Tải bản đầy đủ (.docx) (115 trang)

Giám đốc thẩm, tái thẩm trong giải quyết tranh chấp đất đai tại tòa án

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (829.32 KB, 115 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NINH THỊ KHÁNH TÂN

GI¸M §èC THÈM, T¸I THÈM
TRONG GI¶I QUYÕT TRANH CHÊP §ÊT §AI T¹I TßA¸N

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NINH THỊ KHÁNH TÂN

GI¸M §èC THÈM, T¸I THÈM
TRONG GI¶I QUYÕT TRANH CHÊP §ÊT §AI T¹I TßA¸N
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG QUANG PHƢƠNG

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Ninh Thị Khánh Tân


MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng, bảng phụ lục
Danh mục biểu đồ phụ lục

Trang
MỞ
ĐẦU
..........
..........
..........
..........
..........

..........
..........
..........
..........
..........
..........
......1
C
h
ƣ
ơ
n
g
1
:
N
H

N
G
V

N
Đ

C


K ân
N

s sự. .........
...............



TỤNG DÂN

...............

N

SỰ ...................................................

.....25

H

....7

Quy định

C

HUNG VỀ GIÁM ĐỐC
THẨM, TÁI
THẨM TRONG TỐ

T
ĐỊ


1

.2.

của Bộ



.

1.2.1. 1.2.2. 1.3.

luật Tố

A

1

1.3.1.

tụng dân

T

sự về

Ò

giám đốc


A

1

thẩm, tái

Á

.

thẩm.......

N

1

......27

Đ

.
1.3.2.

.
1
.
1
.
1
.

2
.
1
.
1
.
3
.

Ã

Ch
ƣơn
g 2:
TH
ỰC
TIỄ
N
GIÁ
M
ĐỐ
C
TH
ẨM,
TÁI
TH
ẨM

C
BẢ

N

C
Ó
H
IỆ
U
L

C
P
H
Á
P
L
U

1

Á



.

N

T

1


,

T
R

.
4

Q

O

.

U

N

1

Y

G


GIẢI QUYẾT TRANH
CHẤP ĐẤT
ĐAI ...................50
2


Các tranh chấp đất

.

đai thuộc thẩm quyền

1

giải quyết của Tòa án

.

nhân
dân.........................................
................................................

2
.
2
.

............50
Kết quả giám đốc
thẩm, tái thẩm các bản
án, quyết định của Tòa
án đã có hiệu lực pháp luật

2
.

3
.

trong giải quyết tranh chấp
đất đai..........53
Những vi phạm, sai
lầm trong giám đốc
thẩm, tái thẩm các
bản
án, quyết định của Tòa án đã
có hiệu lực về tranh chấp đất
đai ..........62


2.3.1.

Chất lượng kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm trong giải quyết
tranh chấp đất đai chưa được đảm bảo........................................................62

2.3.2.

Quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm còn chưa thực sự được Tòa án cấp
dưới tôn trọng và tồn tại tình trạng xét xử nhiều lần không có
điểm dừng....................................................................................................65

2.4.

Nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm trong giám đốc thẩm,
tái thẩm trong giải quyết tranh chấp đất đai..........................................73


2.4.1.

Quy định pháp luật tố tụng chưa đầy đủ và cụ thể......................................73

2.4.2.

Quy định của pháp luật về đất đai, giải quyết tranh chấp đất đai chưa
đồng bộ, cụ thể ............................................................................................79

2.4.3.

Trách nhiệm và trình độ của những người có thẩm quyền giám đốc
thẩm, tái thẩm ..............................................................................................79

2.4.4.

Công tác tổng hợp, ra văn bản hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp
luật chưa được thường xuyên, kịp thời .......................................................80
Chƣơng 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT
LƢỢNG GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM TRONG
GIẢI
QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI TÒA
ÁN ................................81
3.1.

Các yêu cầu nâng cao chất lƣợng giám đốc thẩm, tái

3.2.

thẩm..................81

Các giải pháp nâng chất lƣợng giám đốc thẩm, tái thẩm

3.2.1.

trong

3.2.2.

giải quyết tranh chấp đất đai tại Toà

3.2.3.

án .................................................82

3.2.4.

Hoàn thiện quy định về việc xử lý đơn thư, khiếu
nại ................................82 Hoàn thiện quy định về căn cứ kháng nghị giám

3.2.5.

đốc thẩm, tái thẩm .........83 Hoàn thiện quy định về thẩm quyền kháng nghị
giám đốc thẩm, tái thẩm.......86

3.2.6.

Hoàn thiện quy định về thẩm quyền và quyền hạn xét xử giám

3.2.7.


đốc

3.2.8

thẩm, tái

.

thẩm ..............................................................................................87
Hoàn thiện quy định về rút quyết định kháng nghị giám đốc
thẩm,
tái


t ư
T


t

đổi nghiệp vụ, giải đáp các vướng mắc trong quá trình giải

r

quyết các loại án, đặc biệt là án

n

a


tranh chấp về đất

g

o

đai....................................................................................90

x
u
y
ê
n
t

c
h

c
c
á
c
c
h
ư
ơ
n
g
t
r

ì
n
h


3.2.9.

Nâng cao nhận thức pháp luật của nhân dân về giám đốc thẩm, tái
thẩm, nâng cao kiến thức pháp luật trong nhân dân....................................90

3.2.10. Giải pháp khác.............................................................................................91
KẾT LUẬN ..............................................................................................................92
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................93 PHỤ
LỤC .................................................................................................................99


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS:
CHXHCNVN:
GCNQSDD:
HĐTP:
HĐXX:

Bộ luật Tố tụng dân sự
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất
Hội đồng thẩm phán
Hội đồng xét xử

PLTTGQCVADS: Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự

QSDD:

Quyền sử dụng đất

TAND:

Toà án nhân dân

TANDTC:

Toà án nhân dân tối cao

TTDS:

Tố tụng dân sự

ThS:

Thạc sĩ

UBND:

Ủy ban nhân dân

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC:


Viện kiểm sát nhân dân tối cao

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG, DANH MỤC BẢNG PHỤ LỤC
Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 2.1: Tình hình giải quyết, thụ lý đơn khiếu nại giám đốc
thẩm, tái thẩm của TAND

55

Bảng 2.2: Tình hình giải quyết, thụ lý đơn khiếu nại giám đốc
thẩm, tái thẩm của Tòa dân sự TANDTC

57

Bảng 2.3: Tình hình xét xử giám đốc thẩm, tái thẩm các vụ án

57

dân sự
Bảng 2.4: Số vụ tranh chấp đất đai được giải quyết theo thủ tục

giám đốc thẩm, tái thẩm
Số hiệu bảng

Tên bảng phụ lục

58
Trang

Bảng 1.1: Điểm mới trong BLTTDS về thủ tục giám đốc thẩm, tái
thẩm so với PLTTGQCVADS

100


DANH MỤC BIỂU ĐỒ PHỤ LỤC
Số hiệu biểu đồ

Tên biểu đồ

Trang

Biểu đồ 2.1: Số liệu giải quyết Giám đốc thẩm các loại vụ án của
ngành Tòa án qua các năm

102

Biểu đồ 2.2: số liệu giải quyết Giám đốc thẩm các vụ án Dân sự của
ngành Tòa án qua các năm

103



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Bộ luật tố tụng dân sự (BLTTDS) được ban hành năm 2004, sau hơn 7 năm
thi hành đã thể hiện một số bất cập, mâu thuẫn gây khó khăn, vướng mắc trong quá trình
thực hiện. Tại kỳ họp thứ 9 ngày 29/3/2011, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam (CHXHCNVN) khóa XII đã thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
BLTTDS. Với mục đích tối thượng là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, với
hệ thống những nguyên tắc cơ bản trong hoạt động tố tụng: trình tự, thủ tục khởi kiện, xét
xử, sự tham gia tố tụng dân sự của các chủ thể... được BLTTDS quy định nhằm mục đích
giải quyết các tranh chấp dân sự được chính xác, công bằng và đúng pháp luật. Tòa án là
cơ quan duy nhất có chức năng xét xử trong hệ thống các cơ quan tư pháp ở nước ta. Các
tranh chấp dân sự hằng năm ngành Tòa án phải thụ lý giải quyết vô cùng lớn, trong đó
tranh chấp về đất đai là một mảng quan trọng, là một trong những loại tranh chấp phổ
biến, phức tạp nhất.
Đất đai là một loại tài nguyên đặc biệt, có giá trị lớn, cùng với sự phát triển của xã
hội và kinh tế, đất đai ngày càng chứng minh ý nghĩa quan trọng đối với con người, giá
đất ngày một đắt đỏ, thị trường bất động sản ngày một nóng, quyền sử dụng đất trở thành
một loại tài sản có giá trị lớn, có thể đưa vào góp vốn đầu tư kinh doanh. Tranh chấp đất đai
cũng vì thế mà diễn ra ngày một nhiều, gay gắt hơn và là đề tài nóng bỏng tại nhiều địa
phương trong cả nước, các đương sự trong tranh chấp thường khiếu kiện quyết liệt, gay
gắt, kéo dài… Có thể liệt kê rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tranh chấp đất đai như: Việc
quản lý đất đai còn nhiều thiếu sót, sơ hở; việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất tiến hành chậm; việc lấn chiếm đất đai diễn ra ngày càng phổ biến nhưng
không được ngăn chặn và xử lý kịp thời; đất đai từ chỗ chưa được thừa nhận có giá trị nay
trở thành tài sản có giá trị cao, thậm chí ở nhiều nơi, nhiều lúc giá đất tăng đột biến.
Nhà nước ta đã quy định nhiều phương thức giải quyết thuộc thẩm quyền của các
cơ quan khác nhau, trong đó, Tòa án nhân dân (TAND) là cơ quan giải quyết


1


tranh chấp đất đai với những cơ chế hữu hiệu và trình tự tố tụng riêng biệt. Trong
những năm qua, ngành Tòa án đã thụ lý và giải quyết rất nhiều các vụ tranh chấp đất đai,
nhìn chung Tòa án đã, đang và luôn cố gắng giải quyết tốt nhất, đúng đắn nhất các tranh
chấp đất đai theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên hoạt động xét xử là hoạt động của
con người cụ thể nên không thể tránh khỏi sai sót, hơn nữa trải qua nhiều giai đoạn lịch
sử khác nhau, trong quá trình đổi mới về kinh tế, những vấn đề cũ chưa giải quyết xong
thì vấn đề mới lại nảy sinh đan xen lẫn nhau, tạo ra những mâu thuẫn nội tại. Các văn
bản pháp luật hướng dẫn giải quyết các tranh chấp về đất đai ở từng thời kỳ lịch sử khá
nhiều và cũng khác nhau; nhiều quy định chỉ nêu chung chung, nhiều quy định lại chồng
chéo không nhất quán, việc giải thích và hướng dẫn của các cơ quan có thẩm quyền chưa
đầy đủ, kịp thời. Vì những nguyên nhân đó, dẫn đến hiện trạng là có những phán quyết
của Tòa án không đúng với sự thật khách quan hoặc trái pháp luật. Do vậy, cần có một cơ
chế xét lại các bản án, quyết định đó của Tòa án để đảm bảo tính hợp pháp, tính đúng
đắn trong các bản án, quyết định cũng như đảm bảo cho hoạt động của Tòa án khi giải
quyết các tranh chấp đúng pháp luật. Thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm trong tố tụng
dân sự ra đời nhằm khắc phục những sai lầm, thiếu sót đó trong quá trình xử lý vụ án dân
sự nói chung và các tranh chấp đất đai nói riêng. Thủ tục này được thực hiện trên cơ sở
một trong những nguyên tắc tố tụng cơ bản, đó là nguyên tắc Toà án cấp trên giám đốc
việc xét xử của Toà án cấp dưới, Toà án nhân dân tối cao giám đốc việc xét xử của Toà án
các cấp để bảo đảm việc áp dụng pháp luật được nghiêm chỉnh và thống nhất [24].
Trong thực tiễn thi hành BLTTDS cũng như thực hiện thủ tục giám đốc thẩm và
tái thẩm của Tòa án đã có tiến bộ, ngày càng chứng minh vai trò quan trọng trong các
hoạt động tố tụng của tòa án, tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, chất lượng xét xử
các vụ án dân sự nói chung và các vụ án về tranh chấp đất đai nói riêng chưa đáp ứng
được yêu cầu pháp chế xã hội chủ nghĩa (XHCN). Việc áp dụng các quy định pháp luật
về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm của Tòa án và một số quy định về thủ tục giám đốc
thẩm, tái thẩm chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế như: vấn đề khiếu nại, phát hiện bản

án, quyết định đã có hiệu lực mà có sai sót; thẩm

2


quyền giám đốc thẩm, tái thẩm; quyền hạn của Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm
… Chính những quy định chưa rõ ràng và đầy đủ trong BLTTDS đã gây ra những vướng mắc và
giảm hiệu quả công tác xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của ngành Toà
án. Do vậy, cần phải hoàn thiện các quy định về giám đốc thẩm, tái thẩm nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của Tòa án, đảm bảo mọi phán quyết đều đúng pháp luật, khách
quan, công bằng, đảm bảo cho lợi ích của nhà nước, lợi ích của nhân dân.
Trước thực trạng và yêu cầu như trên, tác giả chọn đề tài: "Giám đốc thẩm, tái
thẩm trong giải quyết tranh chấp đất đại tại tòa án" làm luận văn thạc sĩ luật học của
mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đã có một số công trình nghiên cứu về thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm
như: Luận văn Thạc sĩ luật học của Ngô Anh Dũng về đề tài "Thủ tục xét lại bản án,
quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật theo pháp luật tố tụng dân sự Việt Nam"
(năm 1996). Luận văn Thạc sĩ luật học của Dương Thị Thanh Mai về "Những vấn đề về trình
tự và thủ tục giám đốc thẩm dân sự" (năm 1997). Đề tài khoa học cấp bộ của Viện khoa
học kiểm sát- Viện kiểm sát nhân dân tối cao "Thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng dân
sự Việt Nam" (năm 2003) do Tiến sĩ Trần Văn Trung làm chủ nhiệm đề tài. Sách chuyên
khảo của Dương Thị Thanh Mai về "Tìm hiểu các quy định của pháp luật về thủ tục
giám đốc thẩm vụ án dân sự" (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, năm 2000). Nội dung
nghiên cứu của các luận văn và các công trình nói trên bị giới hạn của phạm vi pháp lệnh
Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự (PLTTGQCVADS) do vào thời điểm đó BLTTDS
chưa được ban hành. Luận án Tiến sĩ luật học của Đào Xuân Tiến "Thủ tục xét lại bản
án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật trong tố tụng kinh tế, dân sự ở Việt
Nam"(năm 2009). Luận án Tiến sĩ luật học của Mai Ngọc Dương, "Giám đốc thẩm dân
sự- Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" (năm 2010).

Ngoài ra còn có các công trình nghiên cứu, các bài viết đăng trên các tạp chí của
các tác giả như: Nguyễn Quang Lộc, Nguyễn Quang Tiến, Trần Anh Tuấn,

3


Đinh Văn Quế… được đăng trên các tạp chí Toà án nhân dân, tạp chí Nhà nước và
pháp luật, tạp chí Luật học.
Tuy nhiên, các công trình, bài viết nói trên chưa đưa ra các giải pháp mang tính
tổng thể mà chủ yếu chỉ đưa vào một số kiến nghị mang tính tổ chức, thủ tục đối với công
tác giám đốc trong tái thẩm dân sự nói chung. Chưa có một công trình khoa học nào
nghiên cứu về giám đốc thẩm, tái thẩm trong giải quyết tranh chấp đất đai. Do vậy trong
luận văn này học viên sẽ đi sâu phân tích thực trạng cũng như nguyên nhân của khó khăn
vướng mắc khi tiến hành hoạt động giám đốc thẩm, tái thẩm trong giải quyết tranh chấp đất
đai tại Tòa án, từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện hệ thống pháp luật cũng như
nâng cao chất lượng giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu
lực pháp luật về tranh chấp đất đai.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích của luận văn
Luận văn góp phần vào việc làm rõ trọng tâm những vấn đề cơ bản về giám
đốc thẩm, tái thẩm dân sự và giám đốc thẩm, tái thẩm trong giải quyết tranh chấp đất
đai. Từ đó luận văn sẽ nêu một số yêu cầu và giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng giám đốc thẩm, tái thẩm nói chung và trong tranh chấp đất đai nói riêng.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Để đạt được mục đích trên, nhiệm vụ của luận văn bao gồm:
- Nghiên cứu các cơ sở lý luận về giám đốc thẩm, tái thẩm trong hoạt động
giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân
- Phân tích thực tiễn việc áp dụng pháp luật trong việc giải quyết các tranh
chấp đất đai của Tòa án theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
- Đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục các vấn đề còn tồn tại và nâng cao

chất lượng giải quyết các tranh chấp đất đai theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm được quy định trong
BLTTDS của nước ta. Trong đó, tập trung nghiên cứu quy trình thủ tục giám đốc

4


thẩm, tái thẩm và làm nổi bật tính chất đặc biệt của thủ tục này so với các thủ tục
xét xử sơ thẩm, phúc thẩm.
Đồng thời, luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
các bản án, quyết định về giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án có hiệu lực pháp luật có
sai lầm, có tình tiết mới và bị kháng nghị.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận, luận văn đi sâu nghiên cứu các quy định của pháp luật tố
tụng dân sự có liên quan đến giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân theo
chuyên ngành Luật Kinh tế.
Trên cơ sở quy định của pháp luật thực định về tố tụng dân sự, tác giả tập trung
nghiên cứu về các vấn đề thuộc phạm vi thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố tụng dân
sự được quy định tại Phần thứ tư của BLTTDS và thực tiễn thi hành từ năm 2010 đến năm
2014.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở nhận thức và phương pháp luận của
Chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật, quan điểm,
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta về cải cách tư pháp. Bằng
phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, tác giả sử dụng các phương pháp
nghiên cứu khoa học chuyên ngành như phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp, kết
hợp với khảo sát thực tiễn trong quá trình công tác tư pháp trong tố tụng dân sự và giải
quyết tranh chấp đất đai tại Toà án để hoàn thành luận văn.

6. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn đã góp phần làm rõ bản chất của giám đốc thẩm, tái thẩm trong tố
tụng dân sự, trong đó có các vấn đề như: khái niệm, đặc điểm pháp lý, ý nghĩa pháp lý.
Trong luận văn, đã đưa ra khái niệm mới về giám đốc thẩm dân sự, tái thẩm dân sự. Luận
văn cũng giúp người đọc hình dung được thực tiễn công tác giám đốc thẩm, tái thẩm
trong giải quyết tranh chấp đất đai của ngành Toà án trong những năm qua, những mặt
còn tồn tại, nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp nhằm
n â n g ca o c h ấ t lư ợ n g cô n g t ác gi á m đ ốc t h ẩm, t á i t h ẩ m.

5


7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương.
Chương 1:

Những vấn đề chung về giám đốc thẩm, tái thẩm trong Tố tụng
dân sự

Chương 2:

Thực tiễn giám đốc thẩm, tái thẩm các bản án, quyết định của Tòa
án đã có hiệu lực trong giải quyết tranh chấp đất đai.

Chương 3:

Các yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng giám đốc thẩm, tái
thẩm trong giải quyết tranh chấp đất đai tại Tòa án.


6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁM ĐỐC THẨM, TÁI THẨM
TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ
1.1. Khái niệm giám đốc thẩm, tái thẩm dân sự
1.1.1. Sự cần thiết của thủ tục giám đốc thẩm, tái tẩm
Trong hệ thống chính trị, chỉ Toà án có chức năng xét xử và thực hiện quyền
tư pháp. Khi thực hiện chức trách của mình, nhiệm vụ hàng đầu của Tòa án là bảo vệ
công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Điều 102 Hiến pháp năm 2013 quy
định: TAND là cơ quan xét xử của nước CHXHCNVN, thực hiện quyền tư pháp; TAND
có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã
hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân [36].
Tòa án là cơ quan duy nhất có chức năng xét xử, nơi biểu hiện tập trung nhất của
quyền lực tư pháp, nhân danh quyền lực Nhà nước xem xét một cách công khai, đầy đủ,
khách quan và toàn diện các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được trong quá trình tố tụng
cũng như kết quả của các hoạt động điều tra, truy tố, bào chữa thông qua các thủ tục tố
tụng luật định để đưa ra những phán quyết về tính hợp pháp và tính đúng đắn của hành
vi pháp luật hay đưa ra quyết định pháp luật khi có sự tranh
chấp và mâu thuẫn giữa các bên có quyền lợi ích đối lập nhau [62, tr.264]
Khi hiện chức năng của mình, hoạt động xét xử Tòa án phải tuân theo những quy
định của pháp luật cả về luật nội dung và luật tố tụng để đưa ra những phán quyết vô
tư, khách quan, công minh và đúng pháp luật. Các phán quyết đó của Tòa án được thể
hiện trong các bản án và quyết định của Tòa án. Các bản án và quyết định này được Toà
án tuyên nhân danh Nhà nước, mang tính quyền lực nhà nước, thể hiện trực tiếp thái độ
của Nhà nước đối với vụ án, quyết định những vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền
lợi, nghĩa vụ của công dân và những chủ thể khác.
Bản án, quyết định của Tòa án luôn phải đảm bảo tính hợp pháp và tính có căn

cứ. Tuy nhiên, trong thực tế vẫn có những bản án được tuyên nhưng không

7


đúng với bản chất sự việc, không đúng pháp luật vì nhiều nguyên nhân khác nhau;
do vậy, việc xem xét lại các bản án, quyết định đó là điều cần thiết. Để đảm bảo tính chính
xác trong hoạt động xét xử, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, ổn định
trật tự xã hội, nước ta cũng như các nước Châu Âu lục địa mà điển hình là Pháp theo
mô hình tố tụng thẩm xét đã đặt ra nguyên tắc đặc trưng là nguyên tắc hai cấp xét xử [6].
Theo nguyên tắc này, bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật và chưa
được đưa ra thi hành thì các bên đương sự có quyền kháng cáo, Viện kiểm sát có quyền
kháng nghị để xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm. Toà án cấp trên có thẩm quyền phúc
thẩm vụ án sẽ xét xử cả về tố tụng và nội dung vụ án đồng thời xem xét tính hợp pháp và
tính có căn cứ của bản án, quyết định sơ thẩm đảm bảo cho quyết định của Tòa án đúng
pháp luật, khắc phục được những sai lầm trong xét xử sơ thẩm. Tuy nhiên, thực tiễn xét
xử cho thấy, không phải tất cả các bản án, quyết định của Tòa án dù đã qua hai cấp xét
xử đều đảm bảo công bằng, đúng pháp luật, đúng với thực tế khách quan. Những bản
án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng không đúng với bản chất sự việc cũng
như pháp luật nếu đem ra thi hành sẽ không đảm bảo quyền, lợi ích đúng đắn cho
đương sự. Do đó, pháp luật đã đặt ra chế định giám đốc thẩm và tái thẩm chính là để
xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng không đúng bản chất cũng
như không đúng pháp luật, đây chính là một trong những giải pháp pháp luật nhằm đảm
bảo
tính hợp pháp và tính khả thi của các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật.
Để cho chắc chắn hơn trong việc áp dụng pháp luật, nhiều quốc gia
đặt thêm một tòa án ở trên Tòa thượng thẩm để xét lại việc áp dụng pháp luật
của Tòa án cấp dưới. Tòa này sẽ xem xét và quyết định bản án của Tòa án
cấp dưới đã xử đúng hay sai; nếu sai thì Tòa giám đốc tuyên hủy án đã xử và
cho xử lại và nếu đúng thì y án. Chính vì vậy mà Tòa giám đốc thẩm còn

được gọi là Tòa phá án. Nhờ thẩm quyền giám đốc thẩm, Tòa phá án duy trì
được sự áp dụng pháp luật thống nhất trong
toàn quốc [9, tr.269]
Ở Việt Nam, thủ tục xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của

8


Tòa án lần đầu được quy định trong Luật tổ chức TAND năm 1960, được gọi là thủ
tục giám đốc thẩm và chỉ có Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) mới có thẩm quyền giám
đốc thẩm đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án các cấp. Kể
từ khi Luật tổ chức TAND năm 1981 được ban hành đến nay, thủ tục xét lại các bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật được tách thành hai thủ tục giám đốc thẩm dân sự và
tái thẩm dân sự. Mặt khác, ngoài TANDTC thì các Tòa án cấp tỉnh cũng có thẩm quyền
giám đốc thẩm đối với những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp
dưới bị kháng nghị. Hiện nay, Luật tổ chức TAND năm 2014 có quy định thẩm quyền
giám đốc thẩm, tái thẩm cho TAND cấp cao và
TANDTC, bỏ thẩm quyền giám đốc thẩm, tái thẩm của TAND cấp tỉnh [63, tr.302]
Tranh chấp đất đai xuất hiện trong những tranh chấp dân sự được Bộ luật Tố tụng
dân sự và tranh chấp trong lĩnh vực hành chính như các tranh chấp về cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, tranh chấp về thu hồi đất, giải phóng mặt bằng... được Luật Tố
tụng hành chính điều chỉnh. Theo đó, thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm về tranh chấp đất đai
được áp dụng trong cả hai lĩnh vực nói trên. Tuy nhiên trong phạm vi của luận văn này,
tác giả chỉ nghiên cứu về thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm về những tranh chấp đất đai do Bộ
luật Tố tụng dân sự điều chỉnh.
Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm về tranh chấp đất đai được áp dụng theo Bộ luật Tố
tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chínhng dân sự được quy định cụ thể tại
Chương XVIII, XIX của BLTTDS 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011)
1.1.2. Khái niệm giám đốc thẩm dân sự
Từ góc độ ngôn ngữ học, có nhiều quan niệm về "giám đốc thẩm": theo từ

điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học không có cụm từ "giám đốc thẩm" mà chỉ giải
nghĩa từ "giám đốc" là "đôn đốc và giám sát" và "thẩm" là "xét kỹ" [71]. Theo Từ điển
Pháp - Việt danh từ "cassation" có nghĩa là "sự phá án" [69]; còn từ điển Anh - Việt lại
giải nghĩa danh từ "cassation" có nghĩa là "sự huỷ bỏ" [70].
Từ góc độ khoa học pháp lý, tại Việt Nam qua các thời kỳ cũng có nhiều
quan niệm khác nhau về giám đốc thẩm:
Theo đó, quan điểm thứ nhất được thể hiện trong cuốn Thuật ngữ pháp lý

9


phổ thông xuất bản năm 1987: "Giám đốc thẩm dân sự là một giai đoạn tố tụng có
mục đích kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của các bản án hoặc quyết định đã có
hiệu lực pháp luật" [17, tr.88]. Theo quan điểm này có thể hiểu rằng, giám đốc thẩm
cũng là một giai đoạn tố tụng chứ không thể hiện là giai đoạn tố tụng đặc biệt. Việc bản
án, quyết định của Tòa án như thế nào mới bị kiểm tra, xem xét không được đề cập đến.
Quan điểm thứ hai được nêu trong cuốn Từ điển luật học do Nhà xuất bản Từ điển
bách khoa phát hành năm 1999 "giám đốc thẩm" được hiểu là: "Xét lại bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có vi phạm pháp luật
trong việc xử lí vụ án" [60, tr.172]. Quan điểm này không nêu rõ giám đốc thẩm là một
giai đoạn tố tụng và chỉ nhận định căn cứ kháng nghị giám đốc thẩm là có vi phạm
pháp luật mà không cho rằng những sai lầm trong quá trình giải quyết vụ án cũng là căn
cứ kháng nghị.
Quan điểm thứ ba là của Ts. Trần Anh Tuấn: "Giám đốc thẩm là việc xét lại bản
án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị vì phát hiện có
sai lầm của Toà án khi nhận định về những tình tiết, sự kiện của vụ án hoặc có vi phạm
pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án" [64]. Quan điểm này cho rằng, căn
cứ của kháng nghị giám đốc thẩm là có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải
quyết vụ án và những sai lầm của Toà án khi nhận định về những tình tiết, sự kiện của
vụ án.

Quan điểm thứ tư: "Thủ tục giám đốc thẩm là một trình tự đặc biệt của tố tụng
tư pháp nhằm xét lại những bản án và quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị
kháng nghị vì có vi phạm ở mức độ nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ án" [18].
Quan điểm này cho rằng giám đốc thẩm như là một trình tự của tố tụng tư pháp và căn
cứ của giám đốc thẩm là kháng nghị của những người có thẩm quyền. Tuy nhiên, ở một
số nước trên thế giới như Cộng hòa Pháp, Nhật Bản hay Trung Quốc cho rằng việc
kháng nghị chỉ là mặt hình thức, thủ tục mà họ quy định kháng cáo của các đương sự mới
là căn cứ để phát sinh thủ tục giám đốc thẩm [22].
Quan điểm thứ năm: Theo Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam của

10


trường Đại học Luật Hà Nội đã đưa ra khái niệm: "Giám đốc thẩm dân sự là việc
xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của toà án bị kháng nghị do phát hiện
có sai lầm, vi phạm pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án" [61, tr.333]. Theo khái
niệm này thì đối tượng của việc xét lại theo trình tự giám đốc thẩm là bản án, quyết định
dân sự đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án mà phát hiện có sai lầm hoặc là có vi phạm
pháp luật thì vụ án cần được xem xét lại để bảo đảm việc xử lý vụ án được chính xác.
Khái niệm này không chỉ ra sai lầm và vi phạm trong quá trình giải quyết vụ án ở mức
độ nào, nghiêm trọng đến mức nào mới xem xét lại hay bất kì bản án, quyết định nào của
Tòa án có vi phạm và sai lầm dù chỉ là lỗi nhẹ, không ảnh hưởng đến kết quả giải quyết
vụ án vẫn là đối tượng của giám đốc thẩm.
Các khái niệm trên chưa thể hiện một cách chính xác và đầy đủ nhất về giám đốc
thẩm, các khái niệm khác nhau về góc độ tiếp cận vấn đề, phạm vi khái niệm, tính khoa
học và sự phù hợp với thực tiễn cũng khác nhau. Tuy nhiên, một số điểm cơ bản của
vấn đề thì vẫn giống nhau như xác định giám đốc thẩm là thủ tục có tính chất đặc biệt, đó
là việc xem xét lại bản án hoặc quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật bị kháng
nghị để kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ trong các bản án và quyết định đó.
Qua quá trình nghiên cứu, theo quan điểm của tác giả, khái niệm giám đốc thẩm

cần được hiểu như quan điểm được nêu trong Giáo trình Luật Tố tụng dân sự của Đại
học Quốc gia Hà Nội: "Giám đốc thẩm dân sự là thủ tục tố tụng đặc biệt mà Toà án có
thẩm quyền xét lại những bản án, quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật bị người
có thẩm quyền kháng nghị vì có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong việc giải quyết vụ
việc dân sự nhằm đảm bảo pháp luật được áp dụng đúng đắn và thống nhất" [63, tr.298].
Từ khái niệm này, có một số vấn đề sau đây về giám đốc thẩm cần được xem xét:
Thứ nhất là: đối tượng của kháng nghị giám đốc thẩm
Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm không xem xét những vấn đề về nội
dung vụ án, cũng như không xem xét những bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp
luật vì đối tượng và những nội dung đó sẽ được xem xét trong giai đoạn xét xử

11


sơ thẩm và xét xử phúc thẩm, mà chỉ xét vi phạm nghiêm trọng có trong bản án,
quyết định có hiệu lực pháp luật. Do đó, đối tượng giám đốc thẩm dân sự là bản án hoặc
quyết định có hiệu lực pháp luật của Toà án. Đó là các bản án, quyết định mà theo đánh
giá của người có thẩm quyền kháng nghị phải có vi phạm pháp luật nghiêm trọng trong
quá trình giải quyết.
Thứ hai là: mục đích của giám đốc thẩm
Giám đốc thẩm là một hình thức kiểm tra, giám đốc xét xử đặc biệt của Toà
án. Giám đốc thẩm được đặt ra với mục đích đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp của các
bản án, quyết định của Toà án, đảm bảo pháp chế trong hoạt động xét xử, đảm bảo
quyền và lợi ích của đương sự.
Thứ ba là: cơ sở làm phát sinh giám đốc thẩm trong tố tụng dân sự (TTDS)
Việt Nam
Theo Luật TTDS Việt Nam thì kháng nghị giám đốc thẩm dân sự là cơ sở pháp
lý để Tòa án có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm. Chỉ có kháng nghị của những người
có thẩm quyền mới làm phát sinh giám đốc thẩm còn kháng cáo của đương sự thì
không phải là căn cứ để phát sinh thủ tục giám đốc thẩm, đây cũng là quan điểm phổ

biến ở nước ta, nhưng tại hầu hết các nước coi đơn kháng cáo hợp lệ của đương sự chính
là cơ sở để xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm và là nguồn chủ yếu của thủ tục giám đốc
thẩm.
Thứ tư là: thẩm quyền kháng nghị giám đốc thẩm
Để tránh việc kháng cáo, kháng nghị tràn lan làm mất đi tính ổn định của bản
án, quyết định của Tòa án, tránh đình trệ việc thi hành những bản án, quyết định đã
được áp dụng pháp luật đúng và phù hợp với bản chất sự việc thì không phải ai cũng có
quyền kháng nghị giám đốc thẩm. Chỉ có những người có thẩm quyền do pháp luật quy
định mới có quyền kháng nghị nhằm đảm bảo công tác kiểm tra, giám sát của ngành Toà
án, mặt khác cũng tránh việc đương sự lạm dụng quyền của mình gây tình trạng án kéo
dài không cần thiết.
Thứ năm là: thẩm quyền giám đốc thẩm
Giám đốc thẩm là cơ chế tự kiểm tra của ngành tư pháp, là một thủ tục tố

12


tụng đặc biệt, việc xem xét lại không phải ai, cấp nào cũng thực hiện được. Thẩm
quyền giám đốc thẩm bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật thuộc về Tòa án mà ở đó
thể hiện tính quyền lực tối cao của Toà án cấp cao trong việc giám đốc hoạt động xét xử.
Thứ sáu là: thủ tục giải quyết
Đối tượng của giám đốc thẩm là các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Tòa án, chính là các bản án đã qua nhiều cấp xét xử nên pháp luật không quy
định xét xử lại vụ án về nội dung mà chỉ xem xét tính hợp pháp của bản án và quyết định
đó nên Toà án có thẩm quyền giám đốc thẩm chỉ tiến hành xem xét việc áp dụng pháp luật
của Toà án đã giải quyết vụ án trên cơ sở hồ sơ vụ án. Do đó, một số nguyên tắc cơ bản
của TTDS như: nguyên tắc xét xử công khai, quyền quyết định, tự định đoạt của đương
sự không được áp dụng trong hoạt động giám đốc thẩm. Vì vậy, hoạt động này là một
thủ tục tố tụng độc lập có nguyên tắc cũng như quy trình độc lập. Và nó cũng không
mang tính hành chính như hoạt động giám đốc, kiểm tra khác.

Như vậy, thủ tục giám đốc thẩm chính là hoạt động "xét" lại bản án, quyết định
chứ không phải hoạt động "xử"một vụ án của Tòa án. Đối tượng của hoạt động này chính
là bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng có kháng nghị của người có thẩm
quyền, quyết định kháng nghị đó là một văn bản pháp lý làm phát sinh trình tự xét xử đặc
biệt chính là thủ tục giám đốc thẩm.
1.1.3. Khái niệm tái thẩm dân sự
Tái thẩm là thủ tục tố tụng xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật nhưng bị kháng nghị vì có những tình tiết mới được phát hiện có thể làm thay đổi
cơ bản nội dung của bản án, quyết định mà trước đó Tòa án và các đương sự đã không
biết được. Thực chất, tái thẩm là xem xét, quyết định để đưa một vụ án xét xử sơ thẩm lại
từ đầu.
Thực tế có nhiều trường hợp sau khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
mới phát hiện ra những tình tiết quan trọng đối với việc quyết định vụ án có thể làm thay
đổi cơ bản nội dung cũng như quyết định vụ án nhưng lúc trước đó cả Tòa

13


×