Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Đánh giá các quy định trong Bộ luật dân sự năm 2005 về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân (8 điểm)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (142.55 KB, 16 trang )

MỞ ĐẦU
Nếu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo hợp đồng bao giờ cũng được phát
sinh trên cơ sở một hợp đồng có trước thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng là một trách nhiệm pháp lý do pháp luật quy định đối với người có hành
vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Theo
đó, khi một chủ thể có hành vi gây thiệt hại tới quyền lợi của chủ thể được pháp
luật bảo vệ trong hợp đồng hay ngoài hợp đồng thì đều có thể sẽ phải gánh chịu
hậu quả pháp lí bất lợi do hành vi của mình gây ra. Để việc tiến hành bồi thường
thiệt hại được diễn ra thuận lợi và bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp cho chủ thể
bị thiệt hại yêu cầu cần xác định được đúng người có trách nhiệm, có khả năng để
thực hiện nghĩa vụ bồi thường. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân là
một vấn đề quan trọng ảnh hưởng to lớn tới quyền lợi của các bên liên quan, do đó
bộ luật dân sự 2005 đã có những quy định tương đối đầy đủ để điều chỉnh về vấn
đề này.Để làm rõ vấn đề này, bài viết dưới đây xin được “Đánh giá các quy định
trong Bộ luật dân sự năm 2005 về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của cá nhân.”
NỘI DUNG
I.Khái quát chung về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
1.Khái niệm
Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân là khả năng của cá
nhân thực hiện nghĩa vụ bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng hoặc thực hiện nghĩa
vụ do vi phạm hợp đồng dân sự cho bên bị thiệt hại.
Pháp luật dân sự quy định hai loại trách nhiệm bồi thường thiệt hại là trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng dân sự và trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng.
1


Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng dân sự là việc bên có hành vi vi
phạm các nghĩa vụ đã giao kết, gây thiệt hại đến quyền của bên kia thì bên bị thiệt
hại có quyền yêu cầu bên vi phạm phải chấm dứt hành vi vi phạm và bồi thường


thiệt hại, bên vi phạm có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ giao kết, đồng
thời bồi thường thiệt hại cho bên có quyền.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là trách nhiệm của người có hành
vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác về tài sản, sức khỏe, tính mạng, các
quyền nhân thân mà trước đó giữa người gây thiệt hại và người bị thiệt hại không
có giao kết hợp đồng hoặc có giao kết nhưng hành vi gây thiệt hại không thuộc
hành vi vi phạm hợp đồng.
2.Đặc điểm
Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân bao gồm một số
đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại chỉ đặt ra với cá
nhân mà không quy định về năng lực bồi thường thiệt hại của các chủ thể khác, bởi
vì, các chủ thể khác ( như pháp nhân, nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam) đương nhiên được coi là có năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Thứ hai, nếu như trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng thì
người gây thiệt hại có thể là bất kì cá nhân nào, hoặc có hoặc không có, đầy đủ, bị
hạn chế hay bị mất năng lực hành vi dân sự thì đều phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại, nhưng trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng thì người có trách nhiệm chỉ có thể là chủ thể mang nghĩa vụ trong quan hệ
hợp đồng với bên mang quyền. Chủ thể này phải là người có năng lực hành vi dân
sự phù hợp với nội dung, tính chất hợp đồng được giao kết theo qui định của pháp
luật.
2


Thứ ba, trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng năng lực chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân có hành vi gây thiệt hại không phải
lúc nào cũng đầy đủ mà có thể bị hạn chế, hoặc không có năng lực tùy thuộc vào
từng trường hợp cụ thể. Tuy nhiên trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi
phạm hợp đồng thì cá nhân vi phạm nghĩa vụ hợp đồng là người luôn có năng lực

bồi thường thiệt hai.
Thứ tư, việc bồi thường thiệt hại đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại
phải do người có “khả năng” thực hiện. Đối với việc bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng thì có thể người bồi thường thiệt hại không phải là người thực hiện hành vi
gây thiệt hại.
II.Quy định của pháp luật về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của cá nhân do vi phạm hợp đồng
Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự. Việc thực hiện hay không thực hiện nghĩa
vụ sẽ ảnh hưởng rất lớn đối với bên có quyền, trực tiếp xâm hại tới lợi ích vật chất,
tinh thần của họ cho nên pháp luật dân sự đã quy định khi bên có nghĩa vụ không
thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm với bên
mang quyền.
Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân do vi phạm hợp
đồng xuất phát từ năng lực xác lập hợp đồng của cá nhân. Chỉ khi có năng lực xác
lập hợp đồng thì cá nhân đó mới trở thành một một bên chủ thể của hợp đồng, có
nghĩa vụ nhất định với bên mang quyền và phải thực hiện nghĩa vụ đó. Điều này có
nghĩa là một cá nhân khi đã là chủ thể của hợp đồng, có quyền và nghĩa vụ nhất
định theo hợp đồng thì đồng thời sẽ có năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại với chủ thể mang quyền khi cá nhân đó có hành vi vi phạm nghĩa vụ.
3


Thật vậy, về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng thì khi một cá nhân có năng lực xác lập hợp đồng , trở thành
một bên chủ thể mang quyền và nghĩa vụ, nếu có hành vi vi phạm nghĩa vụ thì
chính họ -khi đó đã có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho
bên mang quyền- sẽ là chủ thể của trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
III. Quy định của pháp luật về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng của cá nhân

Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại được xác định trên cơ sở
năng lực hành vi dân sự và khả năng kinh tế. Vì vậy về nguyên tắc, pháp nhân luôn
luôn có khả năng và có trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Pháp luật chỉ quy định
năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Pháp luật chỉ quy định năng lực
chịu trách nhiệm bồi thường của cá nhân.
Đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại khi vi phạm hợp đồng, cá nhân vi
phạm chỉ có thể là một bên chủ thể mang nghĩa vụ trong hợp đồng đó và có đủ khả
năng chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do mình gây ra cho người bên kia hợp
đồng. Còn đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, cá nhân gây
thiệt hại có thể là bất kỳ ai, ở độ tuổi nào, có năng lực nhận thức hay không. Theo
đó, việc xác định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
của cá nhân dựa trên tiêu chí khả năng nhận thức và độ tuổi của cá nhân. Trong đó,
khả năng nhận thức là tiêu chí cơ bản khi xem xét năng lực của chủ thể, là cơ sở
tiên quyết để xác định hình thức lỗi khi cá nhân có hành vi trái pháp luật gây ra.
Còn độ tuổi chỉ phản ánh một cách tương đối khả năng nhận thức của một con
người vì vẫn có nhiều người đủ tuổi thành niên nhưng khả năng nhận thức lại vô
cùng hạn chế do mắc các bệnh về thần kinh ở mức độ khác nhau.

4


Pháp luật nước ta đã sử dụng yếu tố độ tuổi và sự phát triển trí lực của cá
nhân để phân chia năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hịa ngoài hợp đồng
thành các mức độ phù hợp với năng lực hành vi, để từ đó xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại thuộc về chủ thể là cá nhân trực tiếp gây ra thiệt hại hay là cha, mẹ
hoặc người giám hộ của cá nhân gây thiệt hại. Cụ thể,điều 606 BLDS đã quy định
về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân như sau.
1. Đối với cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
Khoản 1 điều 606 BLDS: “ Người từ đủ mười tám tuổi trở lên gây thiệt hại thì
phải tự bồi thường.”

Người từ đủ 18 tuổi trở lên và người không bị mất năng lực hành vi dân sự theo
điều 22 Bộ luật dân sự năm 2005 thì chính họ phải tự bồi thường thiệt hại do mình
gây ra, bất kể họ có khả năng kinh tế hay không. Những người này đã có đủ khả
năng nhận thức để kiểm soát và làm chủ mọi hành vi của mình nên phải tự mình
gánh chịu hậu quả của hành vi đó. Vì vậy, họ phải bồi thường bằng tài sản của
mình. Trong trường hợp họ không có tài sản mà cha mẹ lại có tài sản thì cha me
cũng không có trách nhiệm bồi thường thay cho con trừ khi họ tự nguyện. Tòa án
có thể động viên cha, mẹ họ bồi thường thay để đảm bảo lợi ích của bên bị thiệt
hại. Nếu cha, mẹ họ không tự nguyện bồi thường thay thi Tòa án quyết định người
phải bồi thường là người đã gây ra thiệt hại và quyết định bản án đó có thể tạm
hoãn thi hành cho đến khi họ có tài sản để thực hiện việc bồi thường.
Ngoài ra BLDS 2005 còn quy định một số trường hợp người gây thiệt hại
với tư cách là người của pháp nhân, cán bộ, công chức, người có thẩm quyền của
cơ quan tiến hành tố tụng, người làm công, học nghề tại các điều từ 618 đến 622.
“Điều 618. Bồi thường thiệt hại do người của pháp nhân gây ra

5


Pháp nhân phải bồi thường thiệt hại do người của mình gây ra trong khi
thực hiện nhiệm vụ được pháp nhân giao; nếu pháp nhân đã bồi thường thiệt hại
thì có quyền yêu cầu người có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn trả một khoản
tiền theo quy định của pháp luật.”
Theo đó, đối với người của pháp nhân, khi người của pháp nhân thực hiện
nhiệm vụ của pháp nhân thì hành vi của họ được coi là hoạt động của pháp nhân.
Vì thế, để tổn thất của người bị thiệt hại được khắc phục một cách nhanh chóng và
kịp thời nên nếu người của pháp nhân gây ra thiệt hạ khi thực hiện nhiệm vụ thì
pháp nhân phải bồi thường cho người bị thiệt hại. Chỉ được coi là gây thiệt hại
trong khi thực hiện nhiệm vụ nếu thành viên của pháp nhân thực hiện nhiệm vụ
trong phạm vi thẩm quyền mà pháp nhân giao cho họ và thiệt hại xảy ra trong thời

gian và tại địa điểm công việc đó đang được tiến hành. Sau khi bồi thường cho
người thiệt hại, pháp nhân được quyền yêu cầu người gây thiệt hại phải hoàn trả số
tiền mà pháp nhân đã bồi thường nếu người gây thiệt hại có lỗi. Nếu không có lỗi
thì họ không phải hoàn trả số tiền mà pháp nhân đã bồi thường cho người bị thiệt
hại. Nếu họ tiến hành những công việc ngoài nhiệm vụ được giao thì họ phải tự
gánh chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
“Điều 619. Bồi thường thiệt hại do cán bộ, công chức gây ra:
Cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ, công chức phải bồi thường thiệt hại do cán bộ,
công chức của mình gây ra trong khi thi hành công vụ.
Cơ quan, tổ chức quản lý cán bộ, công chức có trách nhiệm yêu cầu cán bộ, công
chức phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật, nếu cán bộ, công
chức có lỗi trong khi thi hành công vụ.”
Nếu khi thi hành công vụ mà cán bộ, công chức gây ra thiệt hại thì cơ quan,
tổ chức quản lý họ phải bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại. Sau khi đã bồi
6


thường, nếu người gây thiệt hại có lỗi trong việc thi hành công vụ thì cơ quan, tổ
chức nói trên phải yêu cầu họ hoàn trả khoản tiền mà mình đã bồi thường. Mức
hoàn trả, phương thức hoàn trả sẽ được thủ trưởng cơ quan, tổ chức quyết đinh dựa
trên việc đánh giá thiệt hại, mức độ lỗi và khả năng kinh tế của người gây thiệt hại.
“Điều 620. Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố
tụng gây ra:
Cơ quan tiến hành tố tụng phải bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của
mình gây ra khi thực hiện nhiệm vụ trong quá trình tiến hành tố tụng.
Cơ quan tiến hành tố tụng có trách nhiệm yêu cầu người có thẩm quyền đã gây
thiệt hại phải hoàn trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật, nếu người có
thẩm quyền có lỗi trong khi thi hành nhiệm vụ.”
Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng bao gồm điều tra viên của cơ quan
điều tra, kiểm sát viên của viện kiểm sát, thẩm phán của tòa án. Những người này

thực hiện nhiệm vụ của mình mà gây thiệt hại cho người khác thì cơ quan quản lý,
sử dụng họ phải bồi thường thiệt hại cho người bị thiệt hại. Sau đó, cơ quan có
trách nhiệm yêu cầu người gây ra thiệt hại hoàn lại khoản tiền bồi thường theo mức
và phương thức do thủ trưởng cơ quan quyết đinh.
“Điều 622. Bồi thường thiệt hại do người làm công, người học nghề gây ra
Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác phải bồi thường thiệt hại do người làm
công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền
yêu cầu người làm công, người học nghề có lỗi trong việc gây thiệt hại phải hoàn
trả một khoản tiền theo quy định của pháp luật”
Chủ làm công hoặc chủ dạy nghề phải bồi thường thiệt hại do người làm
công, người học nghề gây ra trong khi thực hiện công việc được giao và có quyền
7


yêu cầu người làm công, người học nghề có lỗi phải hoàn trả một khoản tiền theo
quy định của pháp luật.
Tuy việc bồi thường thiệt hại của một số chủ thể đặc biệt được cụ thể hóa
trong các điều luật từ 618 đến 622 BLDS 2005 nhưng suy cho cùng, người trên 18
tuổi có năng lực hành vi dân sự đầy đủ bao giờ cũng là người phải chịu trách
nhiệm bồi thường thiệt hại về hành vi gây thiệt hại của mình song việc quy định
riêng cách thức bồi thường thiệt hại đối với họ nhằm nhấn mạnh hơn nữa vai trò
quan lý của cơ quan, tổ chức, cá nhân quản lý họ. Vì thế, trong các trường hợp này,
trách nhiệm bồi thường thiệt hại trước hết thuộc về cơ quan, tổ chức, pháp nhân, cá
nhân quan lý.
2. Đối với người chưa thành niên từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi
Trích khoản 2 điều 606 BLDS 2005 quy định: “Người từ đủ mười lăm tuổi
đến chưa đủ mười tám tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình;
nếu không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu
bằng tài sản của mình.”
Như vậy, theo đó, đối với người chưa thành niên từ đủ 15 tới dưới 18 tuổi

mà gây thiệt hại thì họ phải bồi thường thiệt hại bằng tài sản của mình. Cha mẹ chỉ
phải bồi thường phần còn thiếu. Trong trường hợp này, người gây thiệt hại là bị
đơn dân sự và cha mẹ của người gây thiệt hại là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên
quan. Trách nhiệm bồi thường chính thuộc về bản thân người gây thiệt hại chứ
không phải là cha mẹ, người thân của họ.
Sở dĩ luật có quy định như này là vì xét theo thực tế tại Việt Nam hiện nay,
một số không ít người từ đủ 15 đến dưới 18 tuổi đã tham gia lao động, do đó người
thuộc độ tuổi này đã có thể tạo ra thu nhập và có tài sản riêng nên có thể thực hiện
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của mình. Tuy nhiên, xét về mặt nhận thức, tuy họ
8


đã có khả năng nhận thức để kiểm soát và làm chủ hành vi của mình nhưng nhận
thức ở độ tuổi này còn hạn chế, họ chỉ có thể kiểm soát, làm chủ được một số hành
vi nhất định nên pháp luật dân sự đã xác định họ chỉ có một phần năng lực hành vi
dân sự, chỉ đến khi đủ 18 tuổi họ mới có thể tự quyết định mọi vấn đề liên quan
đến bản thân, do đó việc gây thiệt hại của những người ở độ tuổi này vẫn có một
phần trách nhiệm của bố mẹ. Đồng thời không phải mọi cá nhân ở độ tuổi này đều
có tài sản riêng, do vậy, cha mẹ của người gây thiệt hại vẫn không thể loại trừ hoàn
toàn trách nhiệm của mình. Họ có nghĩa vụ phải bồi thường thiệt hại cho con mình
khi nó gây thiệt hại cho người khác mà không có hoặc không có đủ tài sản để bồi
thường. Nghĩa vụ này được đặt ra nhằm bảo vệ quyền lợi và khắc phục thiệt hại
cho người bị thiệt hại nên việc lấy tài sản của cha mẹ là cần thiết. Có thể nói, quy
định này là chặt chẽ và hợp lý, phù hợp với xã hội, việc áp dụng trong thực tiễn tại
các cơ quan xét xử vẫn chưa xảy ra vấn đề nào đáng tranh cãi.
3. Đối với những người dưới 15 tuổi
Đoạn 1 khoản 2 điều 606 BLDS 2005: “ Người chưa thành niên dưới mười
lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ thiệt
hại; nếu tài sản của cha, mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên gây
thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ

trường hợp quy định tại Điều 621 của Bộ luật này.”
Đối với người dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha, mẹ thì cha mẹ
phải bồi thường kể cả trong trường hợp người con chưa thành niên đó có tài sản
riêng. Chỉ có thể lấy tài sản của con để bồi thường , phần còn thiếu khi tài sản của
cha mẹ không đủ để bồi thường, trừ trường hợp người dưới mười lăm tuổi trong
thời gian học tai trường mà gây thiệt hại thì trường học phải bồi thường thiệt hại
xảy ra theo quy định tại điều 621 Bộ luật dân sự năm 2005. Trong trường hợp
người dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại thì cha mẹ của người gây thiệt hại là bị đơn
9


dân sự. Ngoài ra, nếu cha mẹ không còn hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì theo
quy định của pháp luật, người dưới 15 tuổi buộc phải có người giám hộ. Tuy nhiên,
khi có thiệt hại do hành vi của người dưới 15 tuổi gây ra, người giám hộ sẽ đứng
lên cùng người được giám hộ bồi thường thiệt hại nhưng dung tài sản của người
được giám hộ trước nếu thiếu, người giám hộ phải có nghĩa vụ bổ sung.
Những người dưới 15 tuổi là những người không có hoặc chỉ có năng lực
hành vi dân sự một phần. Nhận thức của những người nằm trong độ tuổi này còn
rất hạn chế nên đa phần họ không thể làm chủ, điều khiển được các hành vi của
mình, họ không đủ lý trí để nhận biết những hành vi của mình và hậu quả gây ra.
Do đó, để xác định và nâng cao trách nhiệm của cha, mẹ trong việc quản lý giáo
dục con cái nên BLDS đã quy định cha, mẹ có trách nhiệm bồi thường thiệt hại do
con chưa đủ 15 tuổi gây ra. Trách nhiệm này là trách nhiệm pháp lý không cần
điều kiện lỗi của cha, mẹ trong việc giám sát, quản lý hành vi của con mình. Trong
trường hợp cha mẹ không đủ tài sản để bồi thường mà con có tài sản riêng thì lấy
tài sản của con để bồi thường phần còn thiếu. Việc lấy tài sản của con để bồi
thường phần thiếu không có nghĩa là trách nhiệm bồi thường được chuyển sang
con, đồng thời cũng không làm chấm dứt trách nhiệm bồi thường của cha mẹ.
Trong trường hợp đó, cha mẹ vẫn là chủ thể có trách nhiệm bồi thường. Việc lấy
tài sản của người con dưới 15 tuổi để bồi thường bổ sung phần còn thieeuus là

nhằm bảo vệ kịp thời quyền, lợi ích hợp pháp của người bị thiệt hại và nhằm bảo
vệ nguyên tắc bồi thường thiệt hại toàn bộ và kịp thời.
Bên cạnh đó, cũng cần lưu ý không phải mọi trường hợp cha, mẹ người gây
thiệt hại đều phải chịu trách nhiệm bồi thường. Khoản 1 điều 621 BLDS 2005 quy
định: “Người dưới mười lăm tuổi trong thời gian học tại trường mà gây thiệt hại
thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra.”, khoản 3 có quy định thêm:
“Trong các trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, nếu trường học,
10


bệnh viện, tổ chức khác chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý thì cha,
mẹ, người giám hộ của người dưới mười lăm tuổi, người mất năng lực hình vi dân
sự phải bồi thường.” Trong thời gian mà người dưới 15 tuổi học tại trường thì
trường học phải có trách nhiệm quản lý, giáo dục học sinh, trong thời gian này, cha
mẹ không còn trách nhiệm quản lý nữa, nếu người dưới 15 tuổi gây ra thiệt hại thì
nhà trường sẽ phải chịu trách nhiệm bồi thường vì nhà trường đã không hoàn thành
nhiệm vụ của mình trong việc quản lý, giáo dục người đó. Tuy nhiên nếu trường
học chứng minh được mình không có lỗi trong quản lý và trong việc để thiệt hại
xảy ra thì cha, mẹ hoặc người giám hộ của người chưa thành niên sẽ phải chịu
trách nhiệm bồi thường. Ví dụ như việc gây thiệt hại diễn ra ngoài giờ học tại
trường, đang trong thời gian từ trường về nhà, từ nhà tới trường thì không thuộc
trách nhiệm quản lí của nhà trường, người dưới 15 tuổi trong thời gian học tập mà
vượt rào trốn ra ngoài gây thiệt hại trong khi nhà trường không có biện pháp ngăn
chặn thì trường học phải bồi thường thiệt hại xảy ra.
4. Đối với người mất năng lực hành vi dân sự
Khoản 3 điều 606 BLDS 2005 quy định: “ Người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại mà có người giám hộ thì người giám hộ
đó được dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường; nếu người được
giám hộ không có tài sản hoặc không đủ tài sản để bồi thường thì người giám hộ
phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu người giám hộ chứng minh được mình

không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải lấy tài sản của mình để bồi
thường.”
Theo đó, người được giám hộ gây thiệt hại cho người khác thì người giám
hộ dùng tài sản của người được giám hộ để bồi thường thiệt hại. Vì người giám hộ
thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của người được giám hộ, do đó họ cũng phải chịu trách nhiệm
11


pháp lí trong khi thực hiện việc giám hộ của mình, khi người được giám hộ gây
thiệt hại thì chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại. Nhưng trách nhiệm ở đây chỉ là
nghĩa vụ bổ sung ,nếu họ chứng minh được rằng họ không có lỗi trong việc giám
hộ thì họ không phải lấy tài sản của mình để bồi thường. Trong trường hợp người
được giám hộ không có khả năng bồi thường và người giám hộ không có lỗi thì sẽ
không có người bồi thường thiệt hại. Lúc này, thiệt hại sẽ chỉ xem như là rủi ro và
người bị thiệt hại phải chấp nhận. Như vậy, người giám hộ chứng minh được mình
không có lỗi trong việc giám hộ thì không phải bồi thường. Quy định như vậy
nhằm giải phóng trách nhiệm dân sự của người giám hộ và khuyến khích cá nhân,
tổ chức nhận giám hộ những người chưa thành niên, mất năng lực hành vi dân sự
khi họ không còn cha mẹ, thân thích.
Đối với trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự khi đang được bệnh
viện, tổ chức khác quản lý mà gây thiệt hại thì áp dụng theo khoản 2 điều 621
BLDS 2005: “ Người mất năng lực hành vi dân sự gây thiệt hại cho người khác
trong thời gian bệnh viện, tổ chức khác trực tiếp quản lý thì bệnh viện, tổ chức
khác phải bồi thường thiệt hại xảy ra.”. Tương tự như trường hợp trường học đối
với người dưới 15 tuổi đã phân tích ở trên thì trách nhiệm bồi thường thiệt hại
thuộc về bệnh viện, tổ chức đang có nghĩa vụ quản lý trực tiếp. Quy định này có ý
nghĩa không những về mặt pháp lí mà còn có ý nghĩa trên thực tế đời sống xã hội.
Nó ràng buộc trách nhiệm của bệnh viện, tổ chức xã hội phải có công tác quản lí
người bị mất năng lực hành vi dân sự một cách hiệu quả nhất.

IV. Đánh giá về các quy định của pháp luật về năng lực chịu trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của cá nhân theo BLDS 2005
1. Ưu điểm

12


BLDS 2005 đã có những quy định về vấn đề trách nhiệm của cá nhân về bồi
thường thiệt hại tương đối đầy đủ, nhà làm luật đã phân loại chủ thể chịu trách
nhiệm theo tiêu chí độ tuổi và năng lực hành vi dân sự là rất hợp lý.
Việc pháp luật quy định chủ thể chịu trách nhiêm bồi thường thiệt hại trong
trường hợp cá nhân gây thiệt hại là người chưa thành niên, bị mất năng lực hành vi
dân sự là cha mẹ, người giám hộ, người đại diện khi vi phạm nghĩa vụ trong hợp
đồng giao kết vì quyền, lợi ích của người được đại diện một mặt đả bảo được
quyền lợi của người bị thiệt hại, một mặt tăng cường trách nhiệm của cha, mẹ,
người giám hộ, người đại diện theo pháp luật của cá nhân có hành vi gây thiệt hại.
Bên cạnh việc quy đinh năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối
với từng chủ thể, BLDS còn quy định, dự liệu trước những trường hợp riêng để
thuận tiện trong việc áp dụng vào thực tế như bồi thường thiệt hại đối với cán bộ,
công chức, người có thẩm quyền thuộc cơ quan tố tụng…
2. Hạn chế
Mặc dù có ưu điểm như trên nhưng các quy định của pháp luật về vấn đề ày
vẫn còn nhiều thiếu sót, chưa điều chỉnh được hết các tranh chấp nảy sinh trong
thực tiễn. Do đó, việc giải quyết các vụ việc gặp phải những vướng mắc trong việc
áp dụng các quy định pháp luật.
Thứ nhất, đối với người trên 18 tuổi mà gây thiệt hại thì tự chịu trách nhiệm
bồi thường bằng tài sẩn của mình. Tuy nhiên, xét trên thực tế, có rất nhiều người
trên 18 tuổi nhưng không đi làm mà tiếp tục học tập tại các cơ sở giáo dục, họ hoàn
toàn không có thu nhập cùng với tài sản riêng, toàn bộ chi phí học tập và sinh hoạt
đều do gia đình chu cấp. Nếu như họ có hành vi gây thiệt hại thì không có tài sản

để bòi thường mà cha mẹ lại không tự nguyện bồi thường thay thì không thể đảm

13


bảo nguyên tắc bồi thường toàn bộ và kịp thời, quyền lợi của người bị thiệt hại
không được đảm bảo.
Thứ hai, về vấn đề bồi thường thiệt hại do người dưới 15 tuổi, người mất
năng lực hành vi dân sự gây ra trong thời gian chịu sự quản lý của trường học,
bệnh viện.Theo điều 621, nếu bên trường học, bệnh viện chứng minh được mình là
người không có lỗi thì sẽ không có trách nhiệm phải bồi thường. Tuy nhiên, việc
chứng minh được lại rất khó khăn và phức tạp. Hiện tại, vẫn chưa có một văn bản
pháp luật nào quy định chi tiết đường lối để giải quyết vấn đề này, cần thiết phải
quy định cụ thể hơn trong văn bản luật để từ đó có những nguyên tắc chung để xác
định căn cứ trong việc chứng minh trường học, bệnh viện không có lỗi.
Thứ ba, cũng về khoản 1 và 2 điều 621 BLDS, điều luật này quy định vô
cùng thiếu sót khi quy định tại khoản 1 về trường học đối với người dưới 15 tuổi,
khoản 2 về bệnh viện đối với người mất năng lực hành vi dân sự. Vậy một câu hỏi
được đặt ra là người mất năng lực hành vi dân sự mà đi học tại trường học, người
dưới 15 tuổi ở bệnh viện mà gây thiệt hại thì xử lý như thế nào, có áp dụng tương
tự pháp luật không.
Thứ tư, ở điều 606 BLDS không có đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt
hại trong trường hợp người gây thiệt hại là người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự. Vậy khi những người này thực hiện hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho
người khác thì chủ thể nào sẽ phải đứng ra bồi thường. Do đó, rất cần pháp luật bổ
sung thêm điều luật điều chỉnh đối tượng này vì trường hợp này không phải không
có trong thực tế.
Thứ năm, trường hợp người gây thiệt hại nhưng chủ thể trực tiếp quản lý
người đó có trách nhiệm phải bồi thường nhưng nếu trong khoảng thời gian xác


14


định thiệt hại gây ra mà tổ chức đó không còn tồn tại thì pháp luật không có quy
định nào dẫn đến khó khăn trong việc xử lý.
Với những hạn chế đó, các nhà làm luật cần nhanh chóng có sự sửa đổi, bổ
sung luật hoặc ban hành các văn bản hướng dẫn để khắc phục những vướng mắc,
tranh chấp dân sự trong vấn đề này.
KẾT LUẬN
Qua việc tìm hiểu về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại do cá
nhân gây ra, ta thấy không phải cá nhân nào gây ra thiệt hại cũng đều phải tự mình
bồi thường mà đó có thể là cha mẹ, người giám hộ… Việc quy định như thế này
nhằm nhấn mạnh vai trò quản lý của cha, mẹ, người giám hộ với cá nhân gây thiệt
hại, đồng thời cũng giúp bảo vệ được tốt nhất quyền và lợi ích cho người bị thiệt
hại. Mặc dù các điều luật đã được quy định khá cụ thể tuy nhiên nhiều thiếu sót
vẫn còn tồn tại do các nhà làm luật vẫn chưa dự liệu hết đợ các trường hợp có thể
phát sinh trong đời sống xã hội. Vì vậy, đòi hỏi các nhà làm luật cần sửa đổi, bổ
sung những quy định mới phù hợp và đón đầu với sự phát triển của xã hội.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Bộ luật dân sự 2005
2.Giáo trình Luật dân sự Việt Nam II, trường đại học Luật Hà Nội, NXB Công an
nhân dân, 2004
15


3.Hướng dẫn môn học luật dân sự tập 2, TS.Phạm Văn Tuyết/TS. Lê Kim Giang,
NXB Tư pháp,2015
4.Luận văn “ Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của
cá nhân- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, Phùng Trung Tập.


16



×