Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước – tiềm năng và giới hạn ý nghĩa phương pháp luận trong bối cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay tiểu luận cao học môn chuyên đề kinh tế chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (211.1 KB, 31 trang )

A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài.
Chủ nghĩa tư bản – hình thái kinh tế xã hội được hình thành và phát triển từ
giữa thế kỷ XVI. Nhờ những thành tựu cuả cuộc cách mạng công nghiệp, phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được ra đời, đưa loài người tiến lên một nấc thang
mới trong quá trình vận động và phát triển, đi đúng theo quy luật, chủ nghĩa tư bản
ra đời đã thể hiện được tính tích cực, phát triển của nó hơn so cới các hình thái kinh
tế - xã hội trước đó. Nhờ việc cải tiến kỹ thuật, áp dụng thành công những thành tựu
của cuộc cách mạng công nghiệp, ngay từ khi mới ra đời chủ nghĩa tư bản đã đem
lại cho loài người những thành tựu mà nhân loại chưa từng được chứng kiến. Mác
đã nhận xét: Trong vòng chưa đầy một thế kỷ thống trị của mình, chủ nghĩa tư bản
đã tạo ra được một sức sản xuất khổng lồ bằng tất cả các thế hệ loài người trước đó
đã tạo ra.
Chủ nghĩa tư bản trải qua quá trình vận động, phát triển cũng đã bộc lộ nhiều
mâu thuẫn, hạn chế trong sản xuất, quản lí – tổ chức cũng như phân phối sản phẩm.
Hạn chế này trong chủ nghĩa tư bản được xác định do nguyên nhân sâu xa là mâu
thuẫn giữa trình độ xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản suất với tính chất sở
hữu tư nhân về tư liệu sản xuất.Bởi vậy để điều chỉnh nhằm xoa dịu những mâu
thuẫn, hạn chế, chủ nhĩa tư bản đã thay đổi hình thức vận động bằng các giai đoạn
phát triển khác nhau cho phù hợp với điều kiện thực tiễn.
Tiếp theo giai đoạn cạnh tranh tự do, chủ nghĩa tư bản phát triển lên giai đoạn
cao hơn là giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền và sau đó là chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước. Thực chất, đây là những nấc thang mới trong quá trình phát triển
và điều chỉnh của chủ nghĩa tư bản về cả lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất để
thích ứng với những biến động mới trong tình hình kinh tế - chính trị thế giới cuối
thế kỉ XIX và đầu thế kỉ XX cho đến nay.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, bước phát triển tiếp theo của chủ nghĩa
tư bản độc quyền, sinh ra trong Chiến tranh thế giới I, sau là Anh, Pháp, Mỹ và trở
thành phổ biến từ sau Chiến tranh thế giới II đến nay. Những đặc điểm kinh tế của
nó đang trở thành đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa tư bản hiện nay.


1


Hiện nay, những vấn đề lý luận và thực tiễn của chủ nghĩa tư bản hiện đại
đang là đối tượng nghiên cứu phức tạp của các nhà khoa học thuộc nhiều trào lưu tư
tưởng, chính trị xã hội khác nhau trên tất cả các khu vực trên thế giới. Chủ nghĩa tư
bản ngày nay đang còn có khả năng phát triển với những tiềm năng và giới hạn nhất
định của nó. Nhận thức rõ điều đó trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa quan trọng
đối với phát triển nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay, bởi để xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội Việt Nam cần thiết và tất yếu phải kế thừa những thành
quả của chủ nghĩa tư bản hiện đại.
Ở Việt Nam, từ sau đại hội VI năm 1986 của Đảng, chúng ta đã thực hiện
chính sách mở cửa, mục tiêu xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong bối cảnh toàn cầu hoàn diễn ra mạnh mẽ, khoa học kĩ thuật, công nghệ
thông tin phát triển như vũ bão, kinh tế công nghiệp đang chuyển dần sang kinh tế
tri thức, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, chúng ta đã vận dụng rất linh hoạt,
thành công những lí luận về chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước trong việc điều
hành nền kinh tế, xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần.
Với ý nghĩa trên tôi xin chọn vấn đề “ Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
– Tiềm năng và giới hạn. Ý nghĩa phương pháp luận trong bối cảnh nền kinh tế
nước ta hiện nay “ làm đề tài tiểu luận cho môn chuyên đề Kinh tế chính trị.
2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu.
2.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đề tài nghiên cứu tiềm năng, giới hạn của chủ nghĩa tư bản trong quá trình vận
động, phát triển thông qua những hình thức biểu hiện và ý nghĩa của nó trong quá
trình xây dựng nền kinh tế ở nước ta hiện nay.
2.2. Phạm vi khảo sát
Nội dung bài tiểu luận thực hiện khảo sát trên quy mô các nước tư bản phát
triển điển hình như Anh, Mỹ, Nhật…., từ đó vận dụng vào quá trình phát triển kinh
tế của nước ta từ đại hội IX ( 4/2001 ) đến đại hội XI ( 1/2011 ) của Đảng.

3. Tình hình nghiên cứu.
Hiện đang có rất nhiều các nghành khoa học và các công trình nghiên cứu về
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước và ý nghĩa của nó đối với quá trình phát triển
kinh tế ở nước ta dưới nhiều góc độ, phạm vi tiếp cận khác nhau như: “Võ Đại
Lược, “Chủ nghĩa tư bản Khủng hoảng và tự điều chỉnh, nxb: Khoa học xã hội 2


2002”. “ Chủ nghĩa tư bản thế kỷ XXI “ (Đỗ Lộc Diệp, nxb CTQG – 2004 )”, “
Mâu thuẫn trong chủ nghĩa tư bản” ( Đỗ Lộc Diệp, nxb CTQG – 2001 ). Những
công trình nghiên cứu trên đã mang lại những cái nhìn đúng đắn trong quá trình
phát triển của chủ nghĩa tư bản. Nhưng trong thực tế chủ nghĩa tư bản vẫn luôn vận
động và phát triển không ngừng, bởi vậy một nhu cầu cấp bách đặt ra là cần phải
nghiên cứu sâu hơn nữa những tiềm năng, giới hạn của chủ nghĩa tư bản từ đó vận
dụng những thành quả của chủ nghĩa tư bản vào trong quá trình phát triển kinh tế
đất nước trong giai đoạn hiện nay.
4. Nhiệm vụ, mục tiêu nghiên cứu.
4.1. Mục tiêu nghiên cứu.
Một là: Đi sâu tìm hiểu những vấn đề lí luận của chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước trong giai đoạn hiện nay.
Hai là: Chỉ ra những tiềm năng, giới hạn của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước trong bối cảnh mới hiện nay.
Ba là:Ý nghĩa phương pháp luận được rút ra thông qua những tiềm năng, giới
hạn của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước trong quá trình xây dựng nền kinh tế
thị trường định hưỡng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Lí luận: Làm sáng tỏ những vấn đề của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước
từ đó chỉ ra những tiềm năng, giới hạn của nó trong giai đoạn hiện nay.
Thực tiễn : Vận dụng những thành tựu của chủ nghĩa tư bản trong quá trình
xây dựng nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay.
5.


Phương pháp nghiên cứu.

 Phương pháp luận.
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở lí luận cơ bản của chủ nghĩa Mác-LêNin,
tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước.


Phương pháp nghiên cứu chung.

Đề tài được nghiên cứu đứng trên lập trường phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin: Đó là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Ngoài ra tiểu luận còn sử dụng các phương pháp đặc thù của khoa học chính
trị như:
3


− Phương pháp logic lịch sử.
− Phương pháp hệ thống.
− Phương pháp phân tích, so sánh.
6. Kết cấu của đề tài
Đề tài ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo. Đề tài có 3
chương, 7 tiết.

4


B. NỘI DUNG
1.1.


Chương 1. Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
Bản chất, nguyên nhân ra đời và sự phát triển cuả chủ nghiã tư

bản độc quyền nhà nước.
1.1.1. Khái niệm chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển trải qua hai giai đoạn:

− Giai đoạn chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh.
− Giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Trong mỗi giai đoạn tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước cũng như
điều kiện quốc tế, thời đại mà có sự khác nhau về hình thức biếu hiện, trình độ phát
triển v.v…
Dựa vào các luận cứ khoa học, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tìm ra quy luật hình
thành và phát triển của chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh. Trên cơ sở đó hai ông đã
dự kiến rằng: Tự do cạnh tranh sẽ đẻ ra tập trung sản xuất và sự tập trung sản xuất
này, khi phát triển tới một mức độ nào đó, lại dẫn tới độc quyền.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước không phải là một giai đoạn mới của
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chủ nghĩa mà chỉ là hình thức phát triển cao
của giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước xuất hiện từ sau Chiến tranh thế giới lần
thứ nhất (1914 – 1918) đầu tiên là ở Đức. Nó phát triển mạnh và trở thành phổ biến
ở các nước tư bản từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai (1939 – 1945) đến nay, trải
qua những giai đoạn phát triển khác nhau.
Như vậy chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước theo nghĩa chung nhất: Đó
chính là một giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa tư bản độc quyền thuộc phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đó là sự kết hợp chặt chẽ giữa hai lực lượng: Các tổ
chức tư bản độc quyền và nhà nước tư sản thành một cơ chế thống nhất.
1.1.2.


Nguyên nhân ra đời và sự phát triển của chủ nghĩa tư bản độc

quyền nhà nước.
Quá trình chuyển từ chủ nghĩa tư bản độc quyền thành chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước do những nguyên nhân chủ yếu sau:

− Mâu thuẫn gay gắt giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất và sự
chiếm hữu tư bản tư nhân về tư liệu sản xuất. Trình độ xã hội hóa cao của lực lượng
5


sản xuất không còn phù hợp với khuôn khổ của quan hệ độc quyền tư nhân, tất yếu
đòi hỏi sự điều tiết mạng tính chất “xã hội” đối với nền sản xuất xã hội. Bởi vậy,
nhà nước tư bản ngày càng thể hiện vai trò quan trọng của mình trong việc điều tiết
nền kinh tế.

− Do sự phát triển của lực lượng sản xuất, sự phát triển của cuộc cách mạng
khoa học – công nghệ hiện đại đã dẫn tới biến đổi sâu sắc về cơ cấu kinh tế, làm
xuất hiện nhiều ngành nghề mới, lĩnh vực nghiên cứu mới..v.v…Bởi vậy như cầu tư
bản ngày càng lớn. Chỉ có nhà nước với nguồn ngân sách to lớn của nó mới có thể
đáp ứng được. Hơn nữa, có nhiều ngành do tính chất, đặc điểm không có lợi nhuận
cao thậm chí có khả năng lỗ, cho nên tư nhân không muốn đầu tư, bởi vậy nhà nước
cần phải đầu tư kinh doanh.

− Do các mâu thuẫn vốn có của nghĩa tư bản bao gồm mâu thuẫn giữa giai
cấp tư sản và giai cấp công nhân, mâu thuẫn giữa các nước tư bản với nhau, mâu
thuẫn giữa các nước tư bản với các nước khác trên thế giới v.v… đòi hỏi phải có sự
can thiệp của nhà nước, cũng như sự kết hợp của nhà nước với tổ chức, công ty tư
bản nhằm điều hòa các mâu thuẫn nói trên.


− Do các cuộc đấu tranh với các mức độ, hình thức và phạm vi khác nhau của
nhân dân thế giới vì độc lập dân tộc, tiến bộ xã hội, đặc biệt là sự ảnh hưởng của
các nước xã hội chủ nghĩa đã đòi hỏi phải duy trì và phát triển chủ nghĩa tư bản
trong mỗi nước và trên phạm vi quốc tế. Trong điều kiện đó đòi hỏi cần có sự kết
hợp của nhà nước tư sản với các tổ chức độc quyền.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước phát triển mạnh và trở thành phổ biến
ở hầu hết các nước tư bản, ở mỗi nước trải qua các nấc thang phát triển khác nhau
tùy thuộc vào điều kiện, năng lực lãnh đạo, tổ chức của mỗi quốc gia.
1.1.3.

Bản chất của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.

Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước không phải là một phương thức sản
xuất mới mà nó là hình thứ phát triển cao của giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền.
Với ý nghĩa đó chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước được tìm hiểu ở đây khác với
chủ nghĩa tư bản đang tồn tại và phát triển ở các nước đang phát triển mà nó được
thể hiện thông qua các nước tư bản có trình độ phát triển cao như Mỹ, Tây Âu…..

6


Mặc dù có sự khác nhau ở mỗi nước tư bản phát triển, song nhìn chung hình
thức biểu hiện chủ yếu của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là sự kết hợp chặt
chẽ giữa các tổ chức tư bản độc quyền và nhà nước tư sản tạo thành một khối thống
nhất. Một mặt nhà nước tăng cường vai trò lãnh đạo, can thiệp của mình vào nền
kinh tế; mặt khác, nhà nước lại phụ thuộc vào các tư bản độc quyền và phục vụ lợi
ích của họ. Cùng với quá trình này là sự xuất hiện của khu vực kinh tế nhà nước –
sở hữu nhà nước tư bản phát triển trong một số ngành, khâu, lĩnh vực, xí nghiệp
trọng yếu của nền kinh tế.
Như vậy nhà nước tư sản - một bộ phận của kiến trúc thượng tầng đã thực sự

tham gia và có vị trí nhất định trong cơ sở hạ tầng. Bởi vậy khi xem xét một cách
toàn diện thì chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước chính là một hình thức vận động
mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa .
Từ sự phân tích nói trên có thể đi đến kết luận: Bản chất của chủ nghĩa tư bản
độc quyền nhà nước là hình thức vận động mới của quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa, là sự dung hợp giữa các tổ chức tư bản độc quyền và nhà nước tư sản thành
một tổ chức thống nhất có quyền lực và sức mạnh kinh tế, trong đó nhà nước phụ
thuộc nhiều vào tổ chức độc quyền và can thiệp vào quá trình kinh tế nhằm đem lại
lợi nhuận độc quyền cho các tổ chức độc quyền và nhằm khắc phục những khó
khăn, mâu thuẫn vốn có của chủ nghĩa tư bản.
1.2.

Những biểu hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước và các

hình thức quốc tế của nó.
1.2.1. Những biểu hiện của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
Chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước có những hình thức biểu hiện chủ yếu:
• Sự dung hợp giữa các tổ chức độc quyền và nhà nước tư sản.
Quá trình này được thực hiện bằng 2 cách:

− Tạo sự kết hợp về con người giữa các tổ chức độc quyền và nhà nước,
thông qua việc các tổ chức độc quyền cử người của mình nắm giữ các vị trí quan
trọng của bộ máy nhà nước. Ngược lại, mhà nước cũng cử người nắm những chức
vụ quan trọng trong các tổ chức độc quyền.

− Các tổ chức độc quyền thông qua tổ chức của mình với các tên gọi khác
nhau “ Hội tổ chức độc quyền ”. ” Hội độc quyền “, “ Hiệp hội các tổ chức kinh tế

7



“,… tìm mọi cách, mọi biện pháp để sử dụng và chi phối bộ máy nhà nước nhằm
phục vụ lợi ích của các tôe chức độc quyền.

− Hướng các chính sách kinh tế của nhà nước phục vụ lợi ích của các tổ chức
độc quyền trong nước và quốc tế bằng cách nghiên cứu, đề xuất các chủ trương,
chính sách kinh tế của nhà nước, các dự án,….
Thông qua các biện pháp trên, các tổ chức độc quyền đã trở thành một
“chính phủ thực sự”, bộ tham mưu “đứng sau chính phủ hình thức” , một “quyền
lực thực tế” đằng sau quyền lực của chính quyền nhà nước.
Cần lưu ý rằng, ở những mức độ nhất định, giữa các nhà nước và các tổ chức
độc quyền vẫn có tính độc lập tương đối khi cần xử lý các mâu thuẫn lợi ích nảy
sinh giữa các tầng lớp trong xã hội.
Trong thời gian gần đây, việc kết hợp giữa các tổ chức độc quyền tư nhân và
nhà nước tư sản đã có những thay đổi nhất định về biện pháp và hình thức biểu
hiện: Như việc quy định cụ thể nhằm hạn chế hoạt động kinh doanh với tư cách là
tư bản độc quyền của các quan chức trong bộ máy nhà nước, luật pháp hạn chế
tính chất độc quyền v.v…
• Nhà nước tư sản thực hiện vai trò điều tiết kinh tế thông qua các công cụ và
biện pháp thích hợp
Nền kinh tế tư bản chủ nghĩa phát triển đến một mức độ nhất định đòi hỏi phải
có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước nhằm mục đích: một mặt, hạn chế những khuyết
tật của cơ chế thị trường, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho quá trình tăng trưởng
kinh tế, định hướng về sản lượng, về tốc độ tăng trưởng, cân đối ngân sách và cán
cân thanh toán quốc tế, ổn định giá cả, khống chế lạm phát; mặt khác, giải quyết
những vấn đề xã hội như: công ăn việc làm, đời sống thu nhập, điều hòa các mâu
thuẫn trong xã hội, góp phần giải quyết các mối quan hệ kinh tế quốc tế…..
Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết vĩ mô nền kinh tế thông qua các biện pháp
hành chính và kinh tế với các công cụ: kế hoạch hóa nền kinh tế, xây dựng chiến
lược phát triển kinh tế, hệ thống hóa các chính sách xã hội, hệ thống pháp luật và sử

dụng thực lực kinh tế của nhà nước. Chẳng hạn:

8


− Thông qua các doanh nghiệp nhà nước – đó là những doanh nghiệp thuộc
sở hữu nhà nước sử dụng lực lượng ngân sách, ngân hàng phát hành, lực lượng dự
trữ quốc gia, hệ thống thông tin dự báo v.v….

− Thông qua việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế, các kế hoạch dài
hạn, trung hạn…

− Thông qua hệ thống pháp luật nhà nước: Luật hạn chế độc quyền, luật cạnh
tranh, luật về buôn bán sòng phẳng, luật quảng cáo,….

− Thông qua hệ thống chính sách kinh tế như: chính sách tài chính, tiền tệ,
chính sách về nông sản,….. trong những trường hợp cần thiết, nhà nước can thiệp
trực tiếp vào cung cầu, giá trị, tiêu thụ, kiểm soát việc sử dụng tài nguyên, quy định
mực tiền lương tối thiểu, điều tiết nền kinh tế quá “ nóng” hoặc quá “ lạnh”.
• Sự hình thành và phát triển thị trường nhà nước và sở hữu nhà nước.
Sự hình thành và phát triển sở hữu nhà nước dưới chủ nghĩa tư bản là một tất
yếu khách quan do trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản xuất quyết định. Bởi
vì: một mặt, khi sản xuất tư bản chủ nghĩa đạt đến trình độ xã hội hóa cao đòi hỏi
khách quan phải có sự điều tiết của nhà nước ở tầm vĩ mô, muốn vậy, ngoài những
công cụ pháp luật, kế hoạch hóa, các chính sách và đòn bẩy kinh tê, nhà nước cần
phải có thực lực kinh tế mạnh, cũng như phải nắm được trong tay mình những “ đài
chỉ huy “của nền kinh tế ; mặt khác, một số lĩnh vực, ngành kinh tế nhà nước cần
phải đảm nhận do tư nhân không thể và không muốn đầu tư nhưng lại cần thiết cho
nền kinh tế quốc dân. Điều đó tất yếu dẫn đến sự hình thành khu vực kinh tế nhà
nước. Tùy theo điều kiện lịch sử của mỗi nước, tỉ trọng của khu vực kinh tế nhà

nước chiếm trong nền kinh tế quốc dân có sự khác nhau. Nhưng thông thường
chiếm khoảng 30 – 45%, chúng đặc biệt phát triển trong học thuyết Keynes thống
trị trong chính sách kinh tế của nhà nước tư sản. Hình thái sở hữu kinh tế nhà nước
được hình thành và phát triển thông qua các biện pháp như quốc hữu hóa có bồi
thường ( thực chất là mua lại doanh nghiệp tư nhân ); tham gia giữ cổ phiếu khống
chế trong các công ty cổ phần hoặc dùng ngân sách để xây dựng mới các công trình.
Sự ra đời và phát triển của sở hữu nhà nước không mâu thuẫn với lợi ích của
các tổ chức độc quyền và chưa làm thay đổi căn bản về chất của quan hệ sản xuất tư
bản chủ nghĩa.
9


Những năm gần đây, trong các nước tư bản chủ nghĩa đang diễn ra quá trình
điều chỉnh lại khu vực kinh tế nhà nước theo hướng giảm dần tỷ trọng nhưng vẫn
nắm được những vị trí then chốt, trọng yếu của nền kinh tế và cải tiến quản lí để
nâng cao hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này. Mặt khác, ở các nước tư bản
hiện nay, khó khăn chủ yếu không phải nằm chủ yếu ở khâu sản xuất hàng hóa mà ở
khâu tiêu thụ hàng hóa ( H” – T” ). Nếu như sự xuất hiện sở hữu nhà nước về tư liệu
sản xuất là nhằm cung cấp những điều kiện, yếu tố của quá trình sản xuất cho các tổ
chức độc quyền tư nhân thì sự hình thành và phát triển thị trường nhà nước là để
giải quyết khó khăn ở các khâu tiêu thụ hàng hóa cho các tổ chức đó.
Chủ nghĩa tư bản phát triển cùng với việc tăng lên các nhu cầu chi tiêu của bộ
máy nhà nước : quân đội, cảnh sát, chi phí quốc phòng, chi phí cho các vấn đề xã
hội, quốc tế ( viện trợ nhà nước, liên hiệp quốc….). Bởi vậy, thông qua các đơn đặt
hàng của nhà nước với khối lượng lớn, giá cao và ổn định, nhà nước trở thành một
khách hàng quan trọng góp phần đem lại những khoản lớn cho các tổ chức độc
quyền tư nhân.
Trong vài thập niên gần đây, mức độ, biện pháp can thiệp của nhà nước vào nền
kinh tế cũng có những thay đổi quan trọng. Tuy rằng, ở mỗi nước có sự khác nhau,
song xu hướng chung là: nhà nước tăng cường vai trò, vị trí của nó trong việc thực hiện

chức năng kinh tế - xã hội trong phạm vi quốc gia và quốc tế. Tăng cường khả năng và
hiệu quả điều tiết vĩ mô nền kinh tế và giảm đến mức cần thiết sự can thiệp trực tiếp
của nhà nước vào nền kinh tế - giảm số lượng doanh nghiệp nhà nước, giảm nhiều loại
phúc lợi xã hội dùng ngân sách nhà nước, tăng cường các hình thức bảo hiểm do người
dân tự tham gia, nâng cao tính đa dạng trong nền kinh tế, biểu hiện ở sự đa dạng về
hình thức sở hữu, loại hình công ty, xí nghiệp, các loại quy mô….
Ngày nay, dưới những điều kiện phát triển mới của thực tiễn chủ nghĩa tư bản
còn có những biểu hiện đó là:
• Sự phát triển chưa từng có và rộng khắp của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước. Biểu hiện chủ yếu là:

− Tỷ trọng của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa tăng lên
rõ rệt.

10


− Sự kết hợp giữa kinh tế nhà nước và kinh tế tư nhân cũng tăng lên nhanh
chóng.

− Chi tiêu tài chính của các nhà nước tư bản phát triển dùng để điều tiết quá
trình tái sản xuất xã hội tăng.
Sở dĩ như vậy là do:

− Sự phát triển của lực lượng sản xuất và trình độ xã hội hoá cao đã đặt ra
một loạt vấn đề mới đòi hỏi phải có sự giải quyết của nhà nước.

− Cạnh tranh trên thị trường trong nước và ngoài nước gay gắt đòi hỏi nhà
nước phải đứng ra mở cửa thị trường.
• Sự điều tiết kinh tế của nhà nước tư sản cũng có những biểu hiện mới:

Vai trò kinh tế và phương thức điều tiết nền kinh tế thị trường hiện đại của nhà
nước tư bản độc quyền lại có những nét độc đáo và là đặc điểm cơ bản của chủ
nghĩa tư bản ngày nay.

− Mục tiêu của sự điều tiết kinh tế là nhằm khắc phục những khuyết tật của
kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa, định hướng cho sự phát triển kinh tế - xã hội
nhằm tăng trưởng kinh tế, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của chủ nghĩa tư bản.

− Để điều tiết nền kinh tế, nhà nước tư bản độc quyền đã tổ chức bộ máy điều
tiết gồm cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp và về mặt nhân sự có sự tham gia của
những đại biểu của tập đoàn lớn và các quan chức nhà nước. Đồng thời bên cạnh bộ
máy này còn có hàng loạt các tiểu ban được tổ chức dưới những hình thức khác
nhau.

− Cơ chế điều tiết kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là: Cơ chế
kết hộp thị trường tự do cạnh tranh với tính năng động của tư bản độc quyền tư nhân.

− Phương thức điều tiết của nhà nước linh hoạt, mềm dẻo hơn, phạm vi rộng hơn.
1.2.2.

Các hình thức quốc tế của chủ nghĩa tư bản độ quyền nhà nước.

Trong điều kiện độc quyền tư nhân, chủ thể thực hiện việc quốc tế hóa là
các tổ chức độc quyền tư nhân. Nó được tổ chức dưới hình thức: cácten quốc tế,
tơrớt quốc tế, xanhđica quốc tế, congooxiom quốc tế, công ty siêu quốc gia, công
ty đa quốc gia v.v…..

11



Khi chủ nghĩa tư bản độc quyền tư nhân chuyển sang hình thức chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước thì có sự thay đổi chủ thể trong việc thực hiện quốc tế hóa.
Chủ thể này là nhà nước tư sản độc quyền mà không phải là tư nhân.
Những hình thức quốc tế điển hình của chủ nghĩa tư bản độc quyền Nhà nước
là khối cộng đồng chung Châu Âu, khối mậu dịch tự do. Bên cạnh đó còn có hình
thức quốc tế của 7 nước tư bản phát triển ( G7 ).
Đây là liên hợp độc quyền của nhiều nước tư bản, trong đó có độc quyền nhà
nước là chủ thể, một hình thức biến tướng và cao hơn của các tổ chức độc quyền
quốc tế ( tư nhân ). Đặc điểm hoạt động của chúng ta là chi phối hầu hết các yếu tố
sản xuất. Nó chi phối không chỉ về mặt kinh tế mà cử về mặt chính trị và xã hội
giữa các thành viên trong khối. Nó còn là sức mạnh để bành chướng thế lực từ đó
thực hiện ý đồ chi phố tình hình kinh tế, xã hội và chính trị trên thế giới.
1.3. Cơ chế kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
1.3.1. Cơ chế kinh tế và các yếu tố cấu thành.
Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa phát triển qua hai giai đoạn tự do cạnh
tranh và giai đoạn độc quyền. Trong giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền, tồn tại
hai hình thức độc quyền: Độc quyền tư nhân và độc quyền nhà nước. Tương ứng với
mỗi hình thức có cơ chế thích hợp. Dưới hình thức chủ nghĩa tư bản độc quyền tư
nhân có cơ chế hỗn hợp giữa cạnh tranh tự do và độc quyền. Dưới hình thức chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, cơ chế kinh tế được xác định gồm 3 yếu tố sau
đây;

− Cạnh tranh tự do ( cung - cầu, lợi nhuận bình quân, giá cả sản xuất )là yếu
tố cơ sở gắn với sự điều tiết nền kinh tế. Đây là cơ chế tự điều tiết của thị trường
với các quy luật của nó.

− Độc quyền ( cung – cầu , lợi nhuận độc quyền, giá cả độc quyền ) là yếu tố
quan trọng gắn liền với sự điều tiết nền kinh tế của độc quyền tư nhân.

- Nhà nước thông qua các công cụ của mình với tư cách là các yếu tố xã hội để

điều tiết nền kinh tế.
Trong ba yếu tố trên, hai yếu tố đầu gắn liền với cơ chế kinh tế kinh tế hỗn
hợp của chủ nghĩa tư bản độc quyền (tư nhân). Do vậy, sự khác nhau giữa cơ chế
kinh tế của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước với cơ chế của chủ nghĩa tư bản

12


độc quyền tư nhân là ở yếu tố thứ 3 đó là: Nhà nước thông qua các công cụ của
mình với tư cách là các yếu tố xã hội để điều tiết nền kinh tế. Ở đây, vai trò điều tiết
kinh tế ở tầm vĩ mô của nhà nước có ý nghĩa hết sức quan trọng.
1.3.2.

Vai trò điều tiết kinh tế của nhà nước trong chủ nghĩa tư bản độc

quyền nhà nước.
Keynes - nhà kinh tế học người Anh đã đưa ra lý thuyết về vai trò của nhà
nước trong việc điều chỉnh nền kinh tế trong tác phẩm “ Lý thuyết chung về việc
làm, lãi suất và tiền tệ “ năm 1936. Thực chất của thuyết này là nhà nước tư bản can
thiệp vào quá trình tái sản xuất bằng những chính sách, biện pháp tài chính, tín
dụng, v.v….Ngày nay, lí thuyết này được phát triển cùng với các lý thuyết chủ
nghĩa tư bản tự do mới và trở thành phương pháp luận cho việc nhà nước điều tiết
kinh tế vĩ mô trong hầu hết các nước tư bản.
Ngày nay, không thể khắc phục những khuyết tật vốn có của kinh tế thị trường
như ( phá sản, khủng hoảng, phân hóa, thất nghiệp và hậu quả về mặt xã hội….) và
không thể thực thi vai trò thay mặt xã hội của nhà nước, nếu nhà nước đứng bên
ngoài hoặc bên trong quá trình sản xuất. Nhà nước tư bản, bên cạnh tính chất giai
cấp ( phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản độc quyền ) vẫn có tính nhân dân nhất
định, nên nhà nước vẫn có tính độc lập tương đối khi xử lý những mâu thuẫn về lợi
ích trong mối quan hệ giữa lợi ích quốc gia, dân tộc với các tổ chức kinh tế. Đó là

một yếu tố khách quan.
Sức mạnh cơ bản của cơ chế kinh tế trong kinh tế tư bản chủ nghĩa vẫn là thị
trường, cơ chế thị trường, song tính tự phát,khuyết tật của nó đã bị giới hạn bởi hệ
thống pháp luật, bảo đảm hầu hết các quan hệ hàng hóa – tiền tệ được thể chế hóa
và đều được kiểm soát.
Theo Keynes nhà nước thực hiện các giải pháp nhằm giải quyết những khuyết
tật của nền kinh tế thông qua hàng loạt các chính sách như:

− Chương trình đầu tư của nhà nước.
− Chính sách tín dụng, lưu thông tiền tệ.
− Thực hành lạm phát có mức độ.
− Mở rộng sản xuất theo quân sự, quân sự hóa nền kinh tế

13


− Khuyến khích tiêu dùng cá nhân.
Như vậy sự điều tiết của nhà nước tư bản đối với nền kinh tế bằng cách sử
dụng các công cụ : kế hoạch hóa nền kinh tế, thực lực kinh tế của nhà nước, hệ
thống pháp luật, các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tài chính, tiền tệ, tín
dụng, phát triển thị trường, can thiệp vào quan hệ quốc tế v.v…. đã tạo ra được môi
trường, điều kiện thuận lợi để duy trì bình thường quá trình tái sản xuất xã hội, bảo
đảm lợi nhuận độc quyền cao cho tổ chức độc quyền, đồng thời nhà nước tư bản
vẫn thực hiện được chức năng chính trị xã hội.

14


Chương 2. Tiềm năng và giới hạn của chủ nghĩa tư bản ngày nay.


2.1.

Tiềm năng của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.

2.1.1. Cơ sở vật chất - kỹ thuật.
Chủ nghĩa tư bản đã giải phóng con người ra khỏi “ đêm trường trung cổ “ của
xã hội phong kiến, đoạn tuyệt với nền sản xuất tự nhiên - đưa loài người sang nền
sản xuất hiện đại, tiên tiến với phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

− Sự thay đổi về chất của lực lượng sản xuất nhờ thành tựu của cuộc cách
mạng khoa học kỹ thuật đã tạo tiền đề vật chất – kỹ thuật cho chủ nghĩa tư bản ra
đời và phát triển. Ngày nay dưới sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học – công
nghệ hiện đại, chủ nghĩa tư bản đang làm chủ toàn bộ những công nghệ hiện đại
nhất của thế giới, cùng với đó nền kinh tế tri thức cũng ra đời và phát triển ở các
nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Điều này được thể hiện qua sự phát triển nhanh
chóng số lượng và chất lượng các yếu tố vật chất của sản xuất:

− Sự thay thế từng bước của tư liệu sản xuất truyền thống sang những tư liệu
sản xuất hiện đại nhờ thành tựu của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện đại
mà tập trung ở các lĩnh vực điện tử, công nghệ sinh học, viễn thông, phát triển hệ
thống tự động hóa bằng việc sản xuất những dây chuyền sản xuất mang tính tự động
hóa cao v.v…..

− Do tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ đã thúc đẩy việc
sản xuất ra những ngành mũi nhọn được tập trung là “ chùm công nghệ cao “ như
kỹ thuật điện tư, công nghệ thông tin, vật liệu mới, công nghệ sinh học, công nghệ
hải dương….đã tạo ra cho chủ nghĩa tư bản một “ cốt vật chất “ và đưa khoa học
công nghệ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, vai trò đó được thể hiện trực tiếp
thông qua tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Chẳng hạn: theo đánh giá gần đây
người ta cho rằng những đổi mới công nghệ đã đóng góp tới 65% tăng trưởng kinh

tê của Nhật Bản, 73% của Anh, 76% của Pháp và của cộng hòa Liên bang Đức
(theo kết quả thống kê của trung tâm khoa học – công nghệ quốc gia. Tổng
quan đánh giá tình hình phát triển kinh tế thế giới ).
Như vậy với sự tiến bộ không ngừng của cơ sở vật chất – kỹ thuật đã giúp cho
chủ nghĩa tư bản phát triển mạnh mẽ hơn cùng với sự phát triển nhảy vọt của lực
lượng sản xuất.
15


2.1.2. Sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế.
Trong cơ cấu kinh tế của chủ nghĩa tư bản đang tiếp tục chuyển dịch theo
hướng ngày càng dựa vào những yếu tố vô hạn như (năng lượng mặt trời, năng
lượng gió, năng lượng nước…) để chuyển dịch nền kinh tế từ việc phát triển công
nghiệp dựa vào nguồn tài nguyên khai khoáng vật chất thì bay giờ những yếu tố vật
chất của tư liệu sản xuất được thay thế bằng những tư liệu sẵn có, vô hạn.
Như vậy chủ nghĩa tư bản sẽ tiếp tục tận dụng được nguồn tài nguyên mới của
thế giới kết hợp với tài nguyên trí tuệ của con người, từ đó đưa chủ nghĩa tư bản
phát triển lên một nấc thang mới.
Cùng với việ thay đổi cơ cấu ngành kinh tế chủ nghĩa tư bản đã điều chỉnh
cách thức tổ chức nền kinh tế: Chủ nghĩa tư bản đã trải qua kinh nghiệm phát triển
kinh tế thị trường hàng trăm năm nay và trong giai đoạn ngày nay khi mà những
mâu thuẫn trong xã hội vẫn chưa được giải quyết thì chủ nghĩa tư bản đã điều chỉnh
những mâu thuẫn vốn có trong lòng xã hội tư bản, chủ nghĩa tư bản định hướng
phát triển khoa học – công nghệ, thông qua vai trò điều tiết của nhà nước để từ đó
đưa lại hiệu quả cao nhất và giúp chủ nghĩa tư bản tiếp tục phát triển.
2.1.3. Người lao động cùng với xu thế của thời đại.
Chủ nghĩa tư bản hoạt động dựa trên quy luật giá trị thặng dư của người lao
động. Ngày nay cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ,
người lao động trong quá trình lao động, sản xuất cũng đã không ngừng được giải
phóng sức lao động cả về thể lực và trí lực.

Đội ngũ người lao động trong phương thức sản xuất chủ nghĩa tư bản giai đoạn
hiện nay đang không ngừng được nâng cao về trình độ chuyên môn nghiệp vụ, kỹ
năng công tác làm việc thể hiện trình độ chuyên môn hóa cao. Họ là những người
được đào tạo một cách có hệ thống về những khâu trong quá trình sản xuất, nắm chắc
về công nghệ, dây truyền cải tiến kỹ thuật. Trong giai đoạn ngày nay đội ngũ những
người công nhân này đủ tiêu chuẩn là đội ngũ công nhân trí thức của xã hội.
Sự phát triển về trình độ của đội ngũ người lao động là một tất yếu khách quan
của quá trình sản xuất nhằm đuổi kịp những thành tựu của khoa học công nghệ.
Người lao động không chỉ yêu cầu riêng về trình độ đồng loạt của các khâu sản xuất
mà phương thức sản xuất chủ nghĩa tư bản ngày nay còn yêu ccàu người lao động ở

16


trình độ trí tuệ cao, nhằm mục đích tăng cao năng suất lao động bằng việc áp dụng
thành công những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ từ đó dòi
hỏi cần phải có một đội ngũ người lao động có trình độ tay nghề, chuyên môn
nghiệp vụ cao.
Để xoa dịu bớt đi những mâu thuẫn trong đôi ngũ người lao động với chủ
nghĩa tư bản. Giai cấp tư bản đã thực hiện những chính sách tiến bộ nhằm nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần cho đội ngũ những người lao động bằng cách thực hiện
hàng loạt những chính sách bảo hiểm xã hội, trợ cấp xã hội, phúc lợi xã hội nhằm
nâng cao đời sống của người dân. Trong điều kiện hiện nay khi mà có sự tham gia
điều tiết của nền kinh tế, người lao động còn có quyền sở hữu một phần tài sản
trong công ty mà mình đang làm việc thông qua cổ phần, cổ phiếu….. Để giúp
những người công nhân họ yên tâm công tác, làm việc.
Ngày nay dưới tác động của toàn cầu hóa kinh tế đã cho phép chủ nghĩa tư bản
huy động những nguồn lực từ bên ngoài và khai thác có hiệu quả những nguồn lực
từ bên trong, tạo đà cho chủ nghĩa tư bản tiếp tục phát triển dựa trên những tiền đề
về đã có sẵn như vốn, thi trường, cơ sở vật chất – kỹ thuật….

Ngoài ra sự sụp đổ của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới như:
Liên Xô, Đông Âu,… đã tạm thời làm suy yếu đi phong trào cách mạng trong một
thời gian dài, từ đó giúp cho chủ nghĩa tư bản có thời gian tập chung cho việc phát
triển kinh tế, tạo cơ hội mới cho chủ nghĩa tư bản phát triển không ngừng.
2.2.

Giới hạn của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.

2.2.1. Về bản chất chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước vẫn mang bản
chất của chế độ áp bức bóc lột.
Chủ nghĩa tư bản đã trải qua ba giai đoạn phát triển của nó, đi theo những nấc
thang của lịch sử, ban đầu là chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh trải qua quá trình
tích lũy tập trung sản xuất hình thành chủ nghiã tư bản độc quyền và trong giai đoạn
hiện nay chủ nghĩa tư bản đã điều chỉnh quá trình sản xuất, kinh doanh bằng việc
tăng cường vai trò của nhà nước trong hoạt động kinh tế, từ đó hình thành chủ nghĩa
tư bản độc quyền nhà nước.
Trong suốt quá trình phát triển đó, chủ nghĩa tư bản đã không thay đổi bản
chất mà bản chất thật của nó vẫn là chế độ áp bức bóc lột người dân lao động, ngay

17


từ khi ra đời chủ nghĩa tư bản đã bóc lột người dân lao động, công nhân làm thuê
một cách khủng khiếp, quá trình tích lũy tư bản được tạo nên từ máu và nước mắt
của người công nhân làm thuê, họ phải làm việc từ 12 – 16 tiễng một ngày, với
những điều kiện sống vô cùng kham khổ. Chủ nghĩa tư bản luôn tồn tại và phát triển
cho đến ngày hôm nay là dựa vào giá trị thặng dư của người lao động mà nhà tư bản
không trả công.
Dưới ánh sáng của học thuyết Mác- LêNin, đã chỉ cho người công nhân và
nhân dân lao động thấy được bản chất xấu xa của chủ nghĩa tư bản, từ đó hàng loạt

các phong trào đấu tranh nổ ra để chống lại giai cấp tư sản, nhà nước tư bản nhằm
mục đích đòi lại quyền tự do, dân chủ thực sự. Dưới bối cảnh thực tiễn đó, chủ
nghĩa tư bản đã có những điều chỉnh nhất định nhằm xoa dịu, điều hòa những mâu
thuẫn vốn có trong nền kinh tế bằng việc chia cho người công nhân một phần nào
đó sở hữu nguồn sản xuất với các nhà tư bản lớn nhằm mục đích làm giảm bớt đi
phong trào đấu tranh của quần chúng nhân dân lao động. Nhưng thực chất đây cũng
chỉ là chiêu bài của chủ nghĩa tư bản nhằm làm giảm đi mâu thuẫn trong xã hội và
để chủ nghĩa tư bản tiếp tục tồn tại và phát triển, bởi chủ nghĩa tư bản chỉ có thể tồn
tại và phát triển thông qua lao động tạo ra giá trị thặng dư của người công nhân.
Ngoài việc điều chỉnh những thay đổi trong quan hệ sở hữu. chủ nghĩa tư bản
cũng đã thay đổi hình tức bóc lột, từ việc bóc lột về lao động cơ bắp của người lao
động, chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang việc bóc lột tri thức, tiềm năng trí tuệ của
người lao động dưới những phương thức tinh vi, kỹ xảo hơn, đồng thời phạm vi bóc
lột cũng được mở rộng hơn rất nhiều.
2.2.2.

Trong xã hội tư bản chủ nghĩa vẫn còn tồn tại rất nhiều tình

trạng mất bình đẳng, phản ánh ở việc phân hóa giàu nghèo vẫn rất lớn, nạn
phân biệt chủng tộc vẫn còn tồn tại trong xã hội một cách phổ biến.

− Chủ nghĩa tư bản sẽ phải chịu trách nhiệm chính trong việc tạo ra hố ngăn
cách giữa các nước giàu và các nước nghèo trên thế giới ( thế kỷ 18 chênh lệch là
2,5 lần, hiện nay là 250 lần )

− Trong những năm 80 của thế kỷ 20, thế giới thứ ba trì trệ, suy thoái. Điều
này cũng đã được ngân hàng thế giới khẳng định: ở Châu Phi, Mỹ La tinh,...hàng
trăm triệu người đã nhận thấy, đi cùng với tăng trưởng là sự suy tàn về kinh tế, phát
18



triển nhường chỗ cho suy thoái: ở một vài nước Mỹ La tinh, GDP theo đầu người
hiện nay thấp hơn so với 10 năm trước đây. Ở nhiều nước Châu Phi, nó còn thấp
hơn cách đây 20 năm, một thế giới mà trong đó từ 20 năm nay ở Châu Phi, từ 9 năm
nay ở Mỹ La tinh mức sống không ngừng giảm. Trong khi đó mức sống trong các
vùng khác tiếp tục tăng lên, đó là điều hoàn toàn không thể chấp nhận được.

− Các cường quốc tư bản độc quyền hàng mấy thế kỷ nay đã tăng cường vơ
vét tài nguyên, bóc lột công nhân các nước nghèo và tìm cách khống chế họ trong
vòng phụ thuộc thông qua các con đường xuất khẩu tư bản, viện trợ, cho vay...kết
quả là các nước nghèo không những bị cạn kiệt về tài nguyên mà còn mắc nợ không
trả được, điển hình là các quốc gia ở Châu Phi, Châu Mỹ La tinh. Ở Braxin người ta
tính ra riêng số lãi mà Braxin phải trả trong năm 1988 bằng 288 triệu xuất lương tối
thiểu hay bằng xây nhà cho 30 triệu người, trong khi đó ước tính khoảng 2/3 dân
Braxin thiếu ăn.

− Nạn phân biệt chủng tộc, vẫn đang tồn tại trong xã hội chủ nghĩa tư bản như
một hiện tượng phổ biến trong xã hội ở các nước tư bản phát triển chẳng hạn, ở Mỹ
vẫn có những vòi nước công cộng riêng dành cho những người da trắng và những
người da đen, hàng loạt những chính sách được nhà nước đưa ra cũng nhằm bảo vệ
cho lợi ích của người da trắng và người ra đen thì bị xã hội khinh thường, coi rẻ.
Gần đây nhất đã có phong trào biểu tình của 5.000 người dân Đức chống lại nạn
phân biệt chủng tộc được diến ra tại thành phố Munich, miền nam nước Đức.
Nguyên nhân của những hiện tượng xã hội trên được xác định là do quy luật
giá trị thặng dư, quy luật lợi nhuận siêu độc quyền của nhà tư bản.
2.2.3.

Tình trạng thất nghiệp vẫn là căn bệnh nan giải của chủ nghĩa tư

bản ngày nay.

Theo như dự tính của Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD), cùng với
suy thoái của kinh tế toàn cầu, tỷ lệ thấy nghiệp toàn cầu sẽ tăng lên mức kỷ lục là
10%. Đặc biệt là ở các nước tư bản chủ nghĩa phát triển. Đến cuối năm 2010, tỷ lệ
thất nghiệp của những nước có thu nhập cao sẽ là 25 triệu người.
OECD cũng cho rằng, mặc dù dấu hiệu phục hồi của các nền kinh tế cũng bao
hàm ý nghĩa về tỷ lệ thất nghiệp sớm chạm đáy, nhưng tỷ lệ thất nghiệp hiện vẫn ở
mức cao hơn mong đợi, vì vậy chính phủ các nước cần phải có những chính sách
19


can thiệp dứt khoát và nhanh chóng , ngăn chặn sự gia tăng nhanh không dừng lại
của tỷ lệ thất nghiệp như hiện nay.
OECD đã tỏ ra lo lắng rằng, mặc dù dấu hiệu phục hồi đã xuất hiện ở một số
nền kinh tế nhưng con số việc làm vẫn chưa được cải thiện. Theo bản báo cáo gần
đây của OECD, hầu hết các nước thành viên trong OECD đều phải đối mặt với tình
trạng khủng hoảng việc làm. Tình trạng này có thể được cải thiện hơn trước hoặc
cũng có thể biến đổi tồi tệ hơn nữa.
OECD cũng cho biết thêm, từ cuối năm 2007 đến tháng 7/2010, trong 30 nước
thành viên trong tổ chức này đã có 15 triệu người mất việc làm. Nếu như tình hình
không được cải thiện, có thể đến cuối năm sau, sẽ còn thêm 10 triệu người nữa mất
việc. Con số thất nghiệp mới được ước tính có thể vượt qua tổng dân số của
Australia.
Đến cuối năm 2007, tỷ lệ thất nghiệp của các nước trong OECD là 5,6%, mức thấp
nhất trong lịch sử nhưng đến tháng bảy năm nay tỷ lệ này đã là 8,5%. Đặc biệt những
nước như Mỹ, Tây Ban Nha luôn có tỷ lệ thất nghiệp ở tình trạng "đáng báo động".
Hiện tại, để bảo đảm độ an toàn cho thị trường việc làm, đã có 21 quốc gia
thực hiện các chính sách hoặc các kế hoạch ngắn hạn, tuy nhiên thị trường việc làm
vẫn chưa được cải thiện.
Qua những con số thống kê trên cho ta thấy một cái nhìn tổng quát hơn về tình
hình xã hội của chủ nghĩa tư bản.nguyên nhân của tình trạng thất nghiệp trên được

OECD xác định là do: hậu quả của khủng hoảng kinh tế, hiện tượng di dân, mặt trái
của cuộc cách mạng khoa học, công nghệ.
Ngoài những vấn đề nổi trội trên trong lòng chủ nghĩa tư bản vẫn còn tồn tại
rất nhiều những hạn chế khác như: Tệ nạn xã hội, ô nhiễm môi trường, việc chạy
đua vũ trang, vẫn đang diễn ra rất mạnh mẽ. Cụ thể là:

− Các cuộc chiến tranh thế giới với mục đích tranh giành thị trường, thuộc địa
và khu vực ảnh hưởng đã để lại cho loài người những hậu quả nặng nề: hàng triệu
người vô tội đã bị giết hại, sức sản xuất của xã hội bị phá hủy, tốc độ phát triển kinh
tế của thế giới bị kéo lùi lại hàng chục năm
Ngày nay, lại cũng chính chủ nghĩa tư bản là thủ phạm châm ngòi nổ cho
những xung đột vũ trang giữa các quốc gia, mặc dù nhìn bề ngoài thì tưởng chừng
20


những xung đột đó chỉ đơn thuần bắt nguồn từ những lý do sắc tộc, tôn giáo hay
nhân quyền. Vì vậy, chi phí cho quân sự của chủ nghĩa tư bản hiện nay rất lớn, tính
ra cứ 2 phút đồng hồ lại có hai triệu đôla bị vứt đi vì chi phí cho quân sự.
2.3. Xu hướng vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước.
Những tiềm năng và giới hạn trên đây của chủ nghĩa tư bản bắt nguồn từ mâu
thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản: mâu thuẫn giữa tính chất và trình độ xã hội hóa
cao của lực lượng sản xuất với quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất.
Chủ nghĩa tư bản càng phát triển, tính chất và trình độ xã hội hóa của lực
lượng sản xuất ngày càng cao thì quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu
sản xuất ngày càng trở nên chật hẹp so với nội dung vật chất ngày càng lớn lên của
nó. Mặc dù chủ nghĩa tư bản ngày nay đã có điều chỉnh nhất định trong quan hệ sở
hữu, quản lý và phân phối, và ở một chừng mực nhất định, sự điều chỉnh đó cũng đã
phần nào làm giảm bớt tính gay gắt của mâu thuẫn này.

Song tất cả những điều chỉnh ấy vẫn không vượt qua khỏi khuôn khổ của sở
hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, mâu thuẫn vẫn không bị thủ tiêu. Theo sự
phân tích của Mác và Lênin, đến một chừng mực nhất định, quan hệ sở hữu tư nhân
tư bản chủ nghĩa sẽ bị phá vỡ và thay vào đó là một quan hệ sở hữu mới - sở hữu xã
hội về tư liệu sản xuất được xác lập để đáp ứng yêu cầu phát triển của lực lượng sản
xuất. Điều đó cũng có nghĩa là phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa sẽ bị thủ tiêu
và một phương thức sản xuất mới sẽ ra đời.
Phương thúc sản xuất cộng sản chủ nghĩa ra đời và phủ định phương thức
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
Tuy nhiên, phải nhận thức rằng, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa không
tự tiêu vong và phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa cũng không tự phát hình
thành mà phải được thực hiện thông qua cuộc cách mạng xã hội, trong đó, giai cấp
có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cuộc cách mạng xã hội này chính là giai cấp công nhân.
2.4. Vai trò lịch sử của chủ nghĩa tư bản
Trải qua quá trình hình thành và phát triển lâu dài, chủ nghĩa tư bản một mặt đã
gây biết bao khó khăn, tai họa cho nhân loại: chiến tranh,tàn phá môi trường, làm gia

21


tăng khoảng cách giàu nghèo,… cùng với hàng loạt các mâu thuẫn và những bất công
trong đời sống kinh tế - xã hội trong từng nước cũng như giữa các quốc gia trên thế
giới; mặt khác, với tư cách là một hình thái kinh tế xã hội phát triể tiến bộ hơn so với
các hình thái kinh tế xã hội trước, nó cũng có những vai trò lịch sử nhất định.
2.4.1.

Chủ nghĩa tư bản thực hiện quá trình xã hội sản xuất, tăng năng

suất lao động, chuyển sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn.
Trong quá trình ra đời và phát triển, chủ nghĩa tư bản đã thực hiện được sự

phát triển về phân công lao động: hiệp tác lao động, chuyên môn hóa, tập trung hóa
sản xuất. Nhờ vậy đã biến nhiều quá trình kinh tế riêng lẻ thành quá trình kinh tế
thống nhất với nhau.
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, quá trình sản xuất hóa sản xuất
cũng đạt được những bước tiến lớn với trình độ cao. Hiệp tác giản đơn, công trường
thủ công, nền đại công nghiệp cơ khí là những giai đoạn phát tiển xã hội sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Hình thức, trình độ xã hội hóa diễn ra ở trình độ ngày càng cao hơn
khi chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa tư bản độc quyền và chủ
nghĩa tư bản độc quyền nhà nước.
Quá trình phát triển lực lượng sản xuất,xã hội hóa sản xuất gắn liền với hai
cuộc cách mạng kỹ thuật mà thế giới đã trải qua. Đó là thành tựu chung của nhân
loại được các nước tư bản vận dụng. Bởi vậy, có thể nói, họ là những người có công
đầu trong quá trình đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, làm cho năng
suất lao động của xã hội tăng lên nhanh chóng và đạt mức độ chưa từng có trong
lịch sử. Ngay từ giữa thế kỷ XIX, C.Mác đã đánh giá : trong vòng chưa đầy một thế
kỷ thống trị của mình, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra được một sức sản xuất khổng lồ
bằng tất cả các thế hệ loài người trước đó đã tạo ra.
Thực tế đã chứng minh loài người đã sống lâu dài trong nền sản xuất nhỏ, lạc
hậu, phân tán, với năng suất lao động rất thấp không đảm bảo duy trì nền sản xuất
tái giản đơn. Từ đầu thế kỷ XVII tới nay, lần đầu tiên trong lịch sử, chủ nghĩa tư
bản đã chuyển được nền sản xuất nhỏ lên nền sản xuất lớn với những nét đặc trưng
khác về chất so với nền sản xuất nhỏ.
Ngày nay, nền sản xuất lớn hiện đại đang là mục tiêu kinh tế của nhiều nước
đang phát triển trên thế giới.

22


2.4.2.


Chủ nghĩa tư bản đã tạo nên tiền đề vật chất cần thiết cho sự ra

đời xã hội mới.
Trải qua mấy thế kỷ, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những tiền đề vật chất ở trình
độ tương ứng với giai đoạn phát triển mới của cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ, “ văn minh trí tuệ “.
Chủ nghĩa tư bản đã tạo nên một tiềm lực kinh tế to lớn, một nền dân chủ hiện
đại rất cần thiết khi xã hội thay thế tính chất tư bản chủ nghĩa bằng tính chất xã hội
chủ nghĩa, cùng với một hệ thống lí thuyết, kinh nghiệm và công cụ hiện đại được
ứng dụng trong quản lý kinh tế, một trình độ văn hóa giáo dục, đào tạo cần thiết cho
xã hội mới – xã hội cộng sản văn minh.
Có thể nói, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đến trình độ của chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước đã cho chúng ta thấy : một mặt, chủ nghĩa tư bản không
phải là một xã hội tồn tại vĩnh viễn mà chỉ là một xã hội quá độ lịch sử và sẽ được
thay thế ; mặt khác, chính chủ nghĩa tư bản đã tạo ra những tiền đề vật chất và xã
hội cho sự ra đời của xã hội mới thay thế cho xã hội tư bản, xã hội cộng sản chủ
nghĩa – khi có đủ những điều kiện cần thiết. V.Lênin đã nhận xét rằng: Chủ nghĩa tư
bản độc quyền nhà nước là sự chuẩn bị đầy đủ vật chất nhất cho chủ nghĩa xã hội, là
phòng chờ của chủ nghĩa xã hội mà giữa nó với chủ nghĩa xã hội không có nấc
thang trung gian nào ngăn cách.
Chúng ta cũng cần chú ý rằng: Quá trình chuyển hóa này là một quá trình lịch sử
lâu dài và thực sự không đơn giản, dễ dàng.Nó không chỉ phụ thuộc vào những điều
kiện kinh tế - xã hội tất yếu khách quan mà còn phụ thuộc vào sự nỗ lực chủ quan của
con người, của các trào lưu tiến bộ trên thế giới cũng như trong từng quốc gia.

23


Chương 3. Ý nghĩa phương pháp luận trong bối cảnh nền kinh tế nước ta hiện nay.
3.1.


Lý luận và thực trạng nền kinh tế Việt Nam đối với chủ nghĩa tư

bản độc quyền nhà nước.
3.1.1. Một số quan điểm về chủ nghĩa tư bản độc quyền ở nước ta hiện nay.
Ở nước ta cũng có nhiểu cách giải thích khác nhau về chủ nghĩa tư bản độc
quyền nhà nước đang tồn tại trong nền kinh tế nước ta.

− Loại ý kiến thứ nhất quá nhấn mạnh lý luận về chủ nghĩa tư bản độc quyền
nhà nước, xem đó như là một “thứ chủ nghĩa”, một phương thức sản xuất xã hội,
một học thuyết hoàn chỉnh cả về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội.

− Loại ý kiến thứ hai xem chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước chỉ là một
phương pháp cải tạo hoà bình giai cấp tư sản, như là một thành phần kinh tế thứ yếu
(và cũng có lúc xem như “không đáng kể”).
Thực ra đó là hai loại ý kiến cực đoan khác nhau, cách tiếp cận khai thác khác
nhau trong những khuynh hướng khác nhau của các giai đoạn lịch sử nhận thức và
xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội. Trong mô hình chủ nghĩa xã hội với nền kinh
tế hiện vật trước đây, người ta quá xem nhẹ chủ nghĩa tư bản nhà nước nói chung và
chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước nói riêng. Ngược lại, trong khủng hoảng, khó
khăn của sự đổ vỡ mô hình chủ nghĩa tư bản, người ta lại có khuynh hướng đưa vào
nội hàm của lí luận chủ nghĩa tư bản nhà nước nội dung quá rộng. Cách tiếp cận có
hiệu quả cao chính là nhận thức đúng đắn cơ sở lý luận biện chứng của V.I. Lênin
về chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước, vận dụng sát với thực tiễn cuộc sống kinh
tế xã hội đang diễn ra ở nước ta trong quá trình đổi mới quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Nói cách khác, cần phải xuất phát từ tình hình cụ thể, từ sự đối sánh lực lượng
cụ thể trong điều kiện lịch sử cụ thể. Tóm lại, nói một cách khái quát thì chủ nghĩa
tư bản độc quyền nhà nước là sự dung hợp giữa nhà nước và hoạt động của các xí
nghiệp tư bản tư nhân. Nếu nhà nước là của giai cấp tư sản và địa chủ thì chủ nghĩa
tư bản độc quyền nhà nước phục vụ lợi ích của tư bản và địa chủ. Nếu nhà nước là

của giai cấp công nhân và nhân dân lao động thì chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà
nước phục vụ cho lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Trong điều
kiện của chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản độc quyền nhà nước là một hình thức
quá độ, có tính chất quá độ chủ nghĩa. Tuy nhiên, theo V.I. Lênin, đây là một hình
24


thức đấu tranh, là sự tiếp tục của đấu tranh giai cấp dưới một hình thức khác, chứ
tuyệt nhiên không phải là sự thay thế đấu tranh giai cấp bằng hoà bình giai cấp. Vì
vậy, phải tỉnh táo, sắc bén trong việc sử dụng hình thức kinh tế quá độ này.
3.2.1.

Thực trạng nền kinh tế nước ta hiện nay.

Có thể nói nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với gần
73,5% dân số tham gia hoạt động nông nghiệp. Công nghiệp nhỏ bé, thương nghiệp,
giao thông vận tải và dịch vụ chưa phát triển. Hiện nay, Đảng và nhà nước ta đang
lãnh đạo nhân dân ta tiến hành công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước với mục tiêu đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu trở thành một
nước công nghiệp tiên tiến hiện đại, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Trong công
cuộc đổi mới ấy, nền kinh tế nước ta cũng được chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận
hành theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng chủ nghĩa
xã hội. Trong đó, kinh tế tư bản nhà nước là một trong năm thành phần kinh tế cơ
bản. Đó là một chủ trương đúng đắn của Đảng vì những nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó tất yếu
tồn tại thành phần kinh tế tư bản tư nhân.Mặt khác, với chính sách khuyến khích tự
do trao đổi hàng hoá, tất yếu sẽ nảy sinh một tầng lớp tư sản mới. Như vậy, sự tồn
tại của kinh tế tư bản nhà nước vừa mang tính tất yếu khách quan vừa như là một
sách lược kinh tế của nhà nước để định hướng cho các thành phần kinh tế khác đi

lên chủ nghĩa xã hội.
Thứ hai, ở một nước mà nền tiểu sản xuất chiếm ưu thế như nước ta thì chủ
nghĩa tư bản nhà nước sẽ là mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa
xã hội, đồng thời giúp chúng ta phát triển lực lượng sản xuất vì kinh tế tư bản nhà
nước có ưu thế về vốn, kỹ thuật và công nghệ cũng như những kinh nghiệm và biện
pháp quản lý tiên tiến.
Thứ ba, việc sử dụng hình thức kinh tế tư bản nhà nước còn phù hợp với xu thế
quốc tế hoá đang diễn ra trên toàn bộ thế giới và đặc biệt là khu vực Đông Nam Á.
Chúng ta không thể phát triển được nếu không mở rộng quan hệ kinh tế với các nước
trong khu vực và trên thế giới kể cả các nước chủ nghĩa xã hội cũng như các nước tư

25


×