Tải bản đầy đủ (.doc) (146 trang)

Tài liệu Bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Tuyên Giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (599.05 KB, 146 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ KHU VỰC I
------------------------------------------

TÀI LIỆU
BỒI DƯỠNG KIẾN THỨC VÀ NGHIỆP VỤ
CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO

Hà Nội, tháng 6/2016


MỤC LỤC
Chuyên đề 1:.......................................................................................................1
ĐỔI MỚI, NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO.........................1
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.....................................................................1
PGS, TS Phạm Văn Linh.................................................................................1
Chuyên đề 2:.....................................................................................................16
QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG MỚI CỦA ĐẠI HỘI.......................................16
ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XII CỦA ĐẢNG......................................16
TS Phạm Anh.................................................................................................16
Chuyên đề 3:.....................................................................................................57
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG BÁO CÁO VIÊN...................57
VÀ NGHIỆP VỤ TUYÊN TRUYỀNNGHỊ QUYẾT CỦA ĐẢNG ....................57
PGS, TS Ngô Văn Thạo................................................................................57
Chuyên đề 4:.....................................................................................................80
NGHIỆP VỤ CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN MIỆNG -....................................80
NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN ĐỔI MỚI TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY...........80
PGS, TS Ngô Văn Thạo................................................................................80
Chuyên đề 5:...................................................................................................105
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC CHỈ ĐẠO VÀ TỔ CHỨC THỰC HIỆN........................105
SƯU TẦM, BIÊN SOẠN, THẨM ĐỊNH VÀ GIẢNG DẠY LỊCH SỬ..............105


ĐẢNG BỘ ĐỊA PHƯƠNG/BAN/NGÀNH......................................................105
PGS, TS Nguyễn Ngọc Hà.........................................................................105
Chuyên đề 6:...................................................................................................122
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA CHỦ NGHĨA TƯ BẢN VÀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI MỘT CÁCH TIẾP CẬN TỪ LỊCH SỬ..............................................................122
TS Nguyễn Thị Thanh Huyền....................................................................122
Chuyên đề 7:...................................................................................................140
NHẬN DIỆN NHỮNG VẤN ĐỀ MỚI TRONG CHÍNH SÁCH.....................140
NGOẠI GIAO CỦA TRUNG QUỐC GIAI ĐOẠN HIỆN NAY....................140
PGS, TS Phùng Thị Huệ..............................................................................140


Chuyên đề 1:
ĐỔI MỚI, NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
PGS, TS Phạm Văn Linh
Phó trưởng ban Tuyên giáo Trung ương

I. MỘT SỐ THÀNH TỰU, HẠN CHẾ CHÍNH CỦA CÔNG TÁC
TUYÊN GIÁO NHỮNG NĂM VỪA QUA
1. Trong những năm đổi mới, công tác tuyên giáo của Đảng luôn được
coi trọng và tăng cường, góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về tư tưởng,
chính trị, trong sáng về đạo đức, lối sống. Điều đó được thể hiện qua việc Ban
Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị và Ban Bí thư các khóa đã có những
nghị quyết và chỉ thị kịp thời về lĩnh vực này. Ban Tuyên giáo Trung ương có
nhiều văn bản cụ thể hóa và hướng dẫn thi hành các chỉ thị, nghị quyết Trung
ương. Có thể thấy được những thành tựu nổi bật của công tác này là:
Thứ nhất, công tác tư tưởng, lý luận đã đưa ra đường lối đổi mới toàn
diện đất nước - từ đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức cán bộ; từ đổi mới
phương thức lãnh đạo đến phong cách hoạt động; từ đổi mới kinh tế đến đổi
mới hệ thống chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, làm cơ sở lý

luận và thực tiễn để Đảng, Nhà nước đề ra nhiều chủ trương, chính sách
trong thời kì đổi mới.
Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, công tác tuyên giáo đã tập trung
tuyên truyền, giáo dục cán bộ, nhân dân về chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước về phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, về hội nhập
quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại lên tầm cao mới… Những “thành tựu to
lớn và có ý nghĩa lịch sử” của 30 năm đổi mới đã khẳng định: đó là công lao
của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, trong đó công tác tuyên giáo đã góp
phần quan trọng, như là một trong những chiến sĩ tiên phong của mặt trận tư
tưởng, lý luận của Đảng.

1


Thứ hai, cung cấp những luận cứ khoa học, góp phần hình thành hệ
thống các luận điểm mới trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước.
- Trong sự nghiệp đổi mới, công tác tuyên giáo của Đảng đã cung cấp
nhiều luận cứ khoa học cho việc xây dựng, bổ sung và phát triển đường lối
đổi mới của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp phần tăng cường
sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội.
- Khoa học xã hội, nghiên cứu lý luận đã cung cấp những luận cứ khoa
học để góp phần khẳng định, vận dụng, bổ sung và phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay.
Những luận cứ khoa học đó đã góp phần quan trọng vào việc lý giải
ngày càng sáng tỏ hơn các vấn đề về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Thứ ba, chú trọng đến công tác giáo dục lý luận chính trị, tuyên truyền
chính sách của Đảng và Nhà nước.
- Việc giáo dục, tuyên truyền chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí

Minh, giáo dục lý luận chính trị trong Đảng được coi trọng và đẩy mạnh. Hệ
thống trường chính trị được tổ chức lại, đổi mới cả chương trình, nội dung và
phương thức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý của Đảng, Nhà nước
và các đoàn thể nhân dân…
- Tuyên truyền đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong mọi
giai đoạn cách mạng, đặc biệt là đường lối đổi mới là nhiệm vụ đặc biệt quan
trọng của ngành tuyên giáo. Trong quá trình tuyên truyền, ngành tuyên giáo
luôn kiên định những vấn đề quan điểm, có tính nguyên tắc, góp phần nâng
cao một bước sự thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội, củng
cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
(CNXH) ở Việt Nam.
- Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, cổ vũ nhân tố mới, điển hình
tiên tiến trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, có tác dụng giáo dục,

2


thuyết phục cao đối với quần chúng nhân dân, đặc biệt trong điều kiện hiện
nay, khi Việt Nam đẩy mạnh công nghiệp hóa, hội nhập quốc tế.
Thứ tư, chú trọng nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài cho đất nước.
Trung ương đã có nhiều nghị quyết về “Phát triển giáo dục nhằm nâng
cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài…”. Ban Tuyên giáo Trung
ương đã tham mưu xây dựng nghị quyết và tích cực phối hợp với các cơ quan
chức năng của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là Bộ Giáo dục và Đào tạo để đưa
quan điểm chỉ đạo đó vào cuộc sống. Các cơ quan Nhà nước, các ban, bộ,
ngành tích cực thể chế hóa các chủ trương, nghị quyết của Đảng trên lĩnh vực
này và tổ chức thực hiện có hiệu quả.
Thứ năm, tham mưu xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.

Ngành Tuyên giáo đã tham mưu cho Đảng hệ thống các quan điểm,
nhiệm vụ, giải pháp để xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI và hiện nay
là Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam là quá trình 30 năm đổi mới tư
duy lý luận của Đảng về vai trò, vị trí của văn hóa.
Mốc đánh dấu sự đổi mới toàn diện trong tư duy về văn hóa của Đảng
được khẳng định trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung
ương khóa VIII: “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến,
đậm đà bản sắc dân tộc”. Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận thức sâu sắc về các
giá trị văn hóa của dân tộc với sự tiến bộ của thời đại; giữa đời sống tinh thần và
yêu cầu sử lý các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, đã chỉ ra mục tiêu, giải pháp cho sự
nghiệp phát triển văn hóa trong giai đoại trước mắt cũng như lâu dài của nước ta.
Thứ sáu, góp phần phát triển lý luận về con người, xác định con người
vừa là mục tiêu, vừa là động lực trong quá trình phát triển.
Chăm lo cho con người, chú trọng “trồng người”, “lấy dân làm gốc”,
phát triển con người một cách toàn diện… là những tư tưởng từ lâu đã trở

3


thành truyền thống của Việt Nam. Đó cũng là những nội dung tư tưởng quan
trọng của Hồ Chí Minh được kế thừa và nâng lên một tầm cao mới. Từ Đại
hội VI của Đảng đến nay, tư tưởng này từng bước đã được quán triệt trong
các chủ trương, chính sách kinh tế - xã hội và trở thành quan điểm chỉ đạo:
con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Tại Đại hội IX,
Đảng ta khẳng định: “Phát huy nguồn lực trí tuệ và sức mạnh tinh thần của
người Việt Nam; coi phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ là
nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” 1. Đến Đại
hội XII của Đảng, trong các văn kiện đều khẳng định coi con người là trung
tâm, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển. Đó là một tư tưởng có

tầm chiến lược quan trọng. Con người Việt Nam trong thế kỷ XXI, trước hết
phải là những con người được đào tạo có trí tuệ, có tay nghề vững vàng; là
người lao động có chất lượng cao, có giác ngộ cách mạng sâu sắc, có đạo đức
trong sáng; nói theo thuật ngữ quen thuộc thì đó là những người “vừa hồng,
vừa chuyên”.
Đảng và Nhà nước ta thường xuyên chăm lo đến phát triển giáo dục,
chăm sóc sức khỏe và nâng cao đời sống vật chất cho nhân dân, đặc biệt là
trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới. Sự phát triển con người Việt
Nam trong những năm qua là thể hiện những đóng góp có ý nghĩa của ngành
tuyên giáo trong việc tham mưu cho Đảng, phối hợp, đôn đốc các cơ quan nhà
nước thể chế hóa và thực thi trong đời sống các quan điểm của Đảng, tích cực
tuyên truyền đến các thành viên trong toàn xã hội, có trách nhiệm chăm lo đời
sống vật chất và tinh thần cho người dân, khích lệ mọi người tiếp tục phấn
đấu vì mục tiêu phát triển của con người, để con người thực sự trở thành động
lực và mục tiêu trong quá trình phát triển.
Thứ bảy, phản bác kịp thời những luận điệu xuyên tạc, phủ định chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới của Đảng.
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 2003, tr.91.

4


Công tác tuyên giáo trực tiếp chỉ đạo, định hướng tư tưởng chính trị các
cơ quan ngôn luận của các hội văn học nghệ thuật, các tổ chức nghiên cứu
khoa học, cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa, có những hoạt động thiết
thực, cụ thể tham gia vào cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù
địch, góp phần thống nhất về tư tưởng và sự đồng thuận của xã hội về đường

lối văn hóa, văn nghệ của Đảng.
Chúng ta đã tổ chức nghiên cứu nhiều đề tài khoa học, tổ chức hội thảo;
viết bài phản bác phê phán trên các phương tiện thông tin đại chúng; tổ chức
các cuộc thi tìm hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trên đài
truyền hình Việt Nam; tổ chức các đợt tuyên truyền miệng; tham mưu cho
Đảng phát động và tổ chức triển khai cuộc vận động “Học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” và hiện nay, Đại hội XI của Đảng tiếp tục
đưa việc học tập tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh đi vào chiều sâu,
trở thành hoạt động thường xuyên tiệp tục góp phần giữ vững ổn định xã hội,
làm thất bại mọi âm mưu của các thế lực phản động.
2. Những hạn chế, yếu kém
Thứ nhất, lãnh đạo, quản lý trên một số lĩnh vực công tác tuyên giáo
còn chưa kịp thời, nhạy bén, chưa chú trọng đúng mực nghiên cứu, đề xuất
những vấn đề có tính chiến lược, một số lĩnh vực còn nhiều hạn chế, thiếu sót.
Thứ hai, công tác tư tưởng còn thiếu sắc bén, sức thuyết phục chưa cao,
tính chiến đấu còn hạn chế, chưa sát với thực tiễn. Chưa triển khai tốt công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng và đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng cơ
hội, những quan điểm mơ hồ, sai trái. Chưa quan tâm đúng mực việc giáo dục
lý tưởng, văn hóa chưa sâu rộng. Công tác đấu tranh phản bác các quan điểm
sai trái, thù địch có lúc còn bị động, hiệu quả thấp. Chưa huy động đầy đủ được
sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị làm công tác tư tưởng, văn hóa.
Thứ ba, công tác nghiên cứu lý luận còn trong tình trạng lạc hậu trên
một số mặt, chưa đáp ứng được những đòi hỏi của thực tiễn đang vận động
nhanh chóng, phong phú và phức tạp. Nhiều vấn đề lớn, bức xúc đặt ra từ

5


thực tiễn trong nước và quốc tế chưa tìm ra hướng giải quyết hoặc giải đáp
chưa có tính thuyết phục. Kết quả các công trình nghiên cứu khoa học lý luận

chính trị, khoa học xã hội và nhân văn có chất lượng chưa cao, ít có kết quả
áp dụng, vận dụng.
Thứ tư, công tác tổ chức và cán bộ còn nhiều bất hợp lý. Chưa có chế
độ, chính sách phù hợp để thu hút được cán bộ giỏi, cán bộ có năng lực về
làm công tác tuyên giáo.
Nguyên nhân của những hạn chế:
- Công tác nghiên cứu lý luận chưa được đặt đúng và ngang tầm với vị
trí, ý nghĩa của nó trong việc hoạch định các chủ trương, chính sách. Nhiều
chủ trương, chính sách hoặc là chưa coi trọng, chưa thực sự xuất phát từ
những luận cứ, cơ sở khoa học mà các công trình,đề tài nghiên cứu, tổng kết
lý luận và thực tiễn mang lại, dẫn đến tính khả thi không cao.
- Nội dung, hình thức và phương thức hoạt động trên lĩnh vực tuyên
giáo còn chậm đổi mới.
- Nhiều vấn đề mới đặt ra trong lĩnh vực tuyên giáo còn chậm được
tổng kết.
II. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO
HIỆU QUẢ CÔNG TÁC TUYÊN GIÁO THEO TINH THẦN CỦA ĐẠI
HỘI XII CỦA ĐẢNG
Theo tinh thần Đại hội XII của Đảng, công tác tuyên giáo tiếp tục làm
tốt việc tham mưu cho Đảng về các vấn đề chính trị, tư tưởng, văn hóa, khoa
giáo nhằm góp phần tích cực vào tuyên truyền, bảo vệ, phát triển sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; xây dựng đất nước ta cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; tham gia tích cực, có hiệu quả
vào cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ
chức; giữ vững và mở rộng trận địa tư tưởng của Đảng, nâng cao chất lượng,
hiệu quả công tác tuyên giáo.

6



1. Phương hướng
- Định hướng nghiên cứu khoa học lý luận, nghiên cứu khoa học gắn chặt
với tổng kết thực tiễn trong nước và thế giới; khẳng định tính đúng đắn, vận
dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để
phát triển đường lối đổi mới của Đảng; giải pháp có sức thuyết phục những vấn
đề lý luận và thực tiễn do công cuộc đổi mới đặt ra; từ đó từng bước làm sáng tỏ
lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
- Tập trung chỉ đạo việc đổi mới nội dung và phương thức hoạt động trên
lĩnh vực tuyên giáo để truyền bá một cách rộng rãi, sâu sắc chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện Đại hội XII của Đảng nhằm xây
dựng thế giới quan và phương pháp luận khoa học cho cán bộ, đảng viên và
đông đảo quần chúng nhân dân, tạo sự nhất trí cao trong Đảng, đồng thuận trong
xã hội về cương lĩnh, đường lối, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước.
- Tăng cường tuyên truyền, động viên toàn Đảng, toàn quân và toàn
dân quyết tâm tự giác, tích cực, sáng tạo thực hiện thắng lợi chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, để nhân dân có
niềm tin tất thắng vào sự nghiệp đổi mới của Đảng và chủ nghĩa xã hội; nâng
cao hiệu quả và đưa vào chiều sâu việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo
đức Hồ Chí Minh”; tuyên truyền kiến thức về quốc phòng, an ninh, bảo vệ
vững chắc tổ quốc. Nâng cao cảnh giác cách mạng, tiến hành kiên quyết, phối
hợp đồng bộ, đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn của chiến lược “Diễn biến hòa
bình” trên các lĩnh vực chính tri, tư tưởng, văn hóa, kinh tế, xã hội…; ngăn
chặn đẩy lùi những biểu hiện tự diễn biến, tự chuyển hóa, phản bác kịp thời
những luận điệu xuyên tạc, phủ định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, đường lối đổi mới của Đảng của bọn phản động và các thế lực thù địch;
đổi mới công tác tuyên truyền nhằm tăng tính thuyết phục, hiệu quả, nâng cao
tính chủ động và tính chiến đấu, tạo sự gắn bó với nhân dân và thực tiễn đất
nước; đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước; phát hiện, nhân rộng điển hình,
nhân tố mới; đẩy mạnh cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí.


7


- Chú trọng đúng mức việc tuyên truyền các quan điểm, đường lối kinh
tế của Đảng được nêu trong các văn kiện Đại hội XII.
- Lãnh đạo việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến
đậm đà bản sắc dân tộc; bồi dưỡng các thế hệ con người Việt Nam, phát triển
toàn diện; nghiên cứu và truyền bá rộng rãi những giá trị mới của con người
Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn
với việc bảo vệ, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc; đồng thời tích
cực triển khai cuộc đấu tranh chống sự lai căng, vọng ngoại, lệ thuộc nước
ngoài; đặc biệt chú trọng công tác giáo dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ về bản lĩnh
chính trị, văn hóa của con người Việt Nam.
Chỉ đạo đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục theo quan điểm của
Đảng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, đổi mới cơ chế quản lý giáo
dục, giao quyền tự chủ cao cho các cơ sở giáo dục; động viên đội ngũ trí thức,
văn nghệ sĩ, báo chí không ngừng phát triển, sáng tạo khoa học công nghệ,
giáo dục, văn hóa, văn nghệ, báo chí, xuất bản, đưa công nghệ tiên tiến vào
sản xuất hàng hóa để nâng cao tính cạnh tranh ở trong và ngoài nước, thúc
đẩy nền kinh tế phát triển mạnh, bền vững; đào tạo, bồi dưỡng được một đội
ngũ chí thức không chỉ đông đảo về số lượng, đồng bộ về cơ cấu mà còn đảm
bảo về chất lượng - cả về trí tuệ và phẩm chất - đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Bảo đảm an sinh xã hội; nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe nhân
dân và công tác dân số, kế hoạch hóa gia đình; phát triển mạnh phong trào thể
dục thể thao.
- Xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ tuyên giáo trên tất cả các lĩnh
vực đáp ứng nhiệm vụ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế; đổi mới cơ chế chính sách đối với cán bộ chuyên trách
công tác tuyên giáo, kiện toàn và tăng cường cơ quan tham mưu về công tác

tuyên giáo các cấp, nhất là ở cấp trung ương và các tỉnh, thành phố.

8


2. Những giải pháp chủ yếu
2.1. Thực hiện tốt việc định hướng nghiên cứu lý luận và đẩy mạnh
hoạt động nghiên cứu khoa học, tổng kết thực tiễn
Công tác nghiên cứu lý luận có ý nghĩa và vai trò rất quan trọng. Trước
hết, nhu cầu nghiên cứu khoa học xuất phát từ nhiệm vụ của các ban Đảng
trong việc tham mưu cho Bộ Chính trị và Ban Bí thư về các chủ trương chính
sách của Đảng cả về phương tiện vĩ mô lẫn vi mô. Làm sáng tỏ những vấn đề
lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước
ta; những vấn đề Đảng cầm quyền, về kinh tế thị trường định hướng XHCN…
trong chặng đường mới.
Trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, việc nghiên cứu kinh
nghiệm của các nước và việc rút ra những bài học hay từ sự thành công cũng
như thất bại sẽ có thể giúp một quốc gia rút ngắn con đường xây dựng đất nước.
Vì vậy, cần đẩy mạnh nghiên cứu khoa học, lý luận và tổng kết thực
tiễn để nhận thức toàn diện, sâu sắc về cách mạng Việt Nam, giải đáp có sức
thuyết phục khoa học những vấn đề do thực tiễn Việt Nam và thế giới đương
đại đặt ra. Từ đó kiên trì xây dựng và từng bước triển khai triết lý phát triển
của Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh trên cơ sở vận dụng sáng tạo và
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, và tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần bổ
sung, phát triển cương lĩnh, đường lối đổi mới của Đảng.
Thực sự quan tâm đến công tác lý luận chính trị, theo tinh thần “không
có lý luận cách mạng thì không có cách mạng vận động”. Để vận dụng đúng
đắn các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin vào nước ta trước hết cần trung
thành với các nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời phải
xuất phát từ thực tiễn Việt Nam, tránh cả hai xu hướng cơ hội, xét lại hay giáo

điều, bắt chước. Cần nhận thức rõ tác hại của sự lạc hậu về lý luận, khi lý luận
không đủ sức giải đáp những yêu cầu của thực tiễn, đi sau thực tiễn để có sự
quan tâm đến công tác lý luận chính trị. Trong nghiên cứu lý luận cần phát huy
dân chủ, phát huy trí tuệ trong Đảng và xã hội, coi trọng tổng kết thực tiễn.

9


Việc đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lý luận chính trị trong giai đoạn 2016 2020 xuất phát từ nhiệm vụ chính trị và yêu cầu của cách mạng; kết hợp công
tác giáo dục lý luận chính trị với công tác giáo dục văn hóa, khoa học, kỹ thuật
nghiệp vụ. Kết hợp giáo dục có hệ thống những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin với quan điểm, đường lối của Đảng và những vấn đề thực
tiễn có tính thời sự chính trị đang diễn ra. Kết hợp việc nâng cao kiến thức lý
luận, chính trị, kinh tế với việc nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, phát
huy tác dụng của việc phê bình, quan tâm đến đội ngũ cán bộ làm công tác lý
luận chính trị, trước hết là phát huy năng lực tư duy sáng tạo, ý thức cống hiến
qua bảo đảm tự do tư tưởng, tôn trọng lắng nghe, khuyến khích, tạo điều kiện
cho việc nghiên cứu lý luận chính trị và giảng dạy lý luận chính trị.
Chỉ đạo việc tổ chức lại toàn bộ lực lượng nghiên cứu lý luận chính tri,
khoa học xã hội và nhân văn theo hướng tinh, gọn, chất lượng, có tính hệ
thống và mối liên hệ chặt chẽ giữa các cơ quan, đơn vị nghiên cứu. Xây dựng
và nâng cao chất lượng trong hoạt động nghiên cứu lý luận, tăng cường thảo
luận. Tranh luận khoa học, đảm bảo cho việc sáng tạo, phát huy trí tuệ của cá
nhân và tập thể khoa học.
2.2. Tích cực góp phần xây dựng Đảng
Công tác xây dựng Đảng tiến hành trên tất cả các lĩnh vực về chính trị,
tư tưởng, đạo đức và văn hóa, gắn chặt nhiệm vụ chỉnh đốn Đảng với việc đấu
tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, chống suy thoái về tư tưởng, chính
trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Công tác tuyên giáo tập trung cho nhiệm vụ nói trên cần chú trọng

đồng thời cả 4 nội dung: chính trị, tư tưởng, đạo đức và văn hóa trong hoạt
động xây dựng Đảng, trong đó, đặc biệt quan tâm cho việc tiếp tục “Học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”.
Để thực hiện nhiệm vụ này, cần triển khai các giải pháp lớn như: trên cơ
sở các kết quả mới trong nghiên cứu lý luận, tổ chức việc học tập, vận dụng
những nhận thức mới về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cho

10


cán bộ, đảng viên và nhân dân. Xây dựng và thực hiện cơ chế giám sát đạo đức,
lối sống của cán bộ, đảng viên; có chính sách đảm bảo việc sử dụng các sản
phẩm giá trị văn hóa, văn nghệ trong hoạt động tư tưởng; nâng cao hiệu quả
giáo dục đảng viên, triển khai thường xuyên, đảm bảo thực chất, đảm bảo
phương châm phê và tự phê bình, "xây" và "chống" trong sinh hoạt Đảng; chú
trọng nêu gương tốt, chỉ ra các biểu hiện xấu để khẳng định và phê phán trong
công tác xây dựng Đảng và trên các phương tiên thông tin đại chúng.
2.3. Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền về đường lối đổi mới
của Đảng
- Tích cực tuyên truyền, động viên toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tự
giác, sáng tạo thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước.
- Nâng cao hiệu quả việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”, đưa nội dung này ngày càng đi vào chiều sâu. Cán bộ lãnh đạo các cấp
phải là những tấm gương trong việc “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ
Chí Minh”, lời nói gắn liền với việc làm, “học tập” phải đi đôi với “làm theo”.
- Tuyên truyền kiến thức về quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ
quốc. Công tác tuyên giáo cần phải nâng cao tính định hướng, tính chiến đấu,
tính thuyết phục, tính hiệu quả. Phải thường xuyên bám sát thực tiễn, tăng
cường tiếp xúc, đối thoại trực tiếp với nhân dân. Chủ động nắm bắt, đánh giá,

dự báo, kịp thời giải quyết những diễn biến tư tưởng, tâm trạng của nhân dân.
- Đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, cổ vũ mọi tầng lớp nhân dân
phát huy tính tự lực, tự cường, nỗ lực vượt qua mọi thử thách, phấn đấu hoàn
thành các chỉ tiêu kinh tế - xã hội.
2.4. Chủ động góp phần trực tiếp và hiệu quả thiết thực trong việc
thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội
Trong đó trọng tâm là tuyên truyền sâu rộng các quan điểm, đường lối
kinh tế của Đảng được nêu trong Văn kiện Đại hội XII. Cần khẳng định và chỉ
đạo thực hiện tốt quan điểm công tác tuyên giáo phải trở thành một bộ phận,

11


một thành tố hữu cơ, gắn chặt với toàn bộ quá trình triển khai các hoạt động
kinh tế - xã hội, văn hóa và các lĩnh vực khác như: giáo dục, đào tạo, khoa
học công nghệ, quốc phòng, an ninh, đối ngoại giải quyết những vấn đề bức
xúc của nhân dân, nhất là những vấn đề tồn tại từ lâu, và những vấn đề nảy
sinh trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế.
- Đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục nhằm nâng cao chất
lượng, hiệu quả đào tạo đại học và sau đại học; đa dạng hóa các loại hình đào
tạo, bồi dưỡng ở trong và ngoài nước; gắn công tác đào tạo với nghiên cứu
khoa học và sản xuất kinh doanh… để có một đội ngũ trí thức đông về số
lượng, mạnh về chất lượng, phục vụ tốt quá trình công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
- Chủ trì, phối hợp với các cơ quan chức năng của Đảng và Nhà nước,
khẩn trương xây dựng và ban hành quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học
và công nghệ, nghiên cứu lý luận, giáo dục và đào tạo, văn hóa và văn nghệ.
Bổ sung hoàn thiện các quy chế, chính sách, tạo điều kiện để trí thức tự khẳng
định, phát triển cống hiến và được xã hội tôn vinh.
- Xây dựng cơ chế, chính sách thiết thực để trọng dụng, tôn vinh những

trí thức phát triển bẳng chính phẩm chất, tài năng và kết quả cống hiến của
mình cho đất nước.
- Bồi dưỡng lòng yêu nước và lý tưởng cách mạng để trí thức nhận rõ
vinh dự và bổn phận trước Tổ quốc và dân tộc. Không ngừng phấn đấu và
nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực chuyên môn, đóng góp nhiều
nhất cho sự phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
- Xây dựng một nền y tế theo hướng “công bằng”, “hiệu quả”, “phát
triển” để thực sự góp phần vào bảo vệ chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân
dân, đồng thời góp phần tích cực vào an sinh xã hội.
2.5. Nghiên cứu, tổng kết, xây dựng và truyền bá rộng rãi những giá trị
mới của con người Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa

12


Nhiệm vụ này gắn với việc bảo vệ, giữ gìn và phát huy bản sắc, cốt
cách dân tộc, đồng thời có kế hoạch cơ bản triển khai cuộc đấu tranh chống sự
lai căng, vọng ngoại, lệ thuộc nước ngoài, đặc biệt chú trọng công tác giáo
dục, bồi dưỡng thế hệ trẻ, nhất là học sinh, sinh viên về bản lĩnh chính trị, văn
hóa của con người Việt Nam.
Xây dựng và thực hiện hệ giá trị của nhân cách con người Việt Nam
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, các chuẩn mực đạo đức - văn hóa phù
hợp với từng đối tượng, triển khai sâu rộng nhiệm vụ xây dựng chuẩn mực
đạo đức đối với các tầng lớp trong xã hội. Thực hiện tốt chiến lược phát triển
giáo dục - đào tạo, dạy nghề, khoa học công nghệ, y tế, thể dục thể thao, văn
hóa, văn học, nghệ thuật; xây dựng cơ chế, chính sách huy động sức mạnh
văn hóa, văn nghệ tham gia củng cố, phát triển đạo đức xã hội, chỉ đạo đưa
cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đi vào chiều
sâu, hiệu quả thiết thực. Kiên trì tổ chức cuộc đấu tranh đẩy lùi, khắc phục sự
thoái hóa, biến chất, những biểu hiện tiêu cực trong lối sống, đạo đức của cán

bộ, đảng viên và quần chúng, đặc biệt quan tâm thế hệ trẻ.
2.6. Đổi mới mạnh mẽ, sâu sắc và vững chắc nội dung, phương thức
công tác tuyên giáo của Đảng, tăng cường tính thuyết phục, hiệu quả,
nâng cao tính chủ động và tính chiến đấu
Đổi mới phương thức công tác tuyên giáo của Đảng theo định hướng
cơ bản là tăng cường tính thuyết phục, hiệu quả, nâng cao tính chủ động và
tính chiến đấu, tạo bằng được sự gắn bó với nhân dân và thực tiễn đất nước.
Có kế hoạch rà soát lại theo yêu cầu đổi mới tất cả các lĩnh vực của
công tác tuyên giáo, xây dựng lộ trình thực hiện đổi mới cho từng nội dung,
từng lĩnh vực để đến năm 2015 tạo bằng được diện mạo mới, chất lượng và
hiệu quả mới của công tác tuyên giáo; tổ chức lại lực lượng báo chí, truyền
thông đại chúng, phát huy mạnh mẽ tính tích cực, vai trò phản biện và giám
sát của báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng. Tiếp tục phát triển sự
nghiệp báo chí, xuất bản đi đôi với tăng cường lãnh đạo và quản lý. Tiếp tục

13


đổi mới sâu sắc công tác lãnh đạo, quản lý và bản thân hoạt động báo chí,
xuất bản, xác lập nhiệm vụ khảo sát điều tra dư luận xã hội là một cơ sở
khách quan có tính bắt buộc khi thực hiện các nhiêm vụ công tác tư tưởng;
chuyển hướng mạnh mẽ từ thông tin một chiều, định hướng từ trên xuống
sang chú trọng phương châm thông tin hai chiều, tăng cường đối thoại, lắng
nghe, đặc biệt thông tin từ cơ sở lên, nhằm định hướng đúng trên cơ sở nắm
vững thực tiễn, thông tin chuẩn xác; xây dựng các chương trình học tập, tuyên
truyền, giáo dục cho từng đối tượng cụ thể theo trình độ, nghề nghiệp, giới,
vùng, miền; nghiên cứu nội dung và phương pháp phối hợp để phát huy sức
mạnh tổng hợp của công tác tuyên giáo, đặc biệt trong các hoạt động có quy
mô lớn, trọng điểm, các ngày kỷ niệm; nghiên cứu và thực hiện đổi mới căn
bản các hoạt động kỷ niệm các ngày lễ lớn theo hướng thiết thực, gắn với nhu

cầu văn hóa, nguyện vọng của nhân dân, từng bước xây dụng các lễ hội mới,
lễ hội cách mạng do nhân dân làm chủ, tự quản, nhằm đảm bảo cho quá trình
đổi mới công tác tuyên giáo có hiệu quả vững chắc từ trung ương đến cơ sở.
Chú trọng xây dựng và thực hiện các chính sách mới đáp ứng yêu cầu đổi mới
công tác tư tưởng thời kỳ mới.
2.7. Triển khai đồng bộ, chủ động cuộc đấu tranh trên mặt trận tư
tưởng, phản bác các luận điệu thù địch, chống phá Đảng, Nhà nước
Thực hiện nhiệm vụ nói trên với mục tiêu làm thất bại âm mưu, thủ
đoạn “Diễn biến hòa bình” nhằm thực hiện đa nguyên chính trị, bạo loạn, lật
đổ, đồng thời tỉnh táo phòng, chống nguy cơ “tự diễn biến” có khả năng tiến
triển nhanh trước tình thế mới của cuộc đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý
luận. Phản bác kịp thời những luận điệu xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng giữ vị trí chủ
đạo trong đời sống tinh thần của toàn xã hội. Chú trọng nghiên cứu khách
quan các khuynh hướng tư tưởng, lý luận của các thế lực thù địch làm cơ sở
để chủ động tiến công, phản bác, tổ chức lại lực lượng tham gia cuộc đấu

14


tranh trên lĩnh vực tư tưởng, lý luận, tạo diễn đàn tranh luận những vấn đề lý
luận đang có nhiều ý kiến khác nhau.
2.8. Xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác
tuyên giáo
Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách công tác tuyên giáo kiên định chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trung thành với đường lối đổi mới của
Đảng, trung thực, có ý thức trách nhiệm cao và tinh thần sáng tạo, có đạo đức cách
mạng, lối sống trong sạch, lành mạnh, tôn trọng và lắng nghe ý kiến của dân. Mục
tiêu xây dựng đội ngũ là tập trung cho đội ngũ kế cận để trong 5, 10 năm tới, có
một chủ thể mới đảm đương chủ yếu công tác tư tưởng của Đảng, đó là thế hệ cán
bộ trẻ hiện nay đang công tác và được đào tạo trong thời gian tới.

Một số nhiệm vụ cụ thể:
- Quy hoạch đội ngũ, đảm bảo có các loại hình, thế hệ cán bộ tuyên giáo
nối tiếp nhau vững chắc: Cán bộ lãnh đạo, quản lý, chuyên gia, chuyên viên
đầu ngành, đội ngũ kế cận và đội ngũ trẻ để tạo nguồn. Lập kế hoạch dài hạn
và hàng năm trong thực hiệnnhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ tuyên giáo.
- Cùng với công tác đào tạo chính quy, ngành tuyên giáo ở Trung ương
và cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương phải tăng cường và có kế hoạch
định kỳ, đảm bảo nâng cao trình độ chính trị theo yêu cầu nghề nghiệp, trình
độ sử dụng ngoại ngữ và tin học cho cán bộ đang công tác, đặc biệt đối với
đội ngũ kế cận, đội ngũ trẻ.
- Xây dựng và thực hiện một số chính sách, chế độ mới đối với cán bộ
chuyên trách công tác tuyên giáo, trong đó chú ý những yêu cầu đặc thù về
nghề nghiệp, xây dựng các tiêu chuẩn cụ thể đánh giá kết quả hoạt động của
từng loại hình cán bộ tuyên giáo; nghiên cứu, thực hiện chính sách phụ cấp
nghề nghiệp đối với cán bộ chuyên trách tuyên giáo như với giáo viên; chính
sách đào tạo và bồi dưỡng đối với cán bộ đã có văn bằng 1 được cử đi đào tạo
văn bằng 2 về nghiệp vụ tuyên giáo; chế độ lương đối với hai loại hình cán bộ
tuyên giáo: cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ chuyên viên, chuyên gia về
nghiệp vụ nhằm khuyến khích, tạo điều kiện cho cán bộ phát triển lâu dài về

15


nghề nghiệp; nghiên cứu các hình thức phù hợp tôn vinh cán bộ tuyên giáo có
thành tích xuất sắc, có cống hiến lớn với ngành tuyên giáo.
Chuyên đề 2:
QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG MỚI CỦA ĐẠI HỘI
ĐẠI BIỂU TOÀN QUỐC LẦN THỨ XII CỦA ĐẢNG
TS Phạm Anh
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh


Đại hội XII của Đảng tiến hành vào thời điểm có ý nghĩa rất quan trọng.
Toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta thực hiện thắng lợi nhiều chủ trương, mục
tiêu và nhiệm vụ được xác định trong Nghị quyết Đại hội XI của Đảng. Chúng ta
đã trải qua 30 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 5 năm thực hiện Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, 2 năm thực
hiện Hiến pháp năm 2013.
Về chủ đề Đại hội XII (cũng là tiêu đề của Báo cáo chính trị)
Trong quá trình thảo luận cũng như tại Đại hội, các ý kiến đều thống
nhất cao cần có chủ đề Đại hội (cũng là tiêu đề của Báo cáo chính trị) như
nhiều Đại hội gần đây, thể hiện mục tiêu, trọng tâm xuyên suốt trong nhiệm
kỳ, có ý nghĩa quy tụ sức mạnh của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân2.
Cách tiếp cận trong xác định chủ đề của Đại hội XII là đi từ một số
thành tố quan trọng gắn với những yêu cầu cơ bản và sát với những vấn đề

2

Chủ đề của một số Đại hội gần đây là :
Đại hội VIII : "Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội".
Đại hội IX : "Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa".
Đại hội X : "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy
mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển".
Đại hội XI : "Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân
tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp theo hướng hiện đại".

16



bức xúc được đặt ra từ thực tiễn cho nhiệm kỳ này. Chủ đề Đại hội cần ngắn
gọn, dễ hiểu, dễ nhớ, có tính đột phá để thực hiện trong 5 năm.
Trong quá trình chuẩn bị Dự thảo Văn kiện Đại hội XII, đã đề ra một số
phương án về chủ đề Đại hội để thảo luận, cân nhắc.
Xuất phát từ yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, Đại hội đã thảo
luận và quyết định chủ đề của Đại hội XII (cũng là tiêu đề của Báo cáo chính
trị) : "Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công
cuộc đổi mới; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn
định; phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo
hướng hiện đại".
Chủ đề Đại hội gồm năm thành tố, bao quát đầy đủ những vấn đề cốt
lõi, những mục tiêu cơ bản nhất, những định hướng, đường lối phát triển đất
nước trong giai đoạn tới :
Một là, về thành tố "sự lãnh đạo của Đảng":
Trong quá trình thảo luận, có ý kiến đề nghị giữ như Đại hội XI là
"Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng"; có ý kiến
đề nghị phải "đổi mới", "chỉnh đốn Đảng", "quyết tâm chỉnh đốn Đảng";... Có
ý kiến đề nghị không nên đặt vấn đề "chỉnh đốn Đảng", vì hiện nay chưa đến
mức phải chỉnh đốn; cũng không nên đặt vấn đề "đổi mới Đảng", vì nội hàm
không rõ, dễ dẫn đến suy diễn không có lợi.
Đại hội đã thống nhất nội dung của thành tố này là: "tăng cường xây
dựng Đảng trong sạch, vững mạnh". Đây là yêu cầu toàn diện hơn so với yêu
cầu đặt ra tại Đại hội XI là : "Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng".
Hai là, về thành tố "dân tộc, dân chủ":
Trong quá trình thảo luận, có ý kiến đề nghị giữ như Đại hội XI là
"phát huy sức mạnh toàn dân tộc"; có ý kiến đề nghị : "phát huy sức mạnh và

tiềm năng sáng tạo của toàn dân tộc"; có ý kiến đề nghị : "phát huy sức mạnh

17


toàn dân tộc gắn với sức mạnh thời đại"; có ý kiến đề nghị : "phát huy sức
mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa";...
Đại hội đã thống nhất nội dung thành tố này là: "phát huy sức mạnh
toàn dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa". So với Đại hội XI, Đại hội XII thêm
cụm từ: "dân chủ xã hội chủ nghĩa".
Ba là, về thành tố "đổi mới":
Trong quá trình thảo luận, có ý kiến đề nghị căn cứ vào yêu cầu phát
triển, cần đổi mới mạnh mẽ hơn, do vậy nên xác định là : "tiếp tục đẩy mạnh
công cuộc đổi mới...", hoặc "đổi mới toàn diện, mạnh mẽ (hoặc sâu rộng,
hoặc triệt để) và đồng bộ" để phát huy mọi nguồn lực; nhấn mạnh yêu cầu đổi
mới "toàn diện" nhưng phải "đồng bộ". Có ý kiến cho rằng, bản chất của tiến
trình đổi mới là thực hiện đột phá phát triển trước hết ở một số ít vấn đề, lĩnh
vực, từ đó gây tác động lan toả sang các vấn đề, lĩnh vực khác, do đó không
thể làm đồng bộ được.
Đại hội đã thống nhất nội dung thành tố này là : "đẩy mạnh toàn diện,
đồng bộ công cuộc đổi mới". Ở nội dung của thành tố này, yếu tố "đồng bộ"
được nhấn mạnh để khắc phục những hạn chế trong thực tiễn những năm qua
là đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện, đổi mới chính trị chưa đồng bộ với đổi
mới kinh tế.
Bốn là, về thành tố "bảo vệ Tổ quốc": Trong quá trình thảo luận, nhiều
ý kiến đề nghị đưa thành tố "bảo vệ Tổ quốc" vào chủ đề Đại hội, vì đây là
nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên; và vấn đề bảo vệ chủ quyền biển, đảo
đứng trước nhiều khó khăn, thách thức lớn.
Đại hội đã thống nhất nội dung thành tố này là : "bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, giữ vững môi trường hoà bình, ổn định". Đây là điểm mới so với chủ đề

Đại hội XI.
Năm là, về thành tố "mục tiêu xây dựng đất nước 5 năm tới":
Trong quá trình thảo luận, có ý kiến đề nghị giữ như Đại hội XI là "tạo
nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo

18


hướng hiện đại", vì đây là mục tiêu đã được quyết định từ Đại hội VIII; có ý kiến
chỉ nên nêu mục tiêu chung là "phát triển đất nước theo hướng công nghiệp hoá,
hiện đại hoá", hoặc "thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước", hoặc thực hiện mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh".
Đại hội đã thống nhất nội dung thành tố này là : "phấn đấu sớm đưa
nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại". "Sớm" ở
đây được hiểu là sớm nhất sau năm 2020. Đây là một sự điều chỉnh mục tiêu
so với Đại hội XI, phù hợp với thực tế là việc tạo nền tảng để đến năm 2020
cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại không đạt được
mục tiêu đề ra; vừa thể hiện quyết tâm, vừa thể hiện một cách nhìn thực tế
hơn đối với tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam.
Về phương châm chỉ đạo của Đại hội XII
Phương châm chỉ đạo của Đại hội là phương châm tiến hành Đại hội,
xác định tinh thần, trách nhiệm đối với các đại biểu tham dự Đại hội.
Trong quá trình thảo luận, đã đưa ra một số phương châm chỉ đạo của
Đại hội XII để cân nhắc, quyết định, như : "Đoàn kết - Dân chủ - Kỷ cương Đổi mới", "Đoàn kết - Dân chủ - Sáng tạo - Phát triển", "Bản lĩnh - Dân chủ Kỷ cương - Đoàn kết",...
Đại hội đã thống nhất xác định Đại hội XII của Đảng là Đại hội "Đoàn
kết - Dân chủ - Kỷ cương - Đổi mới". Và trên thực tế, Đại hội đã thành công
rất tốt đẹp theo phương châm này.
Về bố cục của Báo cáo chính trị
Bố cục của Báo cáo chính trị tại Đại hội XII được trình bày theo 15 vấn

đề, đồng thời cũng xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ Đại hội XII.
Kết cấu của Báo cáo chính trị tại Đại hội XII theo hệ thống các vấn đề để dễ
trình bày, dễ theo dõi, dễ hiểu. Nội dung đánh giá tình hình được trình bày
tổng quát (ở mục I) và theo từng lĩnh vực ở tất cả các phần (từ mục III đến
mục XV).

19


Báo cáo chính trị là Báo cáo trung tâm của Đại hội, thể hiện cô đọng
những nội dung về đánh giá tình hình, xác định tư tưởng chỉ đạo, mục tiêu,
định hướng nhiệm vụ và giải pháp lớn trong 5 năm tới về tất cả các mặt.
Dưới đây là nội dung cơ bản của Báo cáo chính trị, bao gồm những nội dung
cốt lõi và những điểm mới quan trọng.
I. VỀ ĐÁNH GIÁ TỔNG QUÁT KẾT QUẢ THỰC HIỆN NGHỊ QUYẾT ĐẠI
HỘI XI (2011 - 2015) VÀ NHÌN LẠI 30 NĂM ĐỔI MỚI (1986 - 2016)

1. Về đánh giá tổng quát kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội XI;
nguyên nhân và kinh nghiệm
Năm năm qua, bên cạnh những thời cơ, thuận lợi, tình hìnhthế giới, khu
vực có nhiều diễn biến rất phức tạp; kinh tế thế giới phục hồi chậm3; khủng
hoảng chính trị ở nhiều nơi, nhiều nước; cạnh tranh về nhiều mặt ngày càng
quyết liệt giữa các nước lớn tại khu vực; diễn biến phức tạptrên Biển Đông,...
đã tác động bất lợi đến nước ta. Trong nước, ngay từ đầu nhiệm kỳ, cùng với
những ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu,
những hạn chế, khiếm khuyết vốn có của nền kinh tế chưa được giải quyết,
những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, quản lý và những vấn đề mới phát sinh
đã làm cho lạm phát tăng cao, ảnh hưởng nghiêm trọng đến ổn định kinh tế vĩ
mô, tốc độ tăng trưởng và đời sống nhân dân. Thiên tai, dịch bệnh, biến đổi
khí hậu gây thiệt hại nặng nề. Nhu cầu bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã

hội ngày càng cao. Đồng thời, chúng ta phải dành nhiều nguồn lực để bảo đảm
quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền đất nước trước những động thái mới
của tình hình khu vực và quốc tế.
Trong quá trình thảo luận, có ý kiến đề nghị đánh giá 5 năm qua đạt
"thành tựu to lớn"; có ý kiến đánh giá đạt "kết quả bước đầu"; có ý kiến đánh
giá đạt "những thành quả quan trọng".

3

Tháng 10-2010, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) dự báo kinh tế thế giới năm 2011 tăng 4,2%, giai đoạn 20122015 tăng 4,6%/năm. Thực tế tăng trưởng kinh tế thế giới (theo Báo cáo triển vọng kinh tế thế giới của IMF
vào tháng 10-2015), năm 2011 tăng 4,2%, năm 2012 tăng 3,4%, năm2013 tăng 3,3%, năm 2014 tăng 3,4% và
năm 2015 dự kiến tăng 3,1%.

20


Trên cơ sở nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật một cách toàn
diện, Đại hội XII của Đảng nhận định : "nhìn tổng quát, toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta đã nỗ lực phấn đấu đạt được những thành quả quan trọng".
Đánh giá như vậy là phù hợp, đúng mức, phản ánh được cả những nỗ
lực, cố gắng của chúng ta trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước,
cũng như cả những yếu kém, khuyết điểm cần được khắc phục.
Báo cáo chính trị đã nêu đánh giá tổng quát (ở mục này) những thành
quả quan trọng đạt được và những hạn chế, khuyết điểm về kinh tế, văn hoá,
xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, xây
dựng Đảng và hệ thống chính trị.
Những thành quả quan trọng nổi bật là :
- Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm lực
được nâng lên.
- Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát 4; tăng trưởng

kinh tế được duy trì ở mức hợp lý, từ năm 2013 dần phục hồi, năm sau cao hơn
năm trước5.
- Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hoá, xã hội, y tế có
bước phát triển. An sinh xã hội được quan tâm nhiều hơn và cơ bản được bảo
đảm, đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện 6. Bảo vệ tài nguyên, môi
trường, phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu có những
chuyển biến tích cực.
- Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; kiên
quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hoà bình, ổn định để phát triển đất nước.
4

Tốc độ tăng giá tiêu dùng giảm mạnh, từ 18,13% năm 2011, 6,81% năm 2012, 6,04% năm 2013, 1,84% năm
2014, xuống còn 0,6% vào năm 2015. Tỉ lệ nợ xấu giảm dần, theo số liệu báo cáo của Ngân hàng Nhà nước
Việt Nam đến cuối năm 2015, nợ xấu còn 2,55%.
5
Tăng trưởng GDP năm 2008 đạt 5,66%, năm 2009 : 5,4%, năm 2010 : 6,42%, năm 2011 : 6,24%, năm
2012 : 5,25%, năm 2013 : 5,42%, năm 2014 : 5,98% vànăm 2015 đạt 6,68%.
6

Tỉ lệ hộ nghèo giảm bình quân khoảng 2%/năm, từ 14,2% cuối năm 2010 xuống dưới 4,5% năm 2015. Tỉ
lệ tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp tăng (đến cuối năm 2015, đã có trên 12 triệu
người tham gia bảo hiểm xã hội, khoảng 10 triệu người tham gia bảo hiểm thất nghiệp và 75% dân số tham
gia bảo hiểm y tế). Tuổi thọ trung bình tăng, đạt 73,3 tuổi vào năm 2015.

21


- Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng 7, có hiệu quả.
Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao.

- Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc tiếp
tục được phát huy.
- Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được chú trọng
và đạt kết quả quan trọng, nhất là việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá
XI "Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay" đạt những kết quả
bước đầu quan trọng.
- Quan điểm và thể chế về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa tiếp
tục được bổ sung, hoàn thiện, hiệu lực và hiệu quả được nâng lên. Đã thể chế
hoá kịp thời Cương lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011), xây dựng, ban hành
Hiến pháp năm 2013 và nhiều bộ luật, luật trong nhiệm kỳ Quốc hội khoá XIII.
Những thành quả quan trọng nêu trên tạo tiền đề quan trọng để nước ta
tiếp tục phát triển nhanh, bền vững hơn trong giai đoạn mới.
Những hạn chế, yếu kém biểu hiện trên một số mặt chủ yếu là :
- Đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội
chưa đạt kế hoạch8; nhiều chỉ tiêu, tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu để đến
năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
không đạt được9.
7

Đến nay, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 185 nước, quan hệ kinh tế với 224 nước và vùng lãnh thổ;
thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với 15 nước, quan hệ đối tác toàn diện với 10 nước. Việt Nam là thành
viên của hầu hết các tổ chức khu vực và quốc tế lớn.
8

Trong 26 chỉ tiêu chủ yếu của Kế hoạch 5 năm, có 16 chỉ tiêu đạt và vượt, 10 chỉ tiêu không đạt là : Tốc độ
tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân 5 năm 5,91% (kế hoạch 6,5 - 7,0%); Tỉ trọng đầu tư toàn xã
hội so với GDP bình quân 5 năm 31,7% (kế hoạch 33,5 - 35%); Bội chi ngân sách nhà nước vào năm cuối kỳ
kế hoạch 5 năm 6,1% (kế hoạch < 4,5%); Nợ của Chính phủ so với GDP đến năm cuối kỳ khoảng 50,3% (kế
hoạch không quá 50%); Tỉ trọng sản phẩm công nghệ cao trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp 18,37% (kế
hoạch 30%); Tỉ lệ đổi mới công nghệ bình quân 5 năm 10,68% (kế hoạch 13%); Tăng năng suất lao động xã

hội đến năm cuối kỳ so với cuối kỳ giai đoạn trước 23,6% (kế hoạch 29 - 32%); Số lao động được tạo việc
làm 5 năm là 7,8 triệu (kế hoạch là 8 triệu); Tỉ lệ lao động qua đào tạo trong tổng số lao động đang làm việc
trong nền kinh tế vào năm cuối kỳ là 51,6% (kế hoạch 55%); Tỉ lệ che phủ rừng vào năm cuối kỳ là 40,73%
(kế hoạch 42 - 43%).
9
Đến năm 2020, dự kiến có 10/15 chỉ tiêu không đạt tiêu chí các nước công nghiệp : GDP bình quân đầu
người đạt 3.200 - 3.500 USD theo giá thực tế (theo tiêu chí nước công nghiệp là trên 5.000 USD, giá năm
2010); Tỉ trọng công nghiệp chế tạo trong GDP đạt 15% (theo tiêu chí : trên 20%); Tỉ trọng nông nghiệp
trong GDP dự kiến đạt 15% (theo tiêu chí : dưới 10%); Tỉ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã
hội đạt 40% (theo tiêu chí : 20-30%); Tỉ lệ đô thị hoá đạt 38 - 40% (theo tiêu chí : trên 50%); Điện sản xuất
bình quân đầu người đạt 2.800 KWh/người (theo tiêu chí : trên 3.000 KWh/người); Chỉ số phát triển con
người (HDI) đạt 0,67 (theo tiêu chí : trên 0,7); Chỉ số bất bình đẳng thu nhập (Gini) khoảng 0,38 - 0,4 (theo

22


- Kinh tế vĩ mô cơ bảnổn định nhưng chưa vững chắc; nợ công tăng
nhanh10, nợ xấu đang giảm dần nhưng còn ở mức cao; sản xuất kinh doanh
còn gặp rất nhiều khó khăn. Tăng trưởng kinh tế thấp hơn 5 năm trước, không
đạt mục tiêu đề ra11; năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền
kinh tế còn thấp.
- Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chậm được
hoàn thiện, chưa có cơ chế đột phá để thúc đẩy phát triển; cơ cấu nguồn nhân
lực mất cân đối, chất lượng nguồn nhân lực còn thấp; kết cấu hạ tầng thiếu đồng
bộ tiếp tục là những yếu tố cản trở sự phát triển. Thực hiện cơ cấu lại nền kinh
tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng còn chậm.
- Nhiều hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa
học và công nghệ, văn hoá, xã hội, y tế chậm được khắc phục. Quản lý và sử
dụng tài nguyên, môi trường còn bất cập.
- Đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn

nhiều khó khăn.
- Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một
bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí
chưa bị đẩy lùi. Tội phạm và tệ nạn xã hội còn diễn biến phức tạp; đạo đức xã
hội có mặtxuống cấp nghiêm trọng.
- Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa
được phát huy đầy đủ; kỷ cương, kỷ luật chưa nghiêm. Một số mặt công tác
xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và Mặt trận
Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội chuyển biến chậm. Công tác dự báo,
hoạch định và lãnh đạo tổ chức thực hiện chính sách của Đảng, Nhà nước, hiệu
lực, hiệu quả quản lý nhà nước, quản lý phát triển xã hội còn nhiều bất cập.
- Hội nhập quốc tế có mặt chưa chủ động, hiệu quả chưa cao.
2. Nhìn lại 30 năm đổi mới (1986 - 2016)
tiêu chí : 0,32 - 0,38); Tỉ lệ lao động qua đào tạo (có bằng cấp, chứng chỉ) trong tổng lao động xã hội đạt 25%
(theo tiêu chí : trên 55%); Tỉ lệ dân số sử dụng nước sạch dưới 92% (theo tiêu chí : 100%).
10
Nợ công tăng nhanh, áp lực trả nợ lớn; nợ Chính phủ đã vượt giới hạn quy định (50,3% GDP so với quy
định là không quá 50%).
11
Tăng trưởng GDP đạt 5,9%/năm, thấp hơn 5 năm trước và chưa đạt chỉ tiêu đề ra.

23


×