Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Những hạn chế và một số giải pháp hoàn thiện các thủ tục áp dụng trong trương hợp đương sự vắng mặt ở tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm khi giải quyết vụ án dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.63 KB, 12 trang )

Mục lục.
A. Đặt vấn đề......................................................................................................................2
B. Giải quyết vấn đề...........................................................................................................2
I. Thủ tục TTDS áp dụng trong trường hợp đường sự vắng mặt ở Tòa án cấp sơ thẩm,
phúc thẩm theo quy định của pháp luật hiện hành.........................................................3
1. Hỗn phiên tịa

3

2. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự 5
2.1. Đình chỉ vụ án ở tịa sơ thẩm dân sự 5
2.2. Đình chỉ vụ án ở tòa phúc thẩm dân sự

6

3. Xét xử vắng mặt đương sự.........................................................................................6
3.1.Xét xử vắng mặt đương sự ở tòa sơ thẩm dân sự.

6

3.2. Xét xử vắng mặt đương sự ở tòa phúc thẩm dân sự.

7

II. Những hạn chế và một số giải pháp hoàn thiện các thủ tục áp dụng trong trương
hợp đương sự vắng mặt ở tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm khi giải quyết vụ án dân sự.7
1. Hạn chế.......................................................................................................................7
2. Giải pháp hoàn thiện..................................................................................................9
Danh mục tài liệu tham khảo………………………………………………………... …11

Bài làm


1


A.

Đặt vấn đề

Trong tố tụng dân sự (TTDS), yêu cầu khởi kiện hay kháng cáo của đương sự là
cơ sở làm phát sinh quá trình tố tụng và việc mở phiên tịa sơ thẩm hay phúc thẩm dân
sự. Vì vậy, mục đích của phiên tịa sơ thẩm và phúc thẩm dân sự là giải quyết tranh chấp
về lợi ích hoặc yêu cầu của các đương sự. Hơn nữa, phán quyết của Tòa án về vụ án dân
sự được dựa trên cơ sở kết quả tranh tụng của các đương sự tại phiên tòa sơ thẩm hay
phúc thẩm dân sự. Do đó, đương sự là chủ thể khơng thể thiếu trong các phiên tòa sơ
thẩm và phúc thẩm dân sự. Việc tham gia phiên tòa dân sự sẽ giúp cho đương sự chứng
minh và bảo vệ yêu cầu của mình, đồng thời giúp cho việc xác định sự thật khách quan
của vụ án được thực hiện nhanh chóng nhất. Tuy nhiên, trên thực tế xuất phát từ nhiều lý
do khác nhau, khơng phải lúc nào các đương sự cũng có mặt đầy đủ tại phiên tòa dân sự
theo giấy triệu tập của Tòa án. Trong những trường hợp này, yêu cầu đặt ra là làm thế
nào để bảo vệ tốt nhất các quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, đồng thời đảm bảo
thời hạn giải quyết vụ án dân sự và nâng cao trách nhiệm của các đương sự đối với việc
giải quyết vụ án. Dự liệu được điều này, pháp luật TTDS đã quy định về các thủ tục
TTDS áp dụng trong trường hợp đương sự vắng mặt tại Tòa án cấp sơ thẩm và phúc
thẩm khi giải quyết vụ án dân sự tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (BLTTDS 2004)
và được hướng dẫn cụ thể tại Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006
Hướng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ hai “thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án
cấp sơ thẩm” của Bộ luật Tố tụng dân sự (NQ 02/2006/NQ-HĐTP), và Nghị quyết
05/2006/NQ-HĐTP ngày 4 tháng 8 năm 2006 Hướng dẫn thi hành các quy định trong
phần thứ ba “thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm” của Bộ luật Tố tụng dân
sự (NQ 05/2006/NQ-HĐTP).\
B.


Giải quyết vấn đề

I. Thủ tục TTDS áp dụng trong trường hợp đường sự vắng mặt ở Tòa án cấp
sơ thẩm, phúc thẩm theo quy định của pháp luật hiện hành.
Theo quy định tại BLTTDS 2004 thì tùy từng trường hợp đướng sự vắng mặt của
đương sự tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm thì Tịa án áp dụng một trong các thủ tục sau:
- Hỗn phiên tịa
2


- Đình chỉ vụ án
- Tiến hành xét xử vắng mặt đương sự
1. Hỗn phiên tịa
BLTTDS 2005 đều quy định về việc Tịa án phải hỗn phiên tịa sơ thẩm nếu một
trong các đương sự (nguyên đơn; bị đơn hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan)
vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng. Khoản 1 Điều 199 quy định “Ngun đơn
phải có mặt tại phiên tịa theo giấy triệu tập của Tòa án; nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý
do chính đáng thì phải hỗn phiên tòa”. Tương tự như quy định này, khoản 1 Điều 200
quy định “Bị đơn phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án; nếu vắng mặt
lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hỗn phiên tịa”. Và khoản 1 Điều 201 cũng
quy định “Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan phải có mặt tại phiên tòa theo giấy
triệu tập của Tòa án; nếu vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng thì phải hỗn phiên
tịa”. Đồng thời NQ 02/2006/NQ-HĐTP cũng hướng dẫn tại tiểu mục 1.1 mục 1 phần III
như sau: “khi nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại
phiên toà lần thứ nhất theo quy định tại khoản 1 Điều 199, khoản 1 Điều 200 và khoản 1
Điều 201 của BLTTDS dù khơng có lý do chính đáng, thì Tồ án vẫn hỗn phiên tồ”.
Đồng thời, Điều 266 BLTTDS 2004 cũng quy định: “ người kháng cáo vắng mặt lần thứ
nhất có lý do chính đáng thì phải hỗn phiên tịa” (khoản 2) và “người tham gia tố tụng
khác không phải là người kháng cáo thì việc hỗn phiên tịa...xét xử phúc thẩm được

thực hiện theo quy định tại Điều 199, 200, 201, 202...của Bộ luật này”. Và trường hợp
này được hướng dân cụ thể tại tiểu mục 2.1, 2.2 mục 3 phần III NQ 05/2006/NQ-HĐTP
như sau: “Người kháng cáo vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng, thì Hội đồng xét
xử phúc thẩm phải hỗn phiên tồ. Trường hợp không xác định được người kháng cáo
vắng mặt lần thứ nhất có lý do chính đáng hay khơng có lý do chính đáng, thì Hội đồng
xét xử phúc thẩm cũng hỗn phiên tồ” và việc thực hiện quy định tại khoản 3 Điều 266
sẽ được thực hiện như hướng dẫn tại các mục 1 và 2 Phần III NQ 02/2006/NQ-HĐTP.
Theo đó, sẽ phải hỗn phiên tịa phúc thẩm trong trường hợp đương sự (là những người
phải có mặt tại phiên tòa phúc thẩm) vắng mặt tại phiên tòa khi đã được triệu tập hợp lệ
lần đầu dù đương sự đó có lý do chính đáng hay khơng.
Như vậy, theo quy định này của pháp luật thì khi đương sự đã được Tòa án triệu
tập hợp lệ lần thứ nhất mà vắng mặt tại phiên tịa thì bất kể đương sự vắng mặt có lý do
chính đáng hay khơng cũng phải hồn phiên tịa.
3


Việc pháp luật TTDS quy định hỗn phiên tịa trong trường hợp đương sự đã được
triệu tập hợp lệ lần một mà vắng mặt, dù có lý do chính đáng hay không là phù hợp với
thực tiễn xét xử của Tịa án hiện nay. Vì điều kiện thơng tin liên lạc ở các vùng nơng
thơn cịn chưa thuận tiện, trình độ hiểu biết pháp luật của người dân còn hạn chế nên
trong nhiều trường hợp họ không thể đến tham gia phiên tịa nhưng cũng khơng thơng
báo kịp cho tịa án. Nếu trường hợp này mà Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt họ thì
sau phiên tịa họ thường xuất cho Tòa án những chứng cứ chứng minh lý do họ vắng mặt
tại phiên tòa sơ thẩm là chính đáng (do tai nạn, ốm đau hoặc khơng nhận được giấy triệu
tập của Tịa án). Khi đó, phán quyết của Tòa án thường bị đương sự kháng cáo kháng
nghị.
Quy định tại tiểu mục 1.2, mục 2 phần III NQ 02/2006/NQ-HĐTP cũng mở rộng
trường hợp được hỗn phiên tịa khi đương sự vắng mặt. Theo đó, Hội đồng xét xử ra
quyết định hỗn phiên tịa trong những trường hợp được coi là sự kiện bất khả kháng
hoặc trở ngại khách quan, tức là trong trường hợp: “đương sự đã nhận được quyết định

đưa vụ án ra xét xử theo quy định tại khoản 2 Điều 195 của BLTTDS, đã được Toà án
tống đạt hợp lệ giấy triệu tập phiên toà theo quy định tại các điều từ Điều 150 đến Điều
156 của BLTTDS và đương sự đã chuẩn bị tham dự phiên toà xét xử vụ án, nhưng do sự
kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan xảy ra đối với họ ngay vào thời điểm trước
ngày Toà án mở phiên toà hoặc ngay trong thời điểm họ đang trên đường đến Toà án để
tham dự phiên toà (do thiên tai, địch hoạ, bị tai nạn, ốm nặng phải đi bệnh viện cấp cứu,
người thân bị chết…) nên họ khơng thể có mặt tại phiên tồ theo giấy triệu tập của Tồ
án, thì Tồ án cũng hỗn phiên tồ”. Đây là một quy định rất tiến bộ của pháp luật, phù
hợp với thực tế xét xử, đồng thời góp phần bảo vệ tốt hơn nữa quyền và lợi ích hợp pháp
của các đương sự
2. Đình chỉ giải quyết vụ án dân sự
2.1. Đình chỉ vụ án ở tịa sơ thẩm dân sự
2.1.1 Đình chỉ vụ án trong trường hợp vắng mặt nguyên đơn
Nguyên đơn là người được giả thiết có quyền hoặc lợi ích bị xâm phạm hay tranh
chấp nên khởi kiện hoặc được người khác khởi kiện theo quy định của pháp luật nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người đó. Vì vậy, hơn ai hết, họ phải có mặt để tịa
án bảo vệ quyền lợi của họ. Nếu nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà
vẫn vắng mặt tức là họ đã không quan tâm hay từ bỏ lợi ích của mình. Vì vậy, tịa án
4


phải đình chỉ việc giải quyết vụ án, điều này được cụ thể hóa trong BLTTDS 2004: Điển
e khoản 1 Điều 192 quy định về một trong các trường hợp Tịa án ra quyết định đình chỉ
giải quyết vụ án dân sự đó là trường hợp: “Nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần
thứ hai mã vẫn vắng mặt”. Đồng thời khoản 2 Điều 199 BLTTDS 2004 khi quy định về
sự có mặt của nguyên đơn tại phiên tòa sơ thẩm cũng khẳng định: “Nguyên đơn đã được
triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tịa
án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án”.
Như vậy, với quy định này của BLTTDS thì chỉ cần nguyên đơn đã được Tòa án
triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bất kể ngun đơn có lý do chính

đáng hay khơng Tịa án vẫn sẽ đình chỉ việc giải quyết vụ án.
2.1.2. Đình chỉ vụ án trong trường hợp vắng mặt người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan có yêu cầu độc lập
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập với nguyên đơn và bị đơn. Trong vụ án dân
sự, lợi ích pháp lý của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập
luôn độc lạp với lợi ích pháp lý của ngun đơn, bị đơn. Thơng thường người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập có đủ điều kiện pháp lý khởi kiện vụ án
dân sự nhưng do vụ án dân sự đã xuất hiện giữa nguyên đơn, bị đơn nên họ phải tham
gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình nếu khơng việc bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của họ sau đó sẽ gặp khó khăn hơn. Chính bởi vậy, cũng giống như ngun
đơn trong vụ án dân sự trong trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu
cầu độc lập đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt, thì cũng bị coi là
từ bỏ u cầu độc lập của mình và Tịa án ra sẽ quyết định đình chỉ giải quyết vụ án đối
với yêu cầu độc lập của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan này (khoản 3 Điều 201
BLTTDS 2004). Tuy nhiên, việc đình chỉ vụ án đối với người có quyền lợi, nghĩa vụ
liên quan có yêu cầu độc lập này chỉ có thể được tiến hành nếu được cả nguyên đơn và
bị đơn đồng ý (Khoản 3 Điều 201 BLTTDS 2004).

2.2. Đình chỉ vụ án ở tịa phúc thẩm dân sự
Cũng theo quy định tại Điều 266 BLTTDS thì trong trường hợp “người kháng cáo
đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc kháng
5


cáo và Tịa án ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm phần vụ án có kháng cáo của
người kháng cáo vắng mặt” (khoản 2). Theo quy định này, trong trường hợp đương sự
tham gia phiên tòa phúc thẩm là người kháng cáo, đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ
hai vẫn vắng mặt thì sẽ phải đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với phần vụ án mà đương sự
đó có kháng cáo.

3. Xét xử vắng mặt đương sự.
3.1.Xét xử vắng mặt đương sự ở tòa sơ thẩm dân sự.
Các trường hợp Tòa án vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đương sự tại phiên tòa sơ
thẩm được quy định tại Điều 202 BLTTDS 2004. Theo quy định tại Điều 202 thì Tịa án
chỉ xét xử vắng mặt đương sự khi rơi vào một trong các trường hợp được quy định tại
Điều 202 BLTTDS, cụ thể là:
Thứ nhất, một trong các đương sự vắng mặt tại phiên tịa và có đơn đề nghị Tịa
án xét xử vắng mặt họ (khoản 1 Điều 202).
Thứ hai, đương sự vắng mặt tại phiên tịa nhưng họ có người đại diện hợp pháp
tham gia phiên tòa (khoản 2 Điều 202).
Thứ ba, Tòa án sẽ vẫn tiến hành xét xử vắng mặt đương sự trong các trường hợp
quy định tại khoản 2 Điều 200 và khoản 2 Điều 201 của BLTTDS 2004. Đó là các
trường hợp: bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã được triệu tập hợp lệ
đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt. Trong trường hợp này, bất kể việc khơng có mặt tại
phiên tịa của bị đơn hoặc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là có lý do chính đáng
hay khơng thì Tòa án vẫn tiến hành xét xử sơ thẩm vụ án dân sự vắng mặt họ.
3.2. Xét xử vắng mặt đương sự ở tòa phúc thẩm dân sự.
Khoản 3 Điều 266 và hướng dẫn tại NQ 05/2006/NQ-HĐTP cũng quy định:
trường hợp những người tham gia tố tụng khác không phải là người kháng cáo vắng mặt
tại phiên tịa thì việc quyết định hỗn phiên tịa hay tiếp tục xét xử sẽ được tiến hành như
quy định tại phần xét xử sơ thẩm. Như vậy, từ những phân tích ở trên thì nếu đương sự
tham gia phiên tịa phúc thẩm khơng phải là người kháng cáo, đã được triệu tập hợp lệ
đến lần thứ hai mà vắng mặt thì tịa án sẽ tiến hành xét xử vắng mặt đối với những
đương sự này.
II. Những hạn chế và một số giải pháp hoàn thiện các thủ tục áp dụng trong
trương hợp đương sự vắng mặt ở tòa án cấp sơ thẩm, phúc thẩm khi giải quyết vụ
án dân sự.
6



1. Hạn chế
Việc quy định các thủ tục áp dụng trong trường hợp đương sự vắng mặt tại phiên
toàn đã cho thấy các nhà làm luật ln có sự dự liệu cho những trường hợp có thể phát
sinh trong quan hệ pháp luật tố tụng dân sự, từ đó góp phần bảo vệ tốt nhất quyền và lợi
ích hợp pháp của các đương sự đồng thời tạo điều kiện để Tịa án thực hiện tốt chức
năng của mình. Tuy nhiên, những quy định này vẫn còn bộc lộ những hạn chế nhất định
trong thực tế thực hiện.
1.1. Hỗn phiên tịa trong trường hợp đương sự đã được triệu tập hợp lệ lần thứ
nhất mà vắng mặt.
BLTTDS 2004 quy định về việc hỗn phiên tịa trong trường hợp đương sự đã
được triệu tập hợp lệ lần thứ nhất, đây là một quy định phù hợp với thực tiễn xét xử của
nước ta hiện nay. Tuy nhiên, quy định này cũng dễ dẫn đến quá trình tố tụng dân sự bị
kéo dài, gây khó khăn cho Tịa án và cũng khơng phù hợp với pháp luật các nước trong
bối cảnh hội nhập quốc tế. Trên thực tế, có nhiều trường hợp bị đơn là người bị kiện,
thường là người sau này phải thực hiện nghĩa vụ nên về tâm lý họ không muốn tham gia
tố tụng và muốn hỗn phiên tịa để kéo dài thời gian tố tụng. Như vậy, nếu hoãn phiên
tòa khi đương sự vắng mặt lần thứ nhất ngay cả khi khơng có lý do chính đáng sẽ chỉ
bảo vệ được quyền lợi của một bên đương sự vắng mặt, các đương sự sẽ lợi dụng quy
định này của pháp luật, làm ảnh hưởng đến việc đảm bảo sự bình đẳng giữa các đương
sự. Hơn nữa trong những vụ án của nhiều nguyên đơn, bị đơn hoặc nhiều người có
quyền lợi và nghĩa vụ liên quan thì mỗi ngun đơn, mỗi bị đơn, mỗi người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan vắng mặt lần thứ nhất (có lý do chính đáng hoặc khơng có lý do
chính đáng) Tịa án đều phải hỗn phiên tịa một lần. Như vậy, sẽ làm cho vụ án bị hoãn
nhiều lần, gây tốn kém thời gian, cơng sức của cả đương sự lẫn tịa án.
BLTTDS quy định rõ trường hợp đương sự (nguyên đơn, bị đơn, người có quyền
lợi nghĩa vụ liên quan) được Tòa án triệu tập hợp lệ mà vắng mặt lần thứ nhất có lý do
chính đáng thì mới được hỗn phiên tòa. Vậy nhưng NQ 02/2006/NQ-HĐTP lại hướng
dẫn cả trường hợp đương sự được triệu tập hợp lệ mà vắng mặt lần thứ nhất thì dù có lý
do chính đáng hay khơng đều phải hồn phiên tịa. Như vậy, hướng dẫn tại NQ
02/2006/NQ-HĐTP là không thống nhất với quy định của BLTTDS, khi áp dụng trên

7


thực tế những quy định này của BLTTDS sẽ không được áp dụng và trở thành những
quy định thừa.
1.2. Quy định về việc đình chỉ vụ án khi nguyên đơn đã được triệu tập hợp lệ đến
lần thứ hai mà vẫn vắng mặt.
BLTTDS quy định chỉ cần nguyên đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà
vắng mặt thì khơng cần phải có lý do chính đáng hay khơng thì vụ án cũng sẽ bị đình
chỉ. Có thể thấy quy định này chưa hoàn toàn hợp lý, bởi lẽ trên thực tế có nhiều trường
hợp đương sự khơng thể có mặt tại phiên tịa do lý do chính đáng mà vẫn bị tịa án đình
chỉ vụ án. Ví dụ như trường hợp nguyên đơn bị ốm nặng (hôn mê, bất tỉnh và nằm tại
bệnh viện) không thể nhờ người đại diện và cũng khơng thể có mặt tại tịa án được.
Trong trường hợp này, ngun đơn hồn tồn có lý do bất khả kháng, vậy những theo
quy định của BLTTDS thì vụ án của họ sẽ bị đình chỉ giải quyết. Đến khi họ ra viện và
có thể khởi kiện lại thì thời hiệu khởi kiện đã hết. Như vậy, trường hợp này quyền và lợi
ích hợp pháp củ nguyên đơn đã không bảo vệ được.
Mặt khác, việc áp dụng quy định này của BLTTDS trong thực tiễn cũng gặp rất
nhiều khó khăn, vướng mắc do BLTTDS chưa quy định rõ. Trong trường hợp vụ án có
nhiều nguyên đơn mà một trong các nguyên đơn vắng mặt không có lý do chính đáng dù
đã được triệu tập đến lần thứ hai cịn các ngun đơn khác đều có mặt theo giấy triệu tập
của tòa án, tòa án sẽ giải quyết ra sao? Vấn đề này do pháp luật quy định chưa rõ ràng,
nên nó được áp dụng hết sức khác nhau tùy theo ý chí chủ quan của các thẩm phán.
2. Giải pháp hoàn thiện
Một là, BLTTDS cần có quy định về trường hợp vụ án phức tạp có quá nhiều
đương sự tham gia tố tụng mà có đương sự vắng mặt, để tránh việc phải hoãn phiên tịa
nhiều lần, vừa đảm bảo giải quyết nhanh chóng vụ án dân sự, lại vừa bảo đảm được
quyền lợi của các đương sự. Do đó cần bổ sung thêm vào Điều 202, một căn cứ nữa để
Tịa án có thể tiến hành xét xử vắng mặt đương sự tại phiên tịa theo hướng: Trong
trường hợp vụ án có nhiều đương sự mà có đương sự vắng mặt tại phiên tịa nhưng các

đương sự có mặt đồng ý xét xử vắng mặt họ, hoặc việc xét xử vắng mặt các đương sự
này không làm ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của các đương sự khác thì việc xét xử
vẫn được tiến hành vắng mặt họ.
8


Hai là, Để những quy định về trường hợp hoãn phiên tòa do đương sự đã được
triệu tập hợp lệ mà vắng mặt lần đầu do có lý do chính đáng không trở thành những quy
định thừa và không được thực hiện trên thực tế, thì cần sửa đổi khoản 1 Điều 199, khoản
1 Điều 200 và khoản 1 Điều 201 theo hướng: đương sự (nguyên đơn; bị đơn; người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) phải có mặt tại phiên tòa theo giấy triệu tập của Tòa án;
nếu vắng mặt lần thứu nhất thì phải hỗn phiên tịa.
Ba là, Cần đảm bảo quyền lợi của nguyên đơn trong trường hợp nguyên đơn được
triệu tập hợp lệ đến hai lần mà vẫn vắng mặt mà có lý do chính đáng. Thay vì quy định
như điểm e khoản 1 Điều 192 là nguyên đơn đã được triệu hợp lệ đến hai lần mà vẫn
vắng mặt thì phải đình chỉ giải quyết vụ án dân sự, BLTTDS nên bổ sung quy định trong
trường hợp này theo hướng: Trong trường hợp nguyên đơn đã được triệu tập đến hai lần
mà vẫn vắng mặt khơng có lý do chính đáng thì Tịa án quyết định đình chỉ giải quyết vụ
án đó; trường hợp ngun đơn đã được triệu tập hợp lệ đến hai lần mà vẫn vắng mặt
nhưng có lý do chính đáng thì được u cầu tịa án tạm đình chỉ giải quyết vụ án.
Bốn là, Bổ sung quy định trong trường hợp vụ án có nhiều nguyên đơn
BLTTDS nên bổ sung quy định trong trường hợp này theo hướng:
- Nếu vụ án có nhiều nguyên đơn nhưng mỗi nguyên đơn có yêu cầu riêng biệt đối
với bị đơn thì, về bản chất, trường hợp này tòa án đã nhập nhiều vụ án về cùng một
nhóm quan hệ pháp luật có tranh chấp thành một vụ án. Do vậy, khi một nguyên đơn
vắng mặt lần hai khơng có lý do chính đáng, tịa án có thể tách vụ kiện ra để giải quyết
yêu cầu của các đương sự có mặt. Việc tách này sẽ bảo đảm cho tịa án giải quyết nhanh
chóng vụ việc, đúng pháp luật, bảo vệ quyền của các nguyên đơn có mặt.
- Nếu vụ án có đồng nguyên đơn mà một trong các nguyên đơn vắng mặt lần hai
không có lý do chính đáng, thì tịa án nên tiếp tục xét xử để bảo đảm quyền lợi cho các

nguyên đơn có mặt. Tịa án khơng thể vì lý do vắng mặt khơng chính đáng của một
ngun đơn mà để nguyên đơn khác không thực hiện được quyền khởi kiện của họ. Mặt
khác, vì các tài sản có tranh chấp của đồng nguyên đơn thường có giá trị rất lớn nên tiền
tạm ứng án phí cao; nếu tịa án đình chỉ việc giải quyết vụ án thì tiền tạm ứng án phí bị
sung cơng quỹ. Điều đó rất thiệt cho ngun đơn có mặt. Vì vậy, việc tịa án tiếp tục xét
xử là hợp lý. Nguyên đơn vắng mặt phải chấp nhận bản án xét xử vắng mặt của mình.
C.

Kết thúc vấn đề
9


Qua những phân tích ở trên ta có thể thấy BLTTDS đã có những quy định tương
đối đầy đủ về các thủ tục áp dụng trong trường hợp xét xử vắng mặt đương sự tại tòa án
cấp sơ thẩm, phúc thẩm, tạo điều kiện thuận lợi cho cả tòa án lẫn các bên đương sự trong
việc giải quyết các vụ án đương sự mà có đương sự vắng mặt. Tuy nhiên, những quy
định này vẫn chưa thực sự bao quát, cịn bỏ xót một số trường hợp gây khó khăn, lúng
túng cho Tòa án khi áp dụng các quy định của pháp luật, cũng như gặp những vấn đề
phát sinh, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong vụ án dân sự
chưa thực sự được đảm bảo. Thiết nghĩ các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, trong
phạm vi quyền hạn của mình cần kịp thời có những sửa đổi, bổ sung để hồn thiện hơn
nữa những quy định của pháp luật về vấn đề này.

Danh mục tài liệu tham khảo

10


1. Trường Đại học luật Hà Nội, Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb.Tư
pháp, năm 2005.

2. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004.
3. Nghị quyết 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 Hướng dẫn thi
hành các quy định trong phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại tòa án cấp
sơ thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự.
4. Nghị quyết 05/2006/NQ-HĐTP ngày 4 tháng 8 năm 2006 Hướng dẫn thi hành
các quy định trong phần thứ ba “Thủ tục giải quyết vụ án tại tòa án cấp phúc
thẩm” của Bộ luật tố tụng dân sự.
5. ThS.Bùi Thị Huyền, Hỗn và tạm ngừng phiên tịa sơ thẩm, Tạp chí Luật học,
số 6/2007, tr.33-40.
6. Nguyễn Việt Cường, Hiểu và áp dụng Điều 192 BLDS như thế nào cho đúng?,
Tạp chí Tịa án nhân dân, số 4/2009.
7. Nguyễn Minh Tiến, Trường hợp xét xử vắng mặt đối với người bị kiện và thủ
tục tiến hành khi xét xử, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 23/2008.
8. “Những bất cập của
pháp luật về đình chỉ việc giải quyết vụ án dân sự”.
9. “Một số
căn cứ hoãn phiên tòa dân sự sơ thẩm từ quy định của Bộ luật tố tụng dân sự.”
10. />“thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự 2004: Về sự có mặt của đương sự tại phiên
tòa: Luật quá “chặt”, áp dụng quá “thoáng”.

11



×