Trình bày khái niệm công chứng
Công chứng xuất hiện tại Việt Nam là vào những năm 30 của thế
kỷ XX, do người Pháp đưa vào Việt Nam. Nhưng mãi đến năm
1987, công chứng mới được đề cập lần đầu tiên trong hệ thống
pháp luật Việt Nam. Tại thời điểm này, công chứng được hiểu là
“Công quyền đứng ra làm chứng”, cụ thể là nhà nước trao thẩm
quyền cho một tổ chức hành nghề công chứng và được phép nhân
danh nhà nước để xác định các quan hệ giao dịch dân sự và
thương mại. Công chứng được gọi là “trưởng khế”.
Trước Luật công chứng 2006, công chứng có có nhiều định nghĩa,
trong đó có 4 định nghĩa cơ bản như định nghĩa được ghi nhận tại
TT 1974 của BTP năm 1987; định nghĩa được ghi nhận tại Điều 1
NĐ 45/1991 của HĐBT; định nghĩa được ghi nhận tại NĐ 31/1996
của CP; định nghĩa được ghi nhận tại NĐ 75/2000 của CP.
Các định nghĩa trong các văn bản trên có sự khác nhau, nhưng đều
có điểm chung, đó là: Công chứng là hoạt động của nhà nước,
được ủy quyền cho một tổ chức, đó là các tổ chức hành nghề công
chứng; Công chứng là việc chứng nhận tính xác thực của các HĐ,
giấy tờ theo quy định của pháp luật; Các hoạt động công chứng
nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các tổ chức
khác; Các loại giấy tờ đã được công chứng có giá trị chứng cứ.
Đến Luật công chứng ra đời năm 2006 khái niệm Công chứng ghi
nhận tại Điều 2 Luật công chứng 2006, “Công chứng là việc công
chứng viên công nhận tính xác thực, tính hợp pháp của HĐ, GD
khác (sau đây gọi là HĐGD) bằng văn bản mà quy định của pháp
luật phái công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu
công chứng”.
Dựa vào định nghĩa trên, có thể thấy công chứng có các đặc điểm:
- Hoạt động công chứng do công chứng viên thực hiện.
- Nội dung công chứng là xác định tính xác thực, tính hợp pháp của
hợp đồng giao dịch. Tính xác thực của các tình tiết, sự kiện có
trong văn bản đó đã được công chứng viên xác nhận. Công chứng
viên kiểm chứng và xác nhận các tình tiết, sự kiện có xảy ra trong
thực tế, trong số đó có cả tình tiết, sự kiện chỉ xảy ra một lần,
không để lại hình dạng, dấu vết về sau, đó do, nếu không có công
chứng viên xác nhận thì về sau rất dễ xảy ra tranh chấp mà toà án
không thể xác minh được. Đồng thời, công chứng viên cũng kiểm
tra và xác nhận tính hợp pháp của hợp đồng giao dịch.
- Có hai loại hợp đồng giao dịch thực hiện hoạt động công chứng,
đó là các loại hợp đồng giao dịch theo yêu cầu của pháp luật bắt
buộc phải công chứng và các hợp đồng giao dịch do cá nhân, tổ
chức tự nguyện yêu cầu công chứng.
- Văn bản công chứng có hiệu lực thi hành đối với các bên có liên
quan trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ
của mình, bên kia có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết theo quy
định của pháp luật, trừ trường hợp các bên tham gia HĐGD có thỏa
thuận khác.
Đồng thời, văn bản công chứng có giai trị chứng cứ, những tình tiết
sự kiện trong văn bản công chứng không phải chứng minh, trừ
trường hợp bị tòa án tuyên bố là vô hiệu.
- Ý nghĩa pháp lý của hoạt động công chứng là bảo đảm giá trị
thực hiện cho các hợp đồng giao ý dịch, phòng ngừa tranh chấp và
cung cấp chứng cứ nếu có tranh chấp xảy ra.
Như vậy có thể hiểu, Công chứng là hành vi của công chứng viên
lập, chứng nhận tính xác thực của các giao dịch nhằm đảm bảo an
toàn pháp lý cho các chủ thể tham gia giao dịch, phòng ngừa
tranh chấp và vi phạm pháp luật. Văn bản công chứng có giá trị
thực hiện và giá trị chứng cứ.
Để hiểu sau thêm khái niệm công chứng, ta xem xét tình huống:
Ngày 20/8/2011, chị Bình làm hợp đồng mua nhà của chị Vân với
giá 300 triệu. Chị Bình đặt cọc trước 100 triệu, sau ba tháng chị
Bình trả đủ tiền thì chị Vân giao giấy tờ nhà. Khi chị Bình đến giao
thì quá ba ngày và chị Vân không bán nữa và cũng giữ lại 100 triệu
tiền cọc (vì trong hợp đồng có thỏa thuận nếu một bên không thực
hiện hợp đồng thì phải chịu cọc). Lúc này, nếu chị Bình muốn mua
thì phải trả thêm 50 triệu nữa. Chị Bình không đồng ý, khởi kiện ra
tòa yêu cầu một là chị Vân tiếp tục thực hiện hợp đồng hoặc phải
trả lại tiền cọc.
Trước tòa cả hai đều đệ trình hợp đồng mua bán nhà nhưng có
công chứng.
Theo quy định tại Điều 450 BLDS thì hợp đồng mua bán nhà ở phải
được lập thành văn bản, có công chứng hoặc chứng thực, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác. Vì vậy, hợp đồng mua bán
hợp đồng trên có hiệu lực.
Khi giải quyết vụ việc, Tòa án sẽ coi hợp đồng mua bán nhà ở lập
giữa chị Bình và chị Vân như một chứng cứ để giải quyết vụ việc.