đổi mới tư duy, lý luận; đổi mới trong nhận thức và hành động, sẵn sàng
tiếp nhận cái mới, cái tiến bộ phù hợp với từng giai đọan, từng thời kỳ. Đổi mới
tổ chức họat động của các nhân tố bên trong hệ thống chính trò nhằm không
ngừng nâng cao quyền làm chủ và phát huy tinh thần sáng tạo của nhân dân
trên tất cả các lónh vực đời sống xã hội.
3. “Bệnh” phiến diện ( một chiều ) :
Nội dung và biểu hiện : Là “bệnh” khi xem xét sự vật hiện tượng chỉ nhìn thấy
những sự vật cá biệt mà không nhìn thấy mối quan hệ qua lại giữa những sự vật
ấy, chỉ nhìn thấy sự tồn tại mà không nhìn thấy sự phát sinh và tiêu vong của sự
vật ấy, nhìn trạng thái tónh mà quên mất sự vận động của sự vật. “nhìn thấy cây
mà không thấy rừng”. Ví vậy trong nhận thức và hành động thực tiễn đòi hỏi
chủ thể phải có quan điểm tòan diện trong việc xem xét, giảu quyết một vần đề
trong thực tiễn. Phải nhìn thấy sự vật như là một chỉnh thể trong của tất cả các
mặt, các thuộc tính, các mối liên hệ trong bản thân sự vật hiện tượng và giữa sự
vật hiện tượng đó với sự vật hiện tượng khác, với môi trường xung quanh.
Ngòai quan điểm tòan diện, khi xem xét sự vật hiện tượng ta cũng xem xét đến


quan điểm lòch sử cụ thể, có nghóa là xem xét sự vật hiện tượng phải gắn bó với
những điều kiện, những hòan cảnh lòch sử cụ thể ảnh hưởng đến sự tồn tại của
sự vật hiện tượng đó.
Trước thời kỳ đổi mới ( Đại hội 6 ), Đảng ta đã mắc phải “bệnh” phiến diện,
một chiều trong việc xây dựng phương thức sản xuất XHCN : chỉ tập trung xây

dựng QHSX mà không thấy được vai trò của LLSX ( tức là chưa vận dụng đúng
quy luật QHSX phải phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX ), chỉ thấy một
mặt của PTSX là QHSX, dẫn đến xây dựng một QHSX tiên tiến vượt xa với
tính chất và trình độ của LLSX đưa đến không phát triển được nền kinh tế đất
nước. Hoặc là khi xây dựng QHSX chỉ chú ý đến quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất mà không chú ý đến mối quan hệ giữa nó với việc tổ chức quản lý sản
xuất và phân phối sản phảm dẫn đến quốc hữu hóa TLSXC, phát triển kinh tế
quốc doanh và tập thể ( 2 thành phần kinh tế chủ yếu lúc bấy giờ với 2 hình
thức sở hữu là : là sở hữu nhà nước và sở hữu tập thể ) đưa đến nền sản xuất bò
đình trệ, nền kinh tế chậm phát triển.
Hướng khắc phục : để khắc phục bệnh phiến diện một chiều chúng ta phải có
quan điểm tòan diện khi xem xét sự vật hiện tượng, phải kết hợp chặt chẻ giữa
“chính sách dàn đều” và “ chính sách có trọng điểm” theo như Lénin đã đưa ra
trong phát triển kinh tế. Đổi mới phải đổi mới tòan diện, đồng bộ, thiệt để với
những bước đi, hình thức phù hợp, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm trên cơ sở
đó từng bước đổi mới hệ thống chính trò.
4. “Bệnh” kinh nghiệm, giáo điều :


Nội dung và biểu hiện : “Bệnh” kinh nghiệm là khuynh hướng tuyệt đối hóa vai
trò của tri thức kinh nghiệm, coi thường lý luận, đề cao thực tiễn, hạ thấp lý
luận, ngại học tập lý luận. “Bệnh” giáo điều là khuynh hướng tuyệt đối hóa vai
trò của tri thức lý luận, coi thường kinh nghiệm, tách rời lý luận ra khỏi thực
tiễn, áo dụng lý luận một cách rập khuôn, máy móc, không chú ý đến điều kiện
lòch sử cụ thể. Vì vậy chúng ta cần phải có quan điểm thực tiễn, như Lénin
nói : “ quan điểm về đời sống, về thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản
của nhận thức, lý luận “. Họat động nhận thức, lý luận phải xuất phát từ thực
tiễn, phải tổ chức họat động thực tiễn, tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận. Cần
phải phát huy tính năng động, sáng tạo của lý luận, phát huy vai trò của lý luận;
phải nâng cao trình độ tư duy lý luận cho cán bộ, Đảng viên; biến tư duy kinh

nghiệm thành tư duy lý luận; biến tư duy siêu hình, cứng nhắc thành tư duy
mềm dẽo, biện chứng; công tác lý luận phải hướng vào thực tiễn và giải quyết
được những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Trước thời kỳ đổi mới ( Đại hội 6 ), căn “bệnh” này biểu hiện ở nước ta là qua
việc xóa bỏ chế độ tư hữu, tiến hành cải tạo XHCN; xóa tất cả các thành phần
kinh tế, chỉ còn kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể. Điều này do áp dụng lý
luận vào đâu cũng được mà không xem xét điều kiện thực tiễn, điều kiện cơ sở
vật chất khách quan của đất nước. Hay là việc bắt chước một cách rập khuôn
theo mô hình XHCN ở Liên Xô ( cũ ) : Liên Xô có bao nhiêu bộ ta cũng có bấy
nhiêu bộ, Liên Xô phát triển công nghiệp năng thì ta cũng phát triển công
nghiệp nặng mà không xem xét đến điều kiện cụ thể của Việt Nam, đồng thời
không chú ý đến phát triển nông nghiệp và công nghiệp nhẹ trong khi nước ta


là một nước nông nghiệp với tất cả những điều kiện vật chất khách quan đều
thuận lợi để phát triển nông nghiệp.
Hướng khắc phục : để khắc phục bệnh kinh nghiệm, giáo điều chúng ta cần
phải nâng cao trình độ lý luận; đấu tranh chống lại những quan điểm, luận điệu
sai trái; đổi mới và nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận, công tác
giảng dạy và học tập lý luận; mở rộng dân chủ và giữ vững đònh hướng chính trò
trong họat động lý luận; đổi mới công tác lý luận của Đảng viên trên nền tảng
Chủ Nghóa Marx – Lénin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh và tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác lý luận, Đảng đònh hướng cho công tác lý
luận.
Kết luận :
Từ những sai lầm về việc không nhận thức và vận dụng đúng các quan điểm
khách quan, quan điểm tòan diện, nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và sự phát
triển cũng như nguyên tắc về sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn nên đã dẫn
đến những “ căn bệnh “ như : chủ quan, duy ý chí; bảo thủ, trì trệ, phiến diện,
một chiều và bệnh kinh nghiệm, giáo điều như đã phân tích ở trên đã dẫn đến

một cái giá mà những người cộng sản đã phải trả quá đắt, đó là sự tan vở của
hệ thống xã hội chủ nghóa, sự thóai trào của phong trào công sản và công nhân
quốc tế. Đó là bài học xương máu mà Đảng Cộng Sản Việt Nam đã rút ra được
để tiến hành họach đònh và thực hiện đường lối đổi mới từ Đại Hội tòan quốc
của Đảng lần thứ 6 đến nay.
Đại hội Đảng lần thứ IX tiếp tục tổng kết từ sự vận động của thực tiễn trong
nước và trên thế giới đã khẳng đònh một trong những bài học chủ yếu đưa công


cuộc đổi mới ở nước ta đi đến thắng lợi là : “ đường lối đúng đắn của Đảng là
nhân tố quyết đònh thành công của đổi mới. Đảng khởi xướng và lãnh đạo công
cuộc đổi mới, tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận, hòan thiện đường lối đổi
mới; thường xuyên xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tạo ra sự thống nhất về quan
điểm, ý chí và hành động trong tòan Đảng; lãnh đạo tổ chức thực hiện, xây dựng
và kiện tòan bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh”. ( VK-ĐHĐBTQ lần thứ
IX – NXB – CTQG, H.2001, trang 82 ) ./.



×