Tải bản đầy đủ (.docx) (4 trang)

Bài tập cá nhân về thẩm quyền giải quyết vụ án tranh chấp về chia thừa kế quyền sử dụng đất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (57.96 KB, 4 trang )

Bài tập cá nhân về thẩm quyền giải quyết vụ án tranh chấp về chia
thừa kế quyền sử dụng đất
ĐỀ BÀI: Ông A và bà B có ba người con chung là C, D, E. C cư trú
tại quận N thành phố H. D, E cư trú tại quận P thành phố Q. Năm
2005 ông A, bà B chết không để lại di chúc. Ông A, bà B có một
mảnh đất diện tích 500m2 tại quận M thành phố H. Sau khi ông A,
bà B chết C, D xẩy ra tranh chấp về việc phân chia di sản thừa kế
mảnh đất trên. C khởi kiện ra Tòa án yêu cầu chia thừa kế. Anh chị
hãy xác định:
1. Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết vụ án này ? Tại sao?
2. Sau khi nhận được đơn khởi kiện của C, Tòa án đã không thụ lý
vụ án vì cho rằng tranh chấp về chia thừa kế quyền sử dụng mảnh
đất trên chưa qua hòa giải ở cơ sở . Anh chị hãy bình luận cách giải
quyết trên của Tòa án .
1. Tòa án nào có thẩm quyền giải quyết vụ án này? Tại sao?
Tòa án nhân dân quận M thành phố H có thẩm quyền giải quyết vụ
án này. Vì :
Một là , về loại việc thì đây là vụ việc tranh chấp phân chia di sản
thừa kế là mảnh đất diện tích 500m2 của ông A và bà B thực chất
là vụ việc dân sự phát sinh từ quan hệ pháp luật dân sự và do
pháp luật dân sự điều chỉnh . Vậy nên vụ án này thuộc thẩm quyền
dân sự của Tòa án được quy định tại Khoản 7 Điều 25 BLTTDS . Tuy
nhiên do đây là vụ án tranh chấp quyền sử dụng đất nên theo quy
định của Luật đất đai 2003 , Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ
án này nếu đương sự có giấy tờ hợp lệ về quyền sử dụng đất và


đồng thời vụ tranh chấp trên phải đã qua hòa theo quy định tại
Điều 136 Luật đất đai năm 2003 .
Hai là , về thẩm quyền Tòa án theo cấp thì vụ án này thuộc thẩm
quyền giải quyết của Tòa án nhân dân cấp quận, huyện, thị xã,


thành phố trực thuộc tỉnh theo quy định tại điểm a Khoản 1 Điều
33 BLTTDS . Đồng thời xét thấy tranh chấp này cũng ko thuộc
trường hợp quy định tại Khoản 3 Điều 33 BLTTDS . Vậy nên thẩm
quyền giải quyết vụ án trên thuộc về Tòa án cấp quận , huyện , thị
xã , thành phố trực thuộc Tỉnh .
Ba là , về thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ theo quy định tại
Điểm c Khoản 1 Điều 35 thì Tòa án nơi có bất động sản có thẩm
quyền giải quyết những tranh chấp về bất động sản . Theo Điều
174 Bộ Luật dân sự thì đất đai và tài sản gắn liên với đất là bất
động sản . Vậy nên thẩm quyền giải quyết vụ án này thuộc về Tòa
án nhân dân quận M thành phố H - nơi có mảnh đất diện tích
500m2 của ông A và bà B . Quy định này của pháp luật nhằm trao
thẩm quyền giải quyết vụ án tranh chấp bất động sản cho Tòa án
có điều kiện thuận lợi , tốt nhất trong hoạt động xác minh , xem
xét tình trạng bất động sản , thu thập giấy tờ tài liệu liên quan đến
bất động sản . Bởi lẽ giấy tờ tài liệu , liên quan đến bất động sản
do cơ quan nhà đất hoặc chính quyền địa phương nơi có bất động
sản

quản

lí.

Như vậy Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ án này là Tòa án nhân
dân quận M , Thành phố H – Tòa án nơi có bất động sản .
2. Sau khi nhận được đơn khởi kiện của C, Tòa án đã không
thụ lý vụ án vì cho rằng tranh chấp về chia thừa kế quyền


sử dụng mảnh đất trên chưa qua hòa giải ở cơ sở . Anh chị

hãy bình luận cách giải quyết trên của Tòa án .

Theo em , cách giải quyết trên của Tòa là hoàn toàn hợp lí vì : Theo
quy định tại Điều 135 , Điều 136 Luật đất đai năm 2003 , đối với
tranh chấp về quyền sử dụng đất thì thủ tục hòa giải ở cấp cơ sở là
bắt buộc nên chỉ sau khi UBND cấp xã, phường ,thị trấn đã tiến
hành hòa giải mà một hoặc các bên đương sự không nhất trí thì
mới được phép khởi kiện, yêu cầu tòa án giải quyết (nếu có một
trong các giấy tờ hợp lệ quy định tại Điều 136 Luật dất đai 2003).
Tuy nhiên hiện nay chưa có một văn bản nào hướng dẫn cụ thể
tranh chấp nào phải qua hòa giải , nhưng hiểu theo nghĩa rộng thì
những tranh chấp này bao gồm cả tranh chấp về thừa kế quyền sử
dụng đất . Vậy nên nếu tranh chấp về thừa kế quyền sử dụng đất
chưa qua thủ tục hòa giải tại cơ sở theo đúng quy định thì Tòa sẽ
không thụ lý vụ án do không đủ điều kiện khởi kiện vụ án dân sự
mà cụ thể là không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án. Như
vậy vụ án dân sự tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất này không
đủ điều kiện để khởi kiện do các bên không tiến hành thủ tục hòa
giải theo quy định của Luật đất đai 2003 nên Tòa án đã không thụ
lý vụ án là hoàn toàn phù hợp với những quy định của pháp luật Tố
tụng dân sự và pháp luật đất đai .
Tuy Tòa án không thụ lí vụ án trên là hoàn toàn phù hợp với quy
định của pháp luật hiện hành nhưng từ đó cho ta thấy một số vấn
đề phát sinh đối vơi việc giải quyết vụ án tranh chấp quyền sử
dụng đất mà cụ thể là về vấn đề nên bỏ hay giữ thủ tục hòa giải
trong tranh chấp đất đai , hiện nay vấn đề này còn nhiều ý kiến,
quan điểm trái chiều. Nhưng theo em việc giữ thủ tục hòa giải


trong tranh chấp đất đai là vẫn cần thiết vì việc hòa giải giảm rất

nhiều áp lực và số lượng công việc cho ngành Tòa án đồng thời tạo
điều kiện cho các bên được đàm phán , thỏa thuận trực tiếp về vấn
đề tranh chấp và tiết kiệm được nhiều chi phí cho các bên . Ví dụ :
Theo thống kê đến hết năm 2011, tại TP.HCM các tổ hòa giải cơ sở
ở TP đã hòa giải được 7.092 vụ tranh chấp, trong đó có 4.099 vụ
hòa giải thành. Qua hòa giải, các bên đương sự tự nguyện trả cho
nhau hơn 468 tỉ đồng, 56,3 lượng vàng, 1.600 USD, 18.637 m2
đất, sáu căn nhà .



×