Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Khái quát chung về Chủ Nghĩa Duy Vật Biện Chứng và Chủ Nghĩa Duy Tâm trong triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (262.11 KB, 27 trang )

Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Khái quát chung về Chủ Nghĩa Duy Vật Biện Chứng và
Chủ Nghĩa Duy Tâm trong triết học .
****
Triết học hiểu theo nghĩa chung nhất đó là môn khoa học nghiên cứu
những quy luật chung nhất của thế giới. Triết học ra đời từ rất lâu đời qua
một quá trình lịch sử rất lâu dài. Lịch sử triết học đó là một vấn đề rất quan
trọng của triết học. Khi chúng ta nghiên cứu lịch sử triết học nói chung thì
vấn đề cơ bản nhất của lịch sử triết học đó là cuộc đấu tranh giữa Chủ
Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm. Vấn đề này đợc coi là sợi chỉ đỏ
xuyên suốt chiều dài lịch sử triết học. Cuộc đấu tranh này cũng chính là sự
phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội đã phân chia thành các giai
cấp đối kháng.
Thờng thờng (trừ một số trờng hợp ngoại lệ) Chủ Nghĩa Duy Vật thể
hiện thế giới quan của những lực lợng tiên tiến, tiến bộ xã hội đại diện cho
những t tởng tiên tiến của từng thời đại. Còn Chủ Nghĩa Duy Tâm (tuy
không phải bao giờ cũng vậy) nhng là thế giới quan của lực lợng suy tàn
bảo thủ và phản động của xã hội, đại diện cho những t tởng trì trệ của từng
thời đại.
Trong thế giới quan của Chủ Nghĩa Duy Vật khẳng định tính thứ nhất
có trớc của vật chất và tính thứ hai có sau của ý thức. Họ cho rằng vật chất
sinh ra trớc ý thức và quyết định ý thức, còn ý thức có sau là sự phản ánh
những mặt, những yếu tố của vật chất; và Chủ Nghĩa Duy Vật khẳng định
con ngời có khả năng nhận thức thế giới. Ngợc lại Chủ Nghĩa Duy Tâm
khẳng định tính thứ nhất có trớc của ý thức và tính thứ hai có sau của vật
chất, họ cho rằng ý thức có trớc vật chất và ý thức quyết định vật chất họ
phủ nhận khả năng nhận thức thế giới của con ngời, họ cho rằng sự nhận
thức chỉ có đợc ở thế giới thần linh thợng đế do thợng đế quyết định. Để
thấy rõ dợc cuộc đấu tranh giữa hai trờng phái triết học Chủ Nghĩa Duy Vật
và Chủ Nghĩa Duy Tâm chúng ta nghiên cứu cuộc đấu tranh đó trong sự
hình thành và phát triển của lịch sử triết học. Hiểu đợc vấn đề này chúng ta


không chỉ dừng lại ở những hiểu biết thông thờng mà nó còn có ý nghĩa vô
cùng quan trọng đối với chúng ta trong việc giải quyết những vấn đề về thế
giới quan và những vấn đề về kinh tế xã hội đang diễn ra xung quanh đời
sống của mỗi cá nhân trong xã hội .
Để tìm hiểu cuộc đấu tranh của Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa
Duy Tâm chúng ta có thể đi qua một số giai đoạn và một số nhân vật tiêu
biểu ở những thời kỳ nhất định và cuộc đấu tranh giữa chúng.
Trang1
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Chơng I: Cuộc đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và
Chủ Nghĩa Duy Tâm triết học cổ đại Hy Lạp.
*****
1.1> Hoàn cảnh lịch sử :
Hy Lạp là một nớc nằm ven bờ Địa Trung Hải nơi có điều kiện rất
thuận tiện cho việc giao lu phát triển kinh tế cũng nh phát triển nền nông
nghiệp. Thế kỷ XV đến thế kỷ IX trớc công nguyên chế độ công xã nguyên
thuỷ đã hình thành và tan rã chế độ chiếm hữu nô lệ. Đã có những biến
động lớn ở Hy Lạp về kinh tế xã hội ngời ta biết đợc do hai tập thơ nổi tiếng
của Hô Mere sáng tác ( nhà thơ mù ). Vào thế kỷ V trớc công nguyên xảy ra
cuộc chiến tranh giữa Hy Lạp và Ba T, kết thúc bằng chiến thắng thuộc về
Hy Lạp mở ra một thời kỳ hng thịnh về kinh tế và chính trị. Một quốc gia
bao gồm 300 quốc gia nhỏ thành liên bang Hy Lạp trong đó có 2 bang lớn
nhất thời kỳ này đó là Spac và Aten. Tuy nhiên hai bang này luôn luôn mâu
thuẫn với nhau cho nên xảy ra cuộc chiến tranh kéo dài hàng chục năm,
cuối cùng Spac đã chiến thắng nhng chính cuộc chiến tranh đó đã làm cho
nền kinh tế Hy Lạp suy yếu nặng nề. Trong khi đó vua Phi-líp của Ma xe
đoan đã đem quânchiếm toàn bộ Hy Lạp. Tuy bị xâm chiếm nh vậy nhng
nền văn hoá Hy Lạp vẫn phát triển mạnh mẽ và chính nền văn hoá Hy Lạp
đã chinh phục lại những ngời đi xâm chiếm với hoàn cảnh lịch sử nh vậy đã
phản ánh vào t tởng triết học.

1.2> Sự ra đời và phát triển của triết học :
Từ những nét đặc thù về kinh tế xã hội trên đây, triết học Hy Lạp ra
đời và mang những đặc điểm cơ bản sau đây.
+ Thứ nhất sự phân chia và đối lập giữa các trờng phái triết học Duy
Tâm và Duy Vật Biện Chứng và Siêu Hình Vô Thần và Hữu Thần là nét nổi
bật trong quá trình hình thành và phát triển của triết học. Trong đó điển
hình là cuộc đấu tranh giữa hai đờng lối triết học ; đờng lối Duy Vật của
Đe mô-crít và đờng lối Duy Tâm của Platon.
+ Thứ hai các trờng phái triết học nói chung đều có xu hớng đi sâu
giải quyết các vấn đề về bản thổ và nhận thức luận triết học là những vấn đề
của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
+ Thứ ba triết học Hy Lạp cổ đại nói chung (cũng nh triết học cổ đại
của nhiều nớc khác) còn ở trình độ trực quan chất phác đặc biệt là đối với
các hệ thống triết học Duy Vật. Tuy vậy nó đã đặt ra hầu hết các vấn đề triết
học căn bản nó chứa đựng mầm mống của tất cả thế giới quan Duy Vật.
Vai trò của triết học Hy Lạp cổ đại rất quan trọng nó không chỉ đơn
thuần là sự phân biệt giữa hai nền triết học Đông Tây cổ đại mà còn nói lên
vai trò của triết học Hy Lạp cổ đại đối với lịch sử triết học thế giới nó là nền
tảng cho sự phát triển của triết học Tây Âu trên 2000 năm sau.
Trang2
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Có thể nói rằng từ khi ra đời triết học Hy Lạp cổ đại đã xảy ra những
cuộc đấu tranh mạnh mẽ giữa hai trờng phái triết học Duy Vật và Duy Tâm.
Điển hình của thời kỳ này ở Hy Lạp đó là cuộc đấu tranh giữa đờng lối Duy
Vật của Đe mo-crít và Duy Tâm của Platon.
1.3> Cuộc đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Duy Tâm:
Cuộc đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm nh
trên đã nói đó là cuộc đấu tranh giữa trờng phái Duy Vật của Đe mo-crít và
Duy Tâm của Platon là tiêu biểu và điển hình hơn cả.
Đe mo-crít (460-370 TCN) là một trong những nhà Duy Vật lớn của

thời kỳ cổ đại chiếm vị trí nổi bật trong triết học Duy Vật Hy Lạp cổ đại(1)
ông đã có quá trình tích luỹ kiến thức qua việc đi qua các nớc ở phơng
đông, Babilon, là ngời am hiểu rất nhiều lĩnh vực. Platon là đại diện cho tr-
ờng phái Duy tâm, ông là ngời đầu tiên xây dựng hệ thống hoàn chỉnh cảu
Chủ Nghĩa Duy Tâm khách quan đối lập với thế giới quan Duy Vật. Ông là
ngời đã tiến hành đấu tranh gay gắt chống lại Chủ Nghĩa Duy Vật đặc biệt
là chống lại những đại biểu của Chủ Nghĩa Duy Vật thời bấy giờ nh Hê ra
crít hay Đe mo crít.(1)
- Về vấn đề khởi nguyên của thế giới , Đe mo-crít quan niệm rằng
nguyên tử và khoảng trống là cơ sở đầu tiên cấu tạo nên mọi vật đó là
những hạt vật chất cực nhỏ, không nhìn thấy đợc, không màu sắc, không âm
thanh, không mùi vị, không thể phân chia đợc, không khác nhau về chất mà
chỉ khác nhau về hình thức, trật tự, t thế. Nguyên tử có rất nhiều nhng mỗi
nguyên tử có một hình thức nhất định: hình cầu, góc cạnh và mỗi loại sinh
vật đều đợc cấu thành bởi các nguyên tử do chúng kết hợp với nhau theo
một trật tự nhất định.
- Ông quan niệm sinh vật biết đổi là do sự sắp xếp các nguyên tử.
Ông quan niệm về bản nguyên thế giới mang tính hình tợng nhng cha thoát
khỏi trực quan cảm tính, biểu hiện là ông coi các nguyên tử có hình dạng
nhất định. Còn Platon cho rằng ý niệm là nguồn gốc sinh ra thế giới. ý
niệm tồn tại ngoài con ngời, ngoài cảm giác của con ngời; ý niệm tồn tại
vĩnh viễn bất biến, bất động (2). Các sự vật cụ thể có thể cảm thụ đợc bằng
cảm giác chỉ là bản sao của các ý niệm dựa vào ý niệm hay đúng hơn là thế
giới ý niệm. Platon thừa nhận có hai thế giới tồn tại: thế giới ý niệm, là thế
giới tồn tại vĩnh viễn, bất biến, bất động, tuyệt đối chân thực cơ sở tồn tại
của thế giới sự vật cảm tính. Còn thế giới sự vật cảm tính là thế giới tồn tại
không chân thực, luôn luôn biến đổi, là cái bóng của ý niệm, do ý niệm sản
sinh ra, phụ thuộc vào ý niệm loài ngời cũng thuộc về thế giới này.
- Về vũ trụ Đe mo-crít cho rằng vũ trụ là vô tận vĩnh cửu; có vô số
thế giới phất sinh phát triển và tiêu diệt. Còn Platon thì ngợc lại ông cho

rằng vũ trụ này không tồn tại thực, tất cả chỉ là sự phức hợp của ý niệm do ý
niệm quy định do thợng đế quyết định và không tồn tại.
Trang3
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
- Về vấn đề linh hồn: theo Đe mo-crít, ông đã bác bỏ quan niệm về
sự sản sinh ra sự sống và con ngời của thần thánh. Theo ông sự sống là kết
quả biến đổi dần dần từ thấp đến cao của tự nhiên. Sinh vật đầu tiên xuất
hiện ở môi trờng nớc và dới tác động của nhiệt độ. Sinh vật đó sống dới nớc,
sau đó dần dần xuất hiện sinh vật có vú sống trên cạn. Cuối cùng là con ng-
ời ra đời trên quả đất. Ông đã phân biệt rõ ràng sự vật và sinh vật chúng
khác nhau ở chỗ sự vật không có linh hồn, còn sinh vật có linh hồn: linh
hồn đợc cấu tạo bởi các nguyên tử hình cầu, giống nh nguyên tử của lửa vận
động với vận tốc cao. Nguyên tử linh hồn sinh ra nhiệt, nhiệt làm cho cơ thể
hng phấn và vận động. Ông coi cái chết là sự phân tán của các nguyên tử
cấu tạo nên thể xác và các nguyên tử cấu tạo nên linh hồn chứ không phải là
linh hồn lìa khỏi thể xác. Tuy quan niệm của Đe mo-crít về linh hồn còn
mang tính mộc mạc, song nó giữ vai trò rất quan trọng trong việc chống lại
quan điểm duy tâm, tôn giáo về tính bất tử của linh hồn. Còn Platon cho
rằng con ngời bao gồm linh hồn và thể xác tồn tại độc lập với nhau . Linh
hồn của con ngời là một bộ phận của linh hồn vũ trụ do thợng đế sáng tạo ra
do đó nó bất tử và tồn tại vĩnh hằng(2). Khi con ngời chết linh hồn sẽ thoát
ra khỏi con ngời và bay lên trú ngụ ở một vì sao. Khi thể xác mới ra đời,
linh hồn bay xuống nhập vào thể xác đó và tạo ra con ngời hoàn chỉnh bao
gồm cả linh hồn và thể xác. Trong khi bay xuống nhập vào thể xác con ngời
linh hồn đã lãng quên những điều quan sát đợc ở thế giới những ý niệm. Vì
thế, nhận thức của con ngời thực chất là sự hồi tởng, sự nhớ lại của linh hồn
về những điều mà nó đã lãng quên.
-Về vấn đề nhận thức: Đe mo-crít là ngời có công lao to lớn trong
lịch sử triết học về vấn đề xây dựng lý luận nhận thức vai trò của cảm giác
vớ tính cách là điểm khởi đầu của nhận thức và vai trò của t duy trong việc

nhận thức thế giới xung quanh(2).
Theo Đe mo-crít sở dĩ con ngời có những cảm giác khác nhau về màu
sắc mùi vị, âm thanh nóng lạnh là do những nguyên tử khối hợp tạo nên chủ
thể nhận thức. Điều đó có nghĩa là đối tợng của nhận thức là vật chất thế
giới xung quanh con ngời và nhờ sự tác động của đối tợng nhận thức vào
con ngời nên con ngời mới nhận thức đợc. Ông chia ra nhận thức thành
nhận thức mờ tối và nhận thức chân lý. Nhận thức mờ tối là nhận thức do
các giác quan đem lại. Nhận thức chân lý là nhận thức do sự phân tích sâu
sắc sự vật để nắm chắc bẳn chất bên trong của nó. Ông quan niệm rằng hai
dạng nhận thức đó có liên quan với nhau chặt chẽ. Trong đó cảm giác là bớc
đầu của nhận thức. Ông xây dựng nên thuyết hình ảnh(I-dô-lơ) mộc mạc.
Ông quan niệm bề ngoài của sự vật toát ra những hơi thở tinh tế tạo thành
hình ảnh của chúng, những hơi thở tinh tế đó tác động vào cơ quan cảm
giác của con ngời làm cho mọi ngời cảm nhận đợc sự vật. Song cảm giác là
nhận thức mờ tối vì nó cha là cho con ngời hiểu đợc bản chất tinh tế nằm
sâu trong sự vật. Do đó con ngời phải dựa vào nhận thức sâu sắc hơn.
Trang4
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Qua đây chúng ta có thể thấy theo Đê mo-crít lý tính, phải dựa vào
những dẫn chứng do cảm tính đem lại và sau đó cần phải đi sâu vào phân
tích tìm chân lý đang còn nằm sâu dới đáy bể. Điều này có thể thấy rằng
ông không hề phủ nhận khả năng nhận thức chân lý khách quan của cin ng-
ời. Còn Platon cho rằng chỉ có nhận thức lý tính đa vào khái niệm mới có
thể đạt tới tri thứcchân thực, nhân thức cảm tính không bao giờ đạt tới tri
thức chân thực mà chỉ đa lại d luận. Thực chất của vấn đề này là Platon đã
đề cao vai trò của nhận thức lý tính và hạ thấp vai trò của nhận thức cảm
tính. Ông cho rằng nhận thức chẳng qua là sự hồi tởng, nhớ lại những ý
niệm.
- Về quan điểm chính trị- xã hội :
Đe mo-crít đứng trong lập trờng của phái chủ nô dan chủ, kịch liệt

chống lại phái chủ nô quý tộc (2). Ông ra sức bảo vệ và tuyên truyền cho
chế độ dân chủ của chủ nô trong đó thể hiện quyền lợi của mình gắn liền
với sự phát triển ngày càng một mạnh mẽ của thơng mại và công nghiệp.
Ông đề cao, ca ngợi cổ vữ cho tình thân ái, tính ôn hoà lợi ích chung và
quyền lợi chung của công dân tự do. Theo ông cần phải a thích cái nghèo
trong một Nhà nớc dân chủ hơn so với cái gọi là cuộc sống hạnh phúc trong
chế độ chuyên chế tựa nh là tự do tốt hơn nô lệ (3). Đơng nhiên là do xuất
thân từ tầng lớp chủ nô dân chủ Đe mo-rít chỉ đề cập đến nền dân chủ của
chủ nô, còn bản thân nô lệ thì cũng nh các nhà t tởng khác, ông cho rằng
phải biết tuân theo ngời chủ nô.
Ông đề cao Nhà nớc, chính Nhà nớc đóng vai trò duy trì trật tự và
điều hành xã hội. Theo Đe mo-crít cần phải trừng trị nghiêm khắc những kẻ
vi phạm pháp luật hay chuẩn mực đạo đức nào đó. Phơng châm t tởng của
Đe mo-crít là thà sống nghèo khổ còn hơn là giàu có nhng mất tự do dân
chủ. Mục tiêu của con ngời là sống hạnh phúc nhng hạnh phúc không đơn
thuần chỉ là giàu có. Ông khẳng định hạnh phúc là sự thanh thản trong tâm
hồn và đợc tự do. Chỉ có ngời biết bằng lòng với sự hởng lạc vừa phải thì
mới đợc hạnh phúc.
Còn Platon: ông đề cao vai trò của chế độ quý tộc đứng trên lập trờng
của phái chủ nô quý tộc chống lại chế độ dân chỉ tiến bộ của xã hội. Ông
cho rằng linh hồn gồm các bộ phận lý tính, ý chí và cảm tính trong xã hội
có các hạng ngời tơng ứng với các bộ phận của linh hồn. Lý tính là cơ sở
của các đức tính cao cả chỉ có đợc ở những nhà triết học, các nhà thông
thái ; ý chí là cơ sở của đức tính can đảm. Nó thể hiện ở trong những ngời
lính, những chiến binh. Cảm tính là cơ sở của các đức tính thận trọng. Đức
tính này thờng có ở những ngời dân tự do, những ngời thợ thủ công. Platon
đặc biệt miệt thị nô lệ. Theo ông nô lệ không phải là ngời mà chỉ là động
vật biết nói, không có đạo đức.
Platon chủ trơng duy tri các hạng ngời trong xã hội, cũng có nghĩa là
duy trì sự bất bình đẳng giữa mọi ngời. Nhà nớc ra đời là để đáp ứng những

Trang5
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
nhu cầu đó. Theo Platon hình thức cộng hoà là Nhà nớc lý tởng. Trong đó
quyền thống trị tuyệt đối về tầng lớp chủ nô quý tộc. Nhà nớc, đó là hiện
thân của cả ba đức tính đó là thông thái, can đảm và thận trọng. Trong Nhà
nớc lý tởng, ông chia xã hội ra thành 3 đẳng cấp dựa vào đặc trng đạo đức.
Đẳng cấp thứ nhất là các nhà triết học, các nhà thông thái, giữ vai trò lãnh
đạo xã hội ; đẳng cấp thứ hai là quân nhân có trách nhiệm bảo vệ Nhà nớc
lý tởng; đẳng cấp thứ ba là dân lao động tự do, thợ thủ công và những ngời
tự do khác làm ra sản phẩm nuôi sống Nhà nớc.
Nh vậy, chúng ta thấy ngay từ khi ra đời triết học Hy Lạp cổ đại đã
xảy ra cuộc đấu tranh mạnh mẽ giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy
Tâm mà đại biểu tiêu biểu nhất là Đe mo-crít của phái và Platon của phái
duy tâm. Bên cạnh đó còn có nhiều nhà triết học khác của phái duy vật nh
Anatago. Am pê đốc lơ hay Ê pi crát .v.v...
Có thể thấy rằng ngay từ thời cổ đại nhận thức của con ngời tuy còn
nhiều hạn chế song giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm đã
hình thành nên cuộc đấu tranh gay gắt không thể điều hoà đợc về mọi mặt
trong xã hội .
Chơng II. triết học tây âu thời trung cổ.
******
2.1 Hoàn cảnh lịch sử :
Trang6
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
Thời kỳ trung cổ là thời kỳ tan rã của chế độ chiếm hữu nô lệ và đánh
dấu sự ra đời của chế độ phong kiến. Những cuộc nổi dậy của giai cấp nô lệ
mà đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Xpắc Ta quýt rất lớn đã thu hút rất nhiều
ngời tham gia đã thay đổi hình thức bóc lột siêu kinh tế sang phát canh thu
địa tô.
Trong xã hội đã diễn ra sự phân hoá giai cấp rất sâu sắc, đã hình

thành hai giai cấp cơ bản củ phơng thức sản xuất phong kiến đó là các địa
chủ phong kiến và giai cấp nông nô. Nhng giai cấp nông nô lại bị cột chặt
vào ruộng đất của giai cấp phong kiến bởi những chính sách thuế khoá nặng
nề. Nông nô không chỉ lệ thuộc vào thân thế và họ không có quyền lợi gì.
Lê nin đã từng nói đây là sự lệ thuộc nhục nhã về mặt có nhân và tối tăm về
mặt trí tuệ.
- Về kinh tế xã hội :
Thời kỳ này ở Tây Âu là thời kỳ tồn tại của nền kinh tế tự cung, tự
cấp. Mọi sản phẩm làm ra chỉ nhằm thoả mãn nhu cầu của các điền trang,
thái ấp mà không nhằm mục đích trao đổi. Mỗi điền trang thái ấp là một
khu biệt lập khép kín. Nền kinh tế thời kỳ này phát triển một cách ì ạch và
chậm chạp.
- Về tinh thần, đây là thời kỳ thống trị của thế giới quan nhà thờ và
tôn giáo. Nhà thờ và tu viện là những tên đại địa chủ chiếm nhiều ruộng
đất, có những tu viện chiếm hàng trăm ngàn hécta ruộng đất. Không những
thế nhà thờ còn nắm trong tay quyền lực chính trị và luật pháp. Cho nên thời
kỳ này cả khoa học và triết học không phát triển đợc. Các nhà khoa học và
thần học không thoát ra khỏi sự giải thích và bình luận của kinh thánh, nên
xét về mặt phát triển thì đây là một bớc thụt lùi so với trớc thời cổ đại.
2.2 Sự thống trị của thần quyền phong kiến không những kìm hãm sự
phát triển của khoa học kỹ thuật mà còn ảnh h ởng đến triết học. Triết
học bị phụ thuộc vào thần học. Chủ Nghĩa Duy Vật gắn liền với t duy
khoa học thời kỳ này không có điều kiện để phát triển.
Chủ nghĩa kinh viện ra đời đã trở thành nét đặc trng của triết học Tây
Âu thời trung cổ. Chủ nghĩa kinh viện là triết học chính thức chiếm độc
quyền giảng dạy trong nhà trờng. Triết học này khi ra đời là đã xác định
nhiệm vụ: Đầy tớ của thần học và bảo vệ trật tự phong kiến. Vấn đề này
đợc các nhà kinh viện quan tâm nhất đó là mối quan hệ giữa cái chung và
cái riêng, cái nào có trớc cái nào có sau. Cuộc đấu tranh giữa các quan
điểm khác nhau kéo dài vào thế kỷ và phân chia thành hai phái phái duy

danh và phái cuy thực. Đây là cuộc đấu tranh xuyên suốt toàn bộ lịch sử
triết học Tây Âu thời trung cổ.
Phái duy thực cho rằng cái chung cái phổ biến các khái niệm chung
là tồn tại thực là cái có trớc. Nó là một thực thể tinh thần không phụ thuộc
vào sự vật cụ thể. Phái duy thực lấy triết học Platon làm cơ sở lý luận và
phái này về sau họ còn dựa vào học thuyết hình thức của Đrít xtốt. Chẳng
Trang7
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
hạn con ngời nói chung là sự tồn tại ý niệm về con ngời. Từ đó, nó quyết
định sự tồn tại của con ngời đơn nhất.
Phái duy danh quan niệm rằng cái chung, khái niệm cái chung cái
phổ biến không tồn tại thực, không độc lập với con ngời. Nó chỉ là những
tên gọi đơn giản mà con ngới sáng tạo ra. Không có con ngời hay cái
nhà nói chung mà chỉ có con ngời hay cái nhà tồn tại thực.
Cuộc đấu tranh giữa hai trờng phái trên là sự thể hiện hai khuynh h-
ớng đối lập nhau trong lịch sử triết học : Chủ Nghĩa Duy Tâm và Chủ Nghĩa
Duy Vật. ẩn dấu đằng sau cái vỏ thần học là sự tồn tại khách quan mà con
ngời có thể cảm nhận đợc, là biểu hiện của phái duy danh. Trái lại, nhận
thức, t tởng, khái niệm có trớc sự vật là biểu hiện của phái duy thực. Nh vậy
chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy các nhà triết học duy danh gần gũi với
Chủ Nghĩa Duy Vật còn các nhà triết học duy thực là biểu hiện của Chủ
Nghĩa Duy Tâm. Nh vậy cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy thực với chủ
nghĩa duy danh ở triết học Tây Âu thời trung cổ thực chất là cuộc đấu tranh
giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm. Mặc dù vậy trong thời kỳ
này Chủ Nghĩa Duy Tâm thắng thế nhờ sự ủng hộ của thiên chúa giáo và
kinh viện .
Trong thời kỳ trung cổ triết học Tây Âu có rất nhiều những đại biểu,
đại diện cho cả hai phái duy danh và duy thực. Và sau đây là quan điểm của
một số đại biểu tiêu biểu nhất của cả hai phái.
- Tô Mát Đa Canh: Ông là đại biểu xuất sắc nhất của phái duy thực

trong thời kỳ triết học trung cổ Tây Âu. Học thuyết của ông đợc thiên chúa
giáo coi là triết học chính thức của giáo hội thiên chúa.
Tô Mát Đa Canh nghiên cứu nhiều lĩnh vực thần học, triết học, pháp
quyền... với 18 quyển sách trong tuyển tập của ông hợp thành bộ bách khoa
toàn th về hệ thông t tởng thông trị thời trung cổ hng thịnh. Tô Mát Đa
Canh nghiên cứu mối quan hệ giữa triết học và thần học, giữa lý trí và niềm
tin. Ông khẳng định rõ ràng nhng lại không đối lập nhau thần học và triết
học. Ranh giới đó thể hiện ở chỗ nếu nh đối tợng nghiên cứu của triết học là
chân lý của lý trí thì đối tợng nghiên cứu của thần học là chân lý của niềm
tin. Nhng theo ông cả hai đều có một đối tợng chung đó là thợng đế. Chúng
không hề đối lập với nhau nhng cuối cùng Tô Mát Đa Canh lại hạ thấp triết
học và ông nâng cao vai trò và vị trí của thần học. Ông quan niệm rằng triết
học chỉ là tôi tớ phục vụ cho thần học mà thôi. Ông nói rằng không phải
mọi chân lý của niềm tin tôn giáo đều có thể đạt đợc bằng sự chứng minh
hợp lý. Chân lý tôn giáo không phải là điểm yếu mà triết học dễ thâm nhập
vào đợc bởi vì trí tuệ của con ngời là có hạn và thấp hơn sự anh minh của
thợng đế.
- Quan điểm duy tâm thần bí còn đợc thể hiện trong nghiên cứ giới tự
nhiên. Ông còn cho rằng toàn bộ giới tự nhiên cùng trật tự của nó đều đợc
quyết định bởi sự thông minh của thợng đế đều trải qua sự hợp lý hoá của
Trang8
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
thợng đế bởi thợng đế là mục đích tối cao và là quy luật vĩnh viễn đứng trên
mọi cái và quyết định mọi cái.
- Khi giải quyết vấn đề bản chất của cái chung thì Tô Mát Đa Canh
theo chủ nghĩa duy thực ôn hoà (có sự dung hoà với chủ nghĩa duy danh).
Theo ông cái chung tồn tại trên ba mặt:
+ Tồn tại trớc sự vật trong trí tuệ của thợng đế.
+ Tồn tại khách quan trong các sự vật riêng lẻ.
+ Tồn tại trong trí tuệ con ngời bằng con đờng trừu tợng hoá khỏi các

sự vật riêng lẻ.
- Dựa trên quan điểm duy tâm thần bí ông đã chứng minh sự tồn tại
của thợng đế dựa trên năm yếu tố sau đây:
Thứ nhất thế giới không vận động vĩnh cửu mà cần phải có lực
tác động ban đầu.
Thứ hai là mọi nguyên nhân không phải là vô tận mà cần phải
có nguyên nhân đầu tiên.
Thứ ba mọi sự vật của thế giới là ngẫu nhiên vì vậy cần tồn tại
cái tất nhiên tuyệt đối.
Thứ t mọi sự bộc lộ các các giai đoạn hoàn thiện khác nhau
cần phải có một thực thể hoàn toàn tuyệt đối.
Thứ năm tính hợp lý của thế giới tự nhiên không thể giải thích
bằng các nguyên nhân tự nhiên mà cần phải có tồn tại một thực thể lý trí
siêu tự nhiên để điều chỉnh thế giới.
Vì vậy Tô Mát Đa Canh cho rằng thợng đế chính là động lực ban
đầu, là nguyên nhân ban đầu, là cái tất nhiên tuyệt đối, là sự hoàn thiện
tuyệt đối và nguyên nhân hợp lý của thế giới tự nhiên.
Về lý luận nhận thức: ông chịu ảnh hởng của học thuyết hình dạng
của Arit xtốt. Theo Tô Mát Đa Canh mọi nhận thức đều diễn ra chủ thể tiếp
thu khách thể nhng không phải mọi sự nhận thức của khách thể đều đợc tiếp
nhận mà chỉ tiếp nhận những hình ảnh của khách thể tức là hình dạng của
nó mà thôi bởi bản thân khách thể khi gia nhập vào tinh thần của cái nhận
thức (chủ thể) thì cái đợc nhận thức bị mất đi tính vật chất của mình và chỉ
tồn tại với t cách là hình dạng tức là hình ảnh của nhận thức.
Ông chia hình dạng thành hình dạng cảm tính và hình dạng lý tính.
Hình dạng lý tính cao hơn cảm tính, cho nên nhờ đó mà nhận thức đợc cái
chung, cái giống với đối tợng, cái mà trong đó chứa đựng nhiều thực thể
riêng biệt.
Sự tiếp nhận của Tô Mát Đa Canh về học thuyết hình dạng của Arit
xtốt chỉ là sự khôi phục về hình thức, cha tiếp nhận đợc bản chất sống động

và tính chân lý trong học thuyết đó.(2)
- Về sự tiếp nhận xã hội Tô Mát Đa Canh ca ngợi chế độ bất bình
đẳng và trật tự đẳng cấp trong xã hội. Ông cho rằng cuộc sống trần thế chỉ
là tạm thời, là sự chuẩn bị cho cuộc sống tơng lai vĩnh viễn ở thế giới bên
Trang9
Website: Email : Tel (: 0918.775.368
kia. Ông là ngời theo chủ nghĩa quân chủ cho nên ông cho rằng quốc vơng
không chỉ là ngời điều khiển mà còn là ngời sáng tạo ra thế giới. Nhng quốc
vơng cũng là ngời của đức chúa Giê-su, thực hiện mọi yêu cầu của nhà thờ
và trừng phạt một cách dã man những ngời tà đạo bởi vì nhà thờ là tối cao.
Đối lập với quan điểm duy thực của Tô Mát Đa Canh là quan điểm duy
danh luận của Đơn xcốt, đại biểu xuất sắc của phái duy danh thời kỳ trung
cổ.
Đơn xcốt sinh ra ở nớc Anh. Ông là một nhà duy danh luận rất nổi
tiếng, ông sống ở thế kỷ XIII
Khi giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa thần học và triết học ông cho
rằng đối tợng của thần học là thợng đế còn đối tợng của triết học là tồn tại
khách quan. Ông đề cao vai trò lòng tin tôn giáo hơn so với lý trí bởi vì lý
trí chỉ nhận thức đợc tồn tại còn thợng đế là tối cao vô tận, phi vật chất, là
lòng tin không thể nhận thức đợc.
Xuất phát từ thế giới quan của những nhà duy danh luận, ông cho
rằng cái chung không chỉ là sản phẩm của t duy mà còn là cơ sở trong bản
thân sự vật. Cái chung tồn tại trong sự vật với tính cách là bản chất vừa tồn
tại sau sự vật bởi tính cách là khái niệm trừu tợng hoá trong t duy tách khỏi
bản chất của sự vật.
Về lý luận nhận thức Đơn xcốt nhấn mạnh yếu tố tinh thần và cho
rằng, nó là hình thức của thân thể con ngời, gắn bó thân thể con ngời mới
sinh ra. Yếu tố tinh thần tuy có sức mạnh to lớn nhng phụ thuộc vào đối t-
ợng nhận thức. Xuất phát từ yếu tố tinh thần và đối tợng nhận thức mà tri
thức con ngời hình thành. Ông cũng dề cập đến vai trò của lý trí và ý chí. ý

chí cao hơn lý trí và thống trị mọi dạng hoạt động của con ngời. ở thợng đế
ý chí trở thành tự do.
Khi giải quyết vấn đề cái chung thì Đơn xcốt cho rằng cái chung
không phải là sản phẩm của lý trí mà nó nằm ngay trong chính bản thân các
sự vật. Nó vừa tồn tại trong các sự vật nh là bản chất của chúng lại vừa tồn
tại sau các sự vật. Với t cách là những khái niệm đợc lý trí con ngời trừu t-
ợng hoá, khái quát hoá khỏi các sự vật riêng lẻ.
Nh vậy trong học thuyết của mình Đơn xcốt đứng về phía thần học và
cho rằng triết học không xuất phát từ ý chí của thợng đế nên triết học không
thể chứng minh đợc bản chất của thợng đế, sự sáng tạo ra thế giới. Mặc dù
vẫy những cống hiến của Đơn xcốt đã đa ông lên vị trí là nhà duy danh luận
nổi tiếng nhất thời trung cổ.
Tuy vậy cuộc đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy
Tâm (dới danh nghĩa là phái duy danh và duy thực) vẫn diễn ra khá mạnh
mẽ. Trong thời kỳ này mà đại diện của phái duy thực hay Chủ Nghĩa Duy
Tâm là Ô quýt xtanh, Giăng xi cốt Ơ ri gien nơ, Téc tu Liêng... những đại
diện của phái duy danh hay Chủ Nghĩa Duy Vật là Pie Abơ la, Rô giê Bê
cơn, ốc cam...
Trang10

×