ĐỀ BÀI:
Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân theo quy
định của pháp luật hiện hành-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn
MỞ BÀI
Các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
(TNBTTHNHĐ) đã được ghi nhận một cách tương đối đầy đủ trong Bộ Luật
Dân sự (BLDS) và các văn bản hướng dẫn, tạo ra cơ sở pháp lý cho các Toà án
trong công tác xét xử những tranh chấp liên quan tới trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng. Tuy nhiên, các quy định của pháp luật nước ta về
TNBTTHNHĐ chưa có sự thống nhất với các quy định trong những phần khác
của BLDS gây ra tình trạng khó áp dụng luật trong thực tiễn tại các Toà án, nhất
là các vụ việc có liên quan đến xác định năng lực chịu trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của cá nhân ngoài hợp đồng. Vậy nên, chúng ta cùng đi vào nghiên cứu
vấn đề: Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân theo quy
định của pháp luật hiện hành-Một số vấn đề lý luận và thực tiễn.
NỘI DUNG
I.TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
1.Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Điều 604 BLDS 2005 quy định:
“1. Người nào do lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp khác của cá nhân,
câm phạm danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân hoặc chủ thể khác mà gây thiệt
hại thì phải bồi thường.
1. Trong trường hợp pháp luật quy định người gây thiệt hại phải bồi
thường cả trong trường hợp không có lỗi thì áp dụng quy định đó.”
Như vậy, theo quy định tại Điều 604 BLDS thì trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng (TNBTTHNHĐ) phát sinh khi người có hành vi trái
pháp luật có lỗi gây thiệt hại cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ. Ngoài ra,
pháp luật cũng quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng áp
dụng ngay cả trong trường hợp không có lỗi như thiệt hại do nguồn nguy hiểm
cao độ gây ra, thiệt hại do làm ô nhiễm môi trường… Dưới góc độ khoa học
pháp lý, trách nhiệm bồi thường thiệt hại (BTTH) trong trường hợp này được gọi
là trách nhiệm nâng cao.
Vậy ta có thể đưa ra khái niệm về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng như sau:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một loại trách nhiệm
pháp lý được phát sinh dựa trên các điều kiện do pháp luật quy định khi một chủ
thể có hành vi gây thiệt hại cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ.
2.Điều kiện làm phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng
Căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là
theo quy định tại mục 1 phần I Nghị quyết số 03/2006/NQ-HĐTP ngày
08/07/2006 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về nguyên tắc phát
sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Theo đó, trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng chỉ phát sinh khi có đầy đủ các yếu tố sau: phải
có thiệt hại xảy ra, hành vi gây thiệt hại là hành vi trái pháp luật, có mối quan hệ
2
nhân quả giữa thiệt hại xảy ra và hành vi trái pháp luật, có lỗi của người gây
thiệt hại trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Lỗi không phải là điều kiện
bắt buộc làm phát sinh trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng, trong một số trường
hợp, trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng phát sinh ngay cả khi người gây thiệt
hại không có lỗi (Khoản 3 Điều 623, Điều 624 BLDS 2005).
3.Nguyên tắc bồi thường thiệt hại
Việc BTTH ngoài hợp đồng phải tuân theo các nguyên tắc sau:
- Thiệt hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời. Các bên có thể thỏa thuận
về mức bồi thường, hình thức bồi thường bằng tiền, bằng hiện vật hoặc thực
hiện một công việc, phương thức bồi thường một lần hoặc nhiều lần, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
- Người gây thiệt hại có thể được giảm mức bồi thường, nếu do lỗi vô ý mà gây
thiệt hại quá lớn so với khả năng kinh tế trước mắt và lâu dài của mình.
- Khi mức bồi thường không còn phù hợp với thực tế thì người bị thiệt hại hoặc
người gây thiệt hại có quyền yêu cầu tòa án hoặc cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thay đổi mức bồi thường.
4. Ý nghĩa của trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng
Trách nhiệm BTTTHNHĐ nhằm khắc phục những hậu quả về tài sản, phục hồi
tình trạng tài sản của người bị thiệt hại trong phạm vi, khả năng nhất định, đảm
bảo lợi ích của người bị thiệt hại. Giải quyết việc BTTHNHĐ là áp dụng một
biện pháp trách nhiệm dân sự, được thể hiện theo một bản án dân sự hay một
quyết định dân sự, trong một bản án dân sự về nguyên tắc thì thiệt hại phải được
bồi thường một cách toàn bộ và kịp thời (Điều 605 BLDS). Điều này có ý nghĩa
rất quan trọng khi thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của cá nhân bị xâm hại. Việc
quyết định bồi thường kịp thời có ý nghĩa rất quan trọng đối vơi nạn nhân trong
việc cứu chữa, khôi phục lại tình trạng ban đầu của tài sản bị xâm phạm. Ngoài
3
ra, TNBTTH không chỉ nhằm bảo đảm việc đền bù tổn thất đã gây ra, mà còn
giáo dục mọi người về ý thức tuân thủ pháp luật, bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa,
tôn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
II.NĂNG LỰC CHỊU TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA
CÁ NHÂN DO GÂY THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
Hành vi gây thiệt hại có thể được thực hiện bởi bất cứ chủ thể nào. Tuy
nhiên không phải chủ thể nào gây thiệt hại cũng có khả năng để thực hiện việc
bồi thường. BLDS 2005 quy định trách nhiệm bồi thường trong nhiều trường
hợp, tình huống cụ thể, có trường hợp trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh
do tài sản gây ra, có trường hợp trách nhiệm này phát sinh do con người gây ra,
có trường hợp người của pháp nhân, người của cơ quan nhà nước gây thiệt hại…
Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cá nhân là khả năng
một chủ thể thực hiện việc bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của
mình hay của người khác gây ra, dẫn đến thiệt hại về tài sản, tính mạng, danh dự,
nhân phẩm, uy tín. BLD quy định về năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt
hại của cá nhân, không quy định về năng lực bồi thường của các chủ thể khác.
Do vậy, có thể hiểu mặc nhiên các chủ thể khác gây thiệt hại sẽ được coi là có
năng lực chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường của cá nhân theo pháp luật hiện
hành được quy định tại Điều 606 BLDS 2005 và hướng dẫn tại mục 3 phần I
Nghị quyết 03/2006/HĐTP-TANDTC ngày 08/07/2006 của Hội đồng thẩm phán
Toà án nhân dân tối cao. Theo đó, năng lực này phụ thuộc vào độ tuổi, tình trạng
tài sản của cá nhân đó và khả năng bồi thường thiệt hại. Trong những yếu tố trên,
yếu tố về độ tuổi chiếm vị trí chủ đạo để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt
hại thuộc về chính cá nhân gây ra thiệt hại hay là cha, mẹ; người giám hộ; trường
học, bệnh viện hay tổ chức khác của người gây thiệt hại, vì độ tuổi là căn cứ để
xác định khả năng nhận thức của cá nhân đối với hành vi của mình.
4
1.Đối với cá nhân từ đủ 18 tuổi trở lên và có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
Khoản 1 Điều 606 BLDS quy định: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên gây thiệt
hại thì phải tự bồi thường.” Khi xem xét mối liên hệ giữa quy định này với quy
định tại khoản 3 Điều 606 BLDS thì thấy rằng: Người có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ thì phải tự mình bồi thường thiệt hại khi gây thiệt hại, cũng có nghĩa là
trong trường hợp này người gây thiệt hại là bị đơn dân sự trước tòa án (Mục 3.1
phần I Nghị quyết 03/2006/NQ–HĐTP). Việc bồi thường khi người gây thiệt hại
trên 18 tuổi và có đủ năng lực hành vi dân sự không phụ thuộc vào tình trạng tài
sản của người này
Việc xác định người từ đủ mười tám tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ phải bồi thường cho những thiệt hại mà mình gây ra là hoàn toàn phù
hợp. Bởi lẽ, người từ đủ mười tám tuổi trở lên có đủ điều kiện tham gia vào các
quan hệ pháp luật do vây, họ hoàn toàn có năng lực để tham gia và trở thành chủ
thể của quan hệ BTTH và nếu là người gây thiệt hại thì họ hoàn toàn có đủ năng
lực để thực hiện trách nhiệm bồi thường. Ở độ tuổi này, họ đã có khả năng lao
động, có thể tạo ra thu nhập, hình thành khối tài sản riêng của mình.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy, một bộ phận không nhỏ trong số những người từ đủ
mười tám tuổi trở lên là những người mới trưởng thành, họ vẫn còn đi học, chưa
có công việc làm, chưa có thu nhập hay tài sản đáng kể, vẫn sống phụ thuộc vào
cha, mẹ. Vậy, trong trường hợp những người từ đủ mười tám tuổi, có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ nhưng không có tài sản riêng gây thiệt hại thì trách nhiệm
bồi thường thuộc về ai? Nếu họ vẫn là những người phải chịu trách nhiệm BTTH
thì họ phải thực hiện trách nhiệm đó như thế nào? Nếu họ không thực hiện được
thì phải chăng họ phải gánh chịu những hậu quả pháp lí bất lợi và những người
bị thiệt hại cũng không được bồi thường? Đây là một tình huống xảy ra khá phổ
biến trong những vụ về xác định trách nhiệm BTTH ngoài hợp đồng. Nếu Tòa án
áp dụng một cách tuyệt đối và cứng nhắc những quy định của pháp luật thì sẽ
5
phải hoãn việc thi hành án cho đến khi người gây thiệt hại là người mới trưởng
thành có việc làm, có thu nhập. Tuy nhiên, việc làm này lại trái với nguyên tắc
bồi thường toàn bộ và kịp thời, không đảm bảo khôi phục lại tình trạng ban đầu
hoặc khắc phục thiệt hại một cách nhanh nhất, đảm bảo cuộc sống ổn định cho
người bị thiệt hại trước khi bị xâm phạm. Vậy nên chăng trong trường hợp này
Toà án có thể chủ động giải thích, khuyến khích cha mẹ người thành niên đó tự
nguyện bồi thường thiệt hại do người mới trưởng thành gây ra. Toà án có thể
công nhận sự tự nguyện đó, những về mặt pháp lý, không thể quyết định cha mẹ
họ phải bồi thường.
2. Đối với người dưới 18 tuổi và người mất năng lực hành vi dân sự
Điều 18 BLDS 2005 quy định: “Người chưa đủ mười tám tuổi là người
chưa thành niên”. Người chưa thành niên là những người bắt đầu có sự nhận
thức về hành vi của mình, tuy nhiên sự nhận thức này vẫn còn những hạn chế
nhất định. Căn cứ vào độ tuổi và trình độ nhận thức và khả năng chịu trách
nhiệm BTTH ngoài hợp đồng, pháp luật dân sự Việt Nam phân chia người chưa
thành niên thành hai nhóm: những người dưới 15 tuổi và những người từ đủ 15
tuổi đến dưới 18 tuổi. Theo đó, năng lực chịu trách nhiệm BTTH của hai nhóm
này cũng không giống nhau.
Khoản 2 và khoản 3 Điều 606 BLDS quy định về trường hợp người chưa
thành niên và người bị mất năng lực hành vi dân sự. Có thể chia làm các trường
hợp: chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là cha mẹ; người giám hộ
hoặc trường học, bệnh viện, tổ chức khác.
2.1 Chủ thể chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại là cha mẹ
2.1.1.Với người dưới 15 tuổi
Khoản 2 Điều 606 BLDS 2005 quy định: “Người chưa thành niên dưới
mười lăm tuổi gây thiệt hại mà còn cha mẹ thì cha, mẹ phải bồi thường toàn bộ
thiệt hại; nếu tài sản của cha mẹ không đủ để bồi thường mà con chưa thành niên
6
gây thiệt hại có tài sản riêng thì lấy tài sản đó để bồi thường phần còn thiếu, trừ
trường hợp quy định tại Điều 621 Luật này”. Như vậy, trách nhiệm BTTH do
người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi gây thiệt hại trước tiên được xác định
cho cha, mẹ của người đó.
Người chưa thành niên dưới mười lăm tuổi, do chưa phát triển đầy đủ về mặt thể
chất cũng như nhận thức nên thường là những đối tượng dễ uốn nắn, dễ bị ảnh
hưởng, tác động từ bên ngoài. Sự giáo dục của cha mẹ trong giai đoạn này có
tính chất quyết định đến việc định hình nhân cách của người chưa thành niên sau
này. Người đó sẽ trở thành một công dân tốt hay xấu phần lớn phụ thuộc vào sự
phát triển trong giai đoạn này. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định
vấn đề BTTH do con dưới mười lăm tuổi gây ra tại Điều 40 như sau: “Cha mẹ
phải bồi thường thiệt hại cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng
lực hành vi dân sự gây ra theo quy định tại Điều 611 của Bộ luật dân sự năm
1995”. Ngoài ra, Điều 17 Luật Bảo vệ, giáo dục và chăm sóc trẻ em ngày
12/08/1991 cũng quy định: “Cha mẹ, người đỡ đầu phải chịu trách nhiệm hành
chính, trách nhiệm dân sự về những thiệt hại do hành vi của những đứa trẻ mình
nuôi dạy gây ra”. Kết hợp với các quy định tại Điều 609 BLDS 2005 có thể thấy,
pháp luật nước ta rất coi trọng trách nhiệm và nghĩa vụ của cha mẹ trong việc
BTTH do hành vi trái pháp luật của con từ dưới mười lăm tuổi gây ra. Chính vì
thế, cha mẹ của những người gây thiệt hại trong độ tuổi này có tư cách bị đơn
dân sự, có nghĩa vụ bồi thường toàn bộ cho thiệt hại do hành vi trái pháp luật của
con, trong khi chính cá nhân gây thiệt hại lại hoàn toàn không có trách nhiệm bồi
thường.
2.1.2.Với người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi
Khoản 2 Điều 606 BLDS cũng quy định: “Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18
tuổi gây thiệt hại thì phải bồi thường bằng tài sản của mình; nếu không đủ tài sản
để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu bằng tài sản của
mình.”
7
Đối với người từ đủ 15 tuổi đến 18 tuổi, đây là độ tuổi nhận thức đã khá
hoàn thiện và cũng có rất nhiều người đã lao động có thu nhập hoặc có tài sản
riêng. Người từ đủ 15 tuổi đến 18 tuổi được pháp luật quy định là có năng lực
hành vi dân sự không đầy đủ, nhưng khả năng nhận thức của họ đã phát triển, vì
vậy ngoài việc được thực hiện những giao dịch dân sự nhằm phục vụ nhu cầu
sinh hoạt hàng ngày, họ còn được phép thực hiện những giao dịch dân sự khác,
thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự nếu có tài sản. Vì vậy, việc pháp luật quy
định khi gây ra thiệt hại thì những người này phải bồi thường thiệt hại bằng tài
sản của mình là hoàn toàn hợp lý. Hơn nữa, quy định này cũng phù hợp với
nhiều quy định pháp luật ở các bộ luật khác: theo quy định của Bộ luật lao động
Việt Nam được sửa đổi, bổ sung năm 2006, thì họ đã có quyền tham gia vào các
hợp đồng lao động và có tư cách tố tụng đối với những tranh chấp liên quan đến
hợp đồng lao động đó. Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, con từ đủ 15
tuổi cũng có những trách nhiệm nhất định để chăm lo đời sống gia đình, và nếu
có thu nhập thì đóng góp vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình. Như vậy, người
từ đủ 15 tuổi đã có thể có tài sản riêng, phần nào ý thức được nghĩa vụ và trách
nhiệm, định đoạt được ý chí của mình khi tham gia vào các quan hệ dân sự phổ
biến. Họ có một phần năng lực hành vi dân sự để chịu trách nhiệm đối với hành
vi của mình trước Tòa án, vì vậy pháp luật mới quy định về nghĩa vụ bồi thường
thiệt hại bằng tài sản riêng của người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi.
Trong trường hợp con đã đủ 15 tuổi nhưng chưa có tài sản riêng, hoặc
không đủ tài sản để bồi thường thì cha, mẹ phải bồi thường phần còn thiếu, vì
người từ đủ 15 tuổi đến 18 tuổi mặc dù khả năng nhận thức đã rất cao, nhưng
vẫn chưa trưởng thành và vẫn còn cần sự giáo dục, quản lý của cha mẹ, dễ có
những hành vi mà chưa lường hết được hậu quả. Vì vậy quy định này vừa nhằm
bảo đảm quyền lợi hợp pháp của người bị thiệt hại, vừa góp phần nâng cao trách
nhiệm giáo dục con trong gia đình của cha, mẹ.
2.1.3.Với người bị mất năng lực hành vi dân sự
8