Tải bản đầy đủ (.docx) (53 trang)

Đề cương cơ sở văn hóa việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.3 KB, 53 trang )

ĐỀ CƯƠNG CƠ SỞ VĂN HÓA VIỆT NAM
1.Trình bày khái niệm văn hóa của Hồ Chí Minh.Lấy ví dụ.
Trong mục Đọc sách ở phần cuối tập Nhật ký trong tù (1942-1943), Hồ Chí Minh
đã viết: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích cuộc sống, loài người mới sáng tạo và
phát minh ra những ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo,
văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các
phương thức sử dụng. Toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa.
Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của
nó, mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và đòi hỏi
của sự sinh tồn”.
Có một định nghĩa của E.B.Tylor(ở dưới) cũng rất gần với định nghiac trên của
HCM.Theo đó,HCM đề cập đến những khía cạnh:văn hóa do con người tạo ra,văn
hóa đa dạng,văn hóa mang tính xã hội.
-Theo định nghĩa trên,văn hóa vừa là nền tảng vật chất,tinh thần,vừa là động
lực phát triển của xã hội
2.Khái niệm văn hóa của UNESCO
Theo UNESCO:“Văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt và
tinh thần và vật chất,trí tuệ và xúc cảm quyết định tính cách cử một xã hội hay
của một nhóm người trong xã hội.Văn hóa bao gồm nghệ thuật và văn
chương,những lối sống,những quyền cơ bản của cong người,những hệ thống các
giá trị,những tập tục và những tín ngưỡng:Văn hóa đem lại cho con người khả
năng suy xét về bản thân.Chính văn hóa làm cho chúng ta trở thành những sinh
vật đặc biệt nhân bản,có lí tính,có óc phê phán và dấn thân một cách đạo
lí.Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện,tự ý thức được bản thân,tự biết
mình là một phương án chưa hoàn thành đặt ra để xem xét những thành tựu
của bản thân,tìm tòi không biết mệt những ý nghĩ mới mẻ và sang tạo nên
những công trình vượt trội lên bản thân”
*Phân tích:
-Văn hóa gồm cả giá trị vật chất và tinh thần



-Khi đó văn hóa vừa là nền tảng,động lực và kết quả của sự phát triển của con
người.
-Văn hóa do con người tạo ra
-Mang tính xã hội
-Văn hóa bao gồm rất nhiều lĩnh vực
-Có hai loại di sản văn hóa:hữu thể và phi vật thể
2.1.Bổ sung:Ngoài ra còn một số khái niệm văn hóa cũng như một số tuyên ngôn
về văn hóa của các nhà văn hóa học,sử gia tại Việt Nam và trên thế giới như sau:
Việt Nam
-Từ thế kỉ XV,Phan Phu Tiên trong Việt âm thi tập đã nói:“Nước ta có tiếng là
một nước văn hiến”.
-Trong “Lĩnh nam chích quái”,Vũ Quỳnh và Kiều Phú thì cho rằng “Nước ta văn
minh bắt đầu nổi lên từ thời Hùng Vương”.
-Trong “Bình Ngô đại cáo”,Nguyễn Trãi trịnh trọng tuyên bố: “Nước Đại Việt ta
từ trước,vốn xưng nền văn hiến đã lâu”.
->Qua những cách diễn đạt trên có thể thấy các tác giả đều có một ý tưởng
chung là đồng nhất văn hóa với văn hiến,văn minh và hướng văn hóa đến những
gì tốt đẹp,đồng thời nhấn mạnh đến vai trò của cương tắc,cương thường trong
đó.
Phương Tây:Văn hóa (culture)bắt nguồn từ tiếng La tinh là cultura,có nghĩa là
vun trồng.Trong xã hội,có loại vun trồng vật chất đó là trồng trọt.Còn vun trồng
tinh thần là văn hóa.Như vậy văn hóa là cái nguyên sơ được con người cải biến.
-E.B.Tylor có một định nghĩa với quy mô rộng,được các nhà khoa học lấy để
nghiên cứu là:“Khái niệm văn hóa hay văn minh dùng để chỉ định một toàn thể
phức hợp bao gồm đồng thời những tri thức khoa học,tín ngưỡng,nghệ
thuật,đạo đức,luật pháp,phong tục cùng những khả năng và những tập quán
khác mà con người đã thực hiện được với tư cách là một thành viên xã hội”.Đây
là một khái niệm như bách khoa toàn thư về tất cả khía cạnh của văn hóa.



2.2.Về văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây:
-Chỉ là hai khái niệm tương đối
Văn hóa phương Đông
Khu vực châu Á,châu Phi,Mỹ La tinh
Tư duy tổng hợp,cầu tính,duy linh
Thiên về giá trị tinh thần,đạo đức,tình
nghĩa.
Mang tính truyền thống
Con người cộng đồng
Hòa với thiên nhiên

Văn hóa phương Tây
Khu vực châu Âu,Bắc Mỹ
Tư duy phân tích,tuyến tính,duy lý
Thiên về vật chất,kinh tế
Mang tính phát triển
Con người cá nhân
Đấu tranh,chinh phục

3.Phân biệt các khái niệm văn hóa,văn hiến,văn minh,văn vật:
-Văn hóa như đã nói ở trên
-Văn minh(civilization) gốc La tinh là “civitas”,nghĩa là “đô thị”,hàm ý một giai
đoạn con người đã thoát khỏi tình trạng cư trú tự nhiên sang cư trú có bố trí
quy hoạch,mang nhiều yếu tố nhân tạo.
-Do vậy khái niệm văn minh chỉ khía cạnh vật chất,kĩ thuật.Văn minh là những
thành tựu đã đạt được khi văn hóa phát triển đến một mức độ nhất định của
một không gian xã hội nhất định.
Vú dụ:văn minh Ai Cập cổ đại,văn minh Địa Trung Hải,văn minh Hoa-Hạ,văn
minh trống đồng…
+Văn hóa xuất hiện trước văn minh.Trước khi xuất hiện văn minh Văn Lang-Âu

Lạc,Việt Nam đã xuất hiện một số nền văn hóa như:văn hóa Hòa Bình,văn hóa
Bắc Sơn…
-Văn hiến:
-Văn vật
3.1.Một số di sản văn hóa UNESCO của Việt Nam


-Di sản vật thể:động Phong Nha Kẻ Bàng,cố đô Huế,phố cổ Hội An,thánh địa Mỹ
Sơn,hoàng thành Thăng Long…
-Di sản phi vật thể:mộc bản triều Nguyễn,ca trù,hát xoan,nhã nhạc cung đình
Huế,văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên…
5.Có mấy loại hình văn hóa cơ bản
2 loại:di sản văn hóa hữu thể và di sản văn hóa vô hình.
6.Các chức năng của văn hóa
-Hiến=hiền tài ->Truyền thống văn hóa lâu đời và tốt đẹp.
-Thiên về những giá trị tinh thần do những người có tài đức chuyển tải thể hiện
tính dân tộc,lịch sử rõ rệt.
-Bổ sung:Nguyễn Trãi đã từng nói: “Duy ngã Đại Việt chi quốc thực vi văn hiến
chi bang”-Duy nước Đại Việt ta thực sự là một nước văn hiến.
7.Thế nào là môi trường tự nhiên/nhân tác
-Môi trường tự nhiên là một bộ phận trong “môi trường lớn”,là tổng thể các
nhân tố tự nhiên xung quanh chúng ta như:bầu khí quyển,nước,thực vật,động
vật,thổ nhưỡng,nham thạch,khoáng sản,bức xạ mặt trời…
-Môi trường tự nhiên tác-tạo là môi trường được con người tạo ra do lợi dụng
tự nhiên,cải tạo môi trường tự nhiên.
+Dựa trên cơ sở môi trường tự nhiên
+Bị môi trường tự nhiên chi phối
+Ảnh hưởn ngược lại đến môi trường tự nhiên
8.Trình bày đặc điểm cơ bản của môi trường tự nhiên Việt Nam và sự tác động
của nó đến văn hóa.

a.Môi trường tự nhiên:
*Đặc điểm địa lý:


-Khu vực Đông Nam Á
-Dòng sông Mê Công chảy qua-là hạ lưu bắt nguồn từ các con sông lớn từ hai
dãy núi Hy-ma-lay-a và Thiên Sơn
-Việt Nam-bán đảo Đông Dương là đầu cầu để mở vào Đông nam á từ hướng
Ấn Độ và Trung Quốc.
->Tính chất bán đảo rõ rệt:
-Khí hậu nhiệt đới gió mùa:nóng ẩm,mưa nhiều và có hai mùa rõ rệt.
-Núi rừng chiếm 2/3 diện tích,sông ngòi nhiều và phân bố đều khắp
-Đường bờ biển dài hơn 2000 km
-Hướng Tây và Bắc bị chắn bởi núi rừng trong đó quan trọng nhất là dãy Hoàng
Liên Sơn và dãy Trường Sơn.
*Hệ sinh thái phồn tạp:
-Đa dạng động vật và thực vật
-Phát triển trồng trọt chăn nuôi
*Tác động đến văn hóa Việt Nam:
-Hai tính trội là sông nước và thực vật1.Đời sống vật chất:
1.1.Ăn uống
-Cơ cấu bữa ăn truyền thống:cơm gạo+rau củ+thủy sản (cơm-cá-canh)
-Món ăn chế biến đơn giản,dùng đến nước nhiều.
-Được ủ,lên men để bảo quản.
->Tránh bị ôi thiu do thời tiết nóng ẩm và vi khuẩn dễ phát sinh
-Bữa cơm được kích thích bằng yếu tố tâm lí:sự quay quần gia đình,nồi cơm
chung,đĩa thức ăn chung,chén nước mắm chung…


->Ăn uống đơn giản,không cầu kỳ,cốt để no bữa lấy sức lao động.

Tuy nhiên trong bữa cỗ,hội hè có thể rất phung phí để lấy sĩ diện.
-Uống:dùng nước vối,chè,rượu ở bữa ăn.
->Những loại lá có lợi cho sức khỏe,giải nhiệt,tiện đường.
-Đồ hút:thuốc lào,thuốc lá
-Đồ tráng miệng:các loại bánh có chất đường mật như chè,mứt,kẹo và hoa quả.
1.2.Mặc và trang sức:
Trong lao động và thường ngày:
-Ngày xưa:mặc khố váy,đi chân đất
-Vải nhuộm từ nguyên liệu tự nhiên như:tơ tằm,củ nâu và chàm.
-Sau này:trong lao động,nam thường mặc áo cánh,quần cộc trong lao động.Nữ
mặc áo yếm,áo váy
->Nhìn chung ăn mặc đơn giản,gọn gang,thích nghi với khi hậu nóng ẩm,mưa
nhiều.Dễ dàng cho việc đi lại,lao động trên đồng ruộng có bùn lấm.
Trong lễ hội:ăn mặc khá diêm dúa cầu kỳ,nhiều mầu sắc
-Đàn ông mặc áo the,lụa gấm,chit khan xếp
-Đàn bà áo tứ thân,chit khan mỏ quạ,vấn tóc,đội nón quai thao rộng vành,chân
đi guốc hoặc hài,đeo hoa tai vòng kiềng,nhẫn.
1.3.Nhà ở:
-Miền núi:nhà sàn
->Cao,chống lũ lụt,chống thú dữ
-Nông thôn:nhà tranh vách nứa.Một số nhà gỗ,vách đất,nền đất nện.Thường có
thêm ao,chuồng.


->Sử dụng vật liệu dừa,tre,nứa có sẵn.Vật liệu thiên nhiên đơn giản và cũng để
cho mát.Ao,chuồng nuôi tôm,cá,chăn nuôi.Con người sống hướn thủy,hiền hòa
với thiên nhiên.
-Đô thị:có một số nhà kiểu ống,lợp gạch.Nhà hướng Nam cho mát mẻ.
1.4.Đi lại:
-Chủ yếu là đi bộ,gồng gánh,đội thúng trên đầu hoặc mang trên lung

->Thích hợp với diện tích nhỏ,vừa,công việc không quá nặng nhọc.Đường bộ
thường nhỏ hẹp,đầy bùn lầy.
-Thồ nặng có trâu,bò
->Châu bò là phương tiện thồ đồ chủ yếu tích hợp với việc cày cấy luôn.
-Đi lại trên sông nước có các loại thuyền thúng,thuyền đinh,thuyền độc mộc,đò
ngang,đò dọc…tùy loại địa hình.
=>Nhận xét chung:nhìn chung đời sống vật chất đơn giản,hướng ngoại tạo nên
đức tính cần cù,chịu khó,giản dị,ưa nhàn tản.Người Việt không say mê làm giàu
hay có tâm lí xuôi theo dòng nước.Tuy nhiên lại thích có địa vị cao sang được
nhiều người kính nể.
Một số câu tục ngữ,ca dao về nếp sống của người Việt Nam.
2.Đời sống kinh tế:
2.1.Kinh tế nông nghiệp,lúa nước là chính
-Thích hợp với điều kiện tự nhiên nhiệt đới ẩm gió mùa,nóng ẩm,mưa nhiều
-Kỹ thuật trồng lúa là kỹ thuật thâm canh,cấy hái theo mùa.
-4 yếu tố quan trọng nhất:nhất lúa nhì phân tam cần tứ giống.
-Số vụ lúa một năm tùy thuộc vào vùng miền như:ĐBSCL 3 vụ/năm còn Miền
Bắc,miền Trung thì 1-2 vụ vào mùa xuân và mùa đông là hai vụ gặt chính.
-Cây cối sinh sôi nảy nở nhiều hơn là chăn nuôi gia súc


->Trồng các loại cây nhiệt đới như:khoai,sắn,ngô.
->Trên nền đất ẩm,bùn lầy hoặc cạnh bờ ao.
-Chủ yếu là nền kinh tế tiểu nông,ít có trang trại lớn.
-Chăn nuôi gia súc như:bò,trâu,gà vịt cùng với nông nghiệp với ý nghĩa bổ trợ
cho nhau.Gia súc vừa có thể lấy thịt lại vừa có sức kéo,nhân công lao động.
2.2.Một số nghành nghề phụ:
2.2.1.Thủ công nghiệp
-Thủ công nghiệp làng:thủ công nghiệp dân gian
+Người dân làm thêm thủ công vào các buổi tối sau khi hoàn thành công việc

đồng áng.
+Nghề:đan lát,nề,mộc,rèn,chế biến thực phẩm
+Bán:ở chợ kiếm thêm thu nhập
-Thủ công nghiệp nhà nước:
-Do nhà nước phong kiến trực tiếp quản lí và điều hành
-Nghề:các xưởng,cục bách tác sản xuất vật phẩm phục vụ chính quyền và quan
lieu phong kiến.Vú dụ:xưởng rèn đúc vũ khí,đóng thuyền,đúc tiền…
-Tiêu biểu:thời Nguyễn có xưởng đúc tiền lớn(Tràng Tiền),xưởng đúc thuyền
chiến ở Gia Định..
-Một số nghành nghề thủ công truyền thống như:
+Dệt nhuộm:nổi tiếng ở làng dệt ven Tây Hồ Trích Sài,cụm làng la ở Hà Tây…
+Gốm,sành sứ:nổi tiếng là làng gốm Bát Tràng
2.2.2.Nội thương
Trong xã hội Việt Nam truyền thống,từ lâu đời các hình thức buôn bán đã khá
phát triển.Tuy nhiên,đó là một nền buôn bán nhỏ,gắn liền với nền sản xuất


nhỏ,tiểu nông.Chính sách trọng nông ức thương,xem thường nghề buôn trong
xã hội phogn kiến ,sự níu kéo của cơ cấu kinh tế làng-xã và sự cạnh tranh của
các thương nhân Hoa-Kiều là những yếu tố kìm hãm thương nghieejo của Việt
Nam.
-Mạng lưới chợ là phổ biến nhất:ở nông thôn có rất nhiều loại chợ:chợ chùa,chợ
trấn,chợ bến sông,chợ huyện.
-Kẻ Chợ-kinh thành Thăng Long là trung tâm buôn bán lớn nhất cả nước,bắt
đầu sôi nổi từ thế kỷ XVII-XVIII.
-Hàng hóa trao đổi:chủ yếu là nông sản,thủy sản,thủ công mĩ nghệ những vậy
phẩm thường dùng trong cuộc sống hàng ngày.
->Không có buôn bán to
2.2.3.Ngoại thương
-Dù có tiềm năng nhưng nhìn chung không phát triển

-Một số địa điểm có ngoại thương:phố Hiến,Kẻ Chợ,Hội An….đã từng rất phát
triển với những chuyến giao thương của người Hoa,người Ấn Độ,các nước Đông
Nam Á và cả phương Tây sang giao thương.
Tuy nhiên do một số lý do quốc gia,bởi sự dòm ngó của ngoại quốc vào thế kỷ
thứ XIX,nhà Nguyễn đã ra chính sách bế quan tỏa cảng,ngắn cấm ngoại
thương,kìm hãm nền ngoại thương của nước nhà.
2.2.Tiền tệ và đo lường
-Dùng tiền xu
-Đo lường bằng các đơn vị như:tấc,thước,ngũ,thốn,tấc,dặm.
2.Đời sống tinh thần:
Cơ cấu xã hội Việt Nam truyền thống là xã hội nông nghiệp,văn hóa Việt Nam là
nền văn hóa nông nghiệp.Trong xã hội đó,gia đình và dòng họ,làng là đơn vị xã
hội cơ sở,là hai yếu tố cơ bản chi phối toàn bộ hệ thống xã hội Việt Nam.Đặc


trưng của cơ cấu xã hội Việt Nam truyền thống là những gia đình tiểu nông
trong những làng xã tiểu nông.
Cơ cấu xã hội Việt Nam có thể được vạch ra như sau:gia đình-họ hàng-làng xómvùng miền-đất nước.
1.Gia đình:
Gia đình được coi là tế bào cơ sở,là một pháp nhân trong xã hội.Hộ gia đình là
một đơn vị kinh tế,lao động tập thể và hợp tác,nhất là trong việc làm ruộng mùa
vụ cũng như nghề thủ công của làng.Hộ gia đình cũng được coi như những cá
thể trong cơ cấu làng,là đơn vị được chia phần công,chịu sưu thuế,lao dịch và
những khoản đóng góp khác.
-Quy mô:đại đa số là gia đình hạt nhân(bố mẹ và con cái chưa trưởng thành)
->Gia đình Việt Nam cấu tạo theo hai kiểu lồng vào nhau,đó là những gia đình
nhỏ tách ra thành những gia đình hạt nhân khác và cứ thế tiếp diễn.
-Nguyên tắc:nguyên tắc hôn nhân,nguyên tắc huyết thống.
-Hôn nhân được sắp xếp dựa theo quyết định của bố mẹ,các bậc trưởng bối
trong gia tộc theo nguyên tắc môn đăng hộ đối chứ không phải vì tình yêu lứa

đôi.Điều này thì có tương tự như nhiều quốc gia Đông Á khác.
-Chế độ:thời nguyên thủy,gia đình Việt nam theo chế độ mẫu hệ phù hợp với nền
kinh tế lúa nước cần đến sự khéo léo,đảm đang của người phụ nữ.Tuy nhiên kể
từ khi bị TQ đô hộ một nghìn năm bắc thuộc,gia đình VN bị ảnh hưởng bởi tư
tưởng Nho giáo đẫn dến sự len ngôi của chế độ phụ hệ.Do vậy tư tưởng trong
gia đình sau này là “trọng nam kinh nữ”.Lấy chồng,người đàn bà phải cố sinh
cho được một đứa con trai thì mới hài lòng nhà họ nội.Lý do là theo quan niệm
Nho giáo,người con trai sau này sẽ là người gìn giữ hương hỏa cho gia
tộc.Không những thế sinh con trai cũng là đẻ có thêm một nhân công lao động
chính trong nhà.Đây cũng là một trong những quan nệm sai lầm,cổ hủ xuất phát
từ quan niệm quá lo cho thế hệ sau của người Việt.
-Quan hệ:quan hệ chính trong gia đình VN là quan hệ:vợ-chồng,con cái với
những lễ nghi,gia phong nhất định.Nhiệm vụ chính của bố mẹ là yêu thương,


nuôi dưỡng con cái không lớn,nên người.Từ khi sinh con ra cho đến lúc trưởn
thành,thậm chí đã lập gia đình,bố mẹ vẫn luôn dõi theo và chăm lo cho cuộc
sống của con cái hết mực.Dân gian ta đã có câu: “Dạy con từ thuở còn thơ”.Cha
mẹ trong gia đình Việt từ xưa thường chú trọng dạy dỗ con cái ngũ thường
“nhân,nghĩa,lễ,trí,tín”.Không chỉ thế giáo dục con cái còn là truyền nghề gia
truyền,kĩ năng sản xuất,bí mật nhà nghề.Vì thế mới có các làng nghề truyền
thống,nghề thuốc gia truyền..
Con cái thì phải có hiếu với bố mẹ,giữ lễ nghĩa,chăm ngoan,nghe lời ông bà,cha
mẹ.Khi bố mẹ về già,phải chăm sóc cẩn thận không được lơ là,bỏ rơi.Tục ngữ có
câu:”Trẻ cậy cha,già cậy con”đã nói lên một chức năng của gia đình người Việt
là nuôi dưoững người già.Pháp luật thời Lê Nguyễn có điều luật nêu rõ con cháu
phải có trách nhiệm nuôi dưỡng đối với ông bà già.”Quốc triều hình luật” có
ghi:“con cháu thay thế ông bà cha mẹ chịu tội roi hoặc tội trượng đều được
giảm một bậc”.Điều 506 ghi rõ “Các con cháu không theo lời dạy bảo và không
phụng dưỡng mà bị ông bà đưa đi thưa thì phải tội đồ cha làm khao đinh;con

nuôi,con kế có tự mà thất hiếu với cha nuôi,cha kế thì phải tội kém trên các bậc
và mất những tài sản được chia cho”.(Theo “Làng Việt Nam,đa nguyên và chặt”)
Vợ chồng thì phải sống chung thủy,tương trợ lẫn nhau trong công việc đồng áng
và cuộc sống gia đình.Tuy gia đình VN có bị ảnh hưởng bở tư tưởn Nho giáo hà
khắc:phu xướng phụ tùy,xuất giá tòng phu,phu tử tòng tử nhưng vai trò người
phụ nữ vẫn được coi trọng.Điều đó được thể hiện trong quan niệm“thuận
vợ,thuận chồng tát biển Đông cũng cạn”.Người vợ VN vẫn được cùng chồng
tham gia quán xuyến gia đình,thậm chí có nhiều nhà,người vợ còn nắm tài
chính(nội tướng).
Điều này có khác nhiều so với lối sống gia đình của người TQ,như:tiền cheo,luật
lấy chồng làng xa,luật thừa kế….(tự bổ sung).Thế mới nói,nhiều nhà nghiên cứu
công nhận gia đình VN “vỏ tàu lõi Việt”.
Bổ sung:Luật triều Lê quy định:“Cha mẹ có ruộng đất,khi mất chưa kịp để lại
chúc thư,mà an hem,chị em tự chia nhau,thì lấy 1/20 số ruộng đất làm hương
hỏa giao cho người trai trưởng giữ,còn thì chia nhau.Phần con của vợ lẽ nàng
hầu thì phải kém”.


-Tuy nhiên ở VN cũng có một số gia đình lớn kiểu”tứ đại đồng đường” như của
TQ nhưng chỉ một số ít quan lại lớn có điều kiện kinh tế mà thôi.
-Ngoài ra gi
=>Tóm lại gia đình VN có kết cấu chặt chẽ hơn so với gia đình TQ bởi chế độ gia
đình hạt nhân vốn đã có ít người,bố mẹ có thể chăm lo cho con cái chu đáo
hơn.Bên cạnh đó,chế độ thừa kế chia đều cho cả con trai lẫn con gái,các gia đình
hạt nhân tách ra sẽ có lý do để ở lại làng tiếp tục làm ăn,sinh sống.Trong khi ở
TQ,gia đình dần dần sẽ bị phân tán,chia rẽ ra do chỉ con trưởng mới được thừa
kế toàn bộ gia sản,những người con khác thường sẽ di cư đến chỗ ở mới lập
nghiệp.Nếu dùng hình tượng để mô tả,có thể mô tả gia đình TQ có kết cấu thẳng
đứng còng gia đình VN là gia đình mạng lưới.Mỗi mắt xích đều có mối liên hệ
với nhau-quan hệ huyết thống,quan hệ kinh tế,họ hàng,láng giềng.Do vậy gia

đìnhVN là tế bào cơ sở của xã hội.
Bên cạnh đó gia đình VN là một pháp nhân trong xã hội.Pháp nhân ở đây ý
muốn nói đến quyền lợi và nghĩa vụ trước luật pháp.Toàn thể thành viên trong
gia đình được hưởng chung những vinh dự của một thành viên trong gia đình có
được.Khi một thành viên đỗ đạt cả gia đình đều đượctrọng vọng trong lễ vinh
quy.Một người làm quan cả gia đình đó đều được phong ân tứ.Ngược lại,khi một
thành viên bị tội ,cả gia đình cũng bị vạ lây,nếu là trọng tội như mưu phản,cả gia
đình bị khép vào tru di tam tộc.Pháp luật đề cao vai trò lãnh đạo gia đình của
người trưởng nam.Những tấm gương lễ nghĩa được nhà nước khen thưởng.
Không chỉ thế,gia đình cũng phải chịu tô thuế,lao dịch của nhà nước.
-Hộ giia đình là một đơn vị kinh tế,lao động tập thể và hợp tác.Mỗi gia đình
được chia phần ruộng nhất định theo lệ làng,nộp sưu thuế và cày cấy trên mảnh
ruộng của mình.Thực chất chế độ tư hữu ruộng đất trong xã hội phong kiến chỉ
là hình thức,ruộng đất được phân chia vẫn là của vua,nhà vua chỉ cho các hộ gia
đình “mượn” ruộng đất để cày cấy ,sinh hoa lợi và nộp lại cho vua.Lao động
chính trong nhà là người đàn ông,người vợ vừa giúp trồng cày cấy,vừa chăm
con,lại còn chăn nuôi gia súc lấy sức kéo,có thể còn phải làm thêm thủ công mỹ
nghệ để đem ra chợ bán thêm thu nhập.Thế mới biết người phụ nữ VN đóng vai
trò quan trọng trong gia đình.


Hàng nghìn năm qua,nền kinh tế quốc gia phụ thuộc vào nền kinh tế hộ gia
đình,nhất là trong thời kỳ kinh tế tự cung tự cấp.Trong gia đình nông nghiệp sự
phân cấp lao động nhìn chung vẫn theo thế hệ:“già-trung niên-trẻ tuổi”,trong đó
trung niên thường có vị trí chủ yếu-chủ gia đình.Trong gia đình nông nghiệp
VN,nhân công nhiều nên cần có người đứng đầu để phân công lao động,người
đó thường là chủ gia đình-người chồng hoặc cũng có thể là người vợ.
Gia đình VN cũng là một cá thể trong cơ cấu làng.Như đa phân tích ở trên,tâm lí
của người dân VN là sống chết cố kết với mảnh đất chon rau cắt rốn.Do vậy nếu
không có biến cố gì ,ít gia đình chuyển đi nơi khác ở.Cho dù có đến nơi khác

nhưng trong lòng vẫn luôn đau đáu hướng về quê hương mỗi dịch tết lễ.Người
dân VN sinh sống tại các làng,làm ăn sinh sống,sinh con đẻ cái,lập nghiệp,tham
gia sinh hoạt văn hóa,hội lễ làm nên kết cấu làng xã VN.
KẾT LUẬN:
-Gia đình bao gồm những mối quan hệ xã hội thu nhỏ
-Gia đình là đơn vị giáo dục
-Gia đình là đơn vị đạo đức
-Gia đình đơn vị kinh tế
-Chức năng:
+Giaso dục con cái
+Nuôi dưỡng những người già
+Tổ chức sản xuất.
*Các nghi lễ trong gia đình:
-Hai việc hiếu,hỉ là quan trọng nhất
-Ngoài ra còn những lễ đầy tháng,đầy cử,đầy năm,sinh nhật các kiểu cho con
cái
->Các nghi lễ đa số đều làm gia đình,họ hàng thêm gắn bó tình cảm.Tuy nhiên
nhiều vấn đề rườm rà,tốn kém.


->Phân tíhc
2/Dòng họ:
Gia đình mở rộng thành dòng tộc(họ hàng),cơ bản dựa trên mối quan hệ huyết
thống,từ 9 đời trở lại cùng chung một vị thủy tổ xa nhất.
-Một dòng họ có thể sinh sống ở nhiều làng hoặc tập trung ở một làng.
-Dòng họ ở VN cố kết gắn bó trong cơ cấu làng.Một làng có thể có một họ,cũng
có thể có nhiều họ,tập trung vào một số họ mạnh.
-Một họ chia thành nhiều chi,chỉ tính theo nam giới,nữ giới tính theo họ nhà
chồng.
-Mỗi dòng họ có một nhà thờ họ-gọi là từ đường.Đây là nơi thờ cúng thủy tổ của

dòng họ và cũng là nơi dòng họ hội họp vào mỗi dịp lễ giỗ Tổ,bàn việc quan
trọng.Người con trai trưởng của chi trưởng thường được coi là tộc trưởng là
người canh giữ từ đường và điều hành việc nghi lễ giỗ Tổ
-Mỗi dòng họ thường có một cuốn sổ ghi chép thế hệ các chi,đặc biệt các công
trạng của dòng họ.Người VN thường lấy gia phả làm niềm tự hào và hãnh diện
khi thấy tên mình xuất hiện trong gia phả
-Nhìn chung mối quan hệ dòng họ VN càng ngày càng có xu hướng cố kết,bền
chặt chứ không phải mờ nhạt.Anh em trong họ thường giúp đỡ nhau trong việc
làm ăn,thăng quan tiến chức.Như tục ngữ có câu:“Một người làm quan cả họ
được nhờ”.
3.Làng:
Nhận xét chung:Làng xã VN xuất hiện có thể được coi là sản phẩm của nền nông
nghiệp lúa nước.
-Nguyên tắc thành lập làng:nguyên lí cội nguồn và cùng chỗ.
->Phân tích:


Bổ sung:Vào thập kỷ 20 của thế kỉ XX ở vùng châu thổ sông Hồng lại có hàng
tram làng có dân số trên 3000 người.Sở dĩ ngụ cư ngày càng nhiều trong làng
xã sông Hồng mà chủ yếu là ven sông,ven biển là do những lý do chính sau đây:
-Hợp tác để sử dụng nguồn nước,giải quyết các vấn đề thủy lợi
-Hợp tác đổi công và bảo vệ ruộng đòng
-Hợp tác chống thiên tai,bão lũ
-Lý do chính,chế độ thừa kế
*Làng là một đơn vị cố kết cộng đồng tự quản:
-Về cảnh quan:Làng Việt xưa thường là một đơn vị cộng đồng tại một vùng đất
nhất định,họ cùng nhau làm ăn,sinh sống cố định trên mảnh đất gọi là quê
hương.Một làng thường được bao bọc bởi lũy tre xanh,thông thương với bên
ngoài bằng một cái cổng làng,đó là một không gian ngụ cư “nửa hở nửa
kín”.Bên trong làng,là một không gian thoáng mở,có thể nói là thân tình.Nhà

cửa các hộ gia đình thường được ngăn cách sơ sài với nhau.Đình
làng,chùa,miếu,miện,quán cầu,cây đa,giếng nước là những điểm giao tiếp cộng
đồng.
-Làng là đơn vị kinh tế của quốc gia
+Thời xưa,kinh tế của những làng thuần nông thường là kinh tế tự cung tự cấp.
+Phần lớn các hoạt động kinh tế đều thực hiện ở quy mô làng
-Làng là đơn vị tín ngưỡng
Làng là một đơn vị cố kết và tự quản về mặt văn hóa tinh thần.
-Tính ngưỡng phổ biến ở làng Bắc Bộ là tín ngưỡng thờ thành hoàng làng.Đây
được coi là vị thần bảo trợ cho cuộc sống của người dân làng.
-Hằng năm vào dịp đầu xuân,các làng thường tổ chức lễ làng,tưởng niềm người
thành lập nên làng của họ và những người có công trạng lớn làm rạng danh
làng.
->Xem thêm ở phần sau


-Quan hệ người làng xã với nhau
+Người dân làng sống thân tình với nhau,ít có đề phòng.
+Trong làng quê vốn tồn tại hai loại quan hệ huyết thống và địa vực.Hai loại
quan hệ này ở vùng chaai thổ sông Hồng thường không tách biệt mà hòa hợp
với nhau.Hôn nhân cùng làng đã gắn bó thêm mối quan hệ làng xã.Quan hệ giữa
người làng với nhau rất mật thiết cũng có vị trí quan trọng trong sinh hoạt con
người.“Khi hòn đá đã đổ mồ hôi”,
“Tắt đèn tối lửa” gia cảnh khó khan thì
hàng xóm sẽ là điểm tựa giúp giải quyết khó khan vì hàng xóm không chỉ là
người cùng địa vực mà còn có thể là an hem họ hàng sinh sống cùng nhau.
+Người ta thường sống theo những phong tục tập quán cổ truyền mang tính
mềm dẻo(lệ làng),là đối trọng của phép nước mang tính cứng rắn.
+Làng cũng có một không gian văn hóa riêng như:trẻ em của làng được giao
cho một thầy đồ được làng chu cấp.Trong năm người ta tổ chức những đám

rước tế,lễ hội,các bữa cỗ taajo thể linh đình,các dịp khao vọng,cheo cưới những
dịp thu hút đông đảo dân làng,vừa nghiêm trang vừa vui vẻ.
*Làng là một đất nước thu nhỏ
Ngoài những phong tục,lệ làng riêng,những mối quan hệ đan xen phức tạp,làng
còn có một tôn ti trật tự riêng.Làng là một cộng đồng cố kết chặt nhưng không
có nghĩa là bình đẳng mà cũng có tôn ti trật tự riêng.
-Trước hết là truyền thống trọng tuổi,người già thường được coi trọng hơn
người trẻ tuổi,càng già thì lời nói càng được coi trọng.
Thời Lý Trần khi cộng đồng dân cư làng xã còn thuần nhất,đó mới chỉ là một sự
phân tầng tự nhiên,theo thứ bậc tuổi tác.Những người cao tuổi được kính trọng
hơn cả,được coi là bề trên.Tuy nhiên từ thời Lê-Nguyễn,có một sự phân hóa xã
hội vĩ mô diễn ra trong làng xã ngày một mạnh do sự phân tầng xã hội quan
liêu.
Nội dung chế độ ngôi thứ tôn ti có thay đổi tùy theo từng địa phương,làng
xã.Nhìn chung có 3 loại tầng lớp dân cư chính trong làng xã như sau:


-Hạng quan viên chức sắc:tầng lớp có uy quyền trong làng xã.Trong làng xã
cũ,cơ cấu quyền lực có hai bộ phận chủ yếu sau đây:
Bộ phận lý dịch,là tổ chức chính quyền cơ sở cấp xã của nhà nước,có lý trưởng
là người đứng đầu.Vào thời Nguyễn còn có phó trưởng và trương tuần.Lý dịch
làm nhiệm vụ thu thuế,bắt lính,điều động phu phen,tạp dịch theo lệnh chính
quyền.
Bộ phận kỳ mục:gồm các trưởng lão quan viên.Quyền của bộ phận này trên
quyền của bộ phận Lý dịch.Bộ phân này đã từng bị chính quyền Pháp bãi bỏ tuy
nhiên phải lập lại sau đó do vấp phải sự phản đối gay gắt của các tiên chỉ và thứ
chỉ-người đứng đầu hội đồng kỳ mục.Tiêu chuẩn tiên,thứ chỉ tùy theo từng làng
bình chọn.Tuy nhiên thường là những người cao tuổi nhất,khoa bảng cao nhất
hay chức tước cao nhất.Điểm chung là họ đều đã về hưu.
-Hạng dân nội tịch:còn gọi là dân chính hộ,là những người chính thức được

thừa nhận là dân làng,có tên trong sổ tịch.Thành phần chủ yếu là các đinh nam
trong độ tuổi lao động.Họ được chia ruộng công cày cấy theo phép quân
điền,được dự bàn những cuộc họp làng xã,ăn cỗ làng tuy nhiên chỉ về mặt hình
thức.Bù lại họ cũng phải nộp sưu thuế,đi lao dịch,binh dịch.Những người trong
gia đình như:phụ nữ,trẻ con thuộc diện miễn những vẫn được gọi là dân nội
tịch.
-Hạng dân ngoại tịch:còn gọi là dan ngụ cư.Chủ yếu là những người từ làng
khác đến,sinh sống và làm ăn nhờ trên đất của làng nhưng vẫn không có tên
trong sổ tịch.Họ được miễn thuế dịch nhưng không được chia ruộng,không được
tham gia họp bàn việc làng.Do đó dân ngụ cư thường bị xem thường,hắt hủi bởi
dân làng.Muốn gia nhập nội tịch của làng,họ phải làm con nuổi trong gia đình
nào đó,nộp đơn,tiền thì mới được có tên trong sổ tịch.Phần còn lại là những
người thuộc “hạng cùng đinh” sống vật vờ,đóikhổ.
Như vậy cơ cấu quyền lực làng xã là quyền lực kép.
*Mối quan hệ giữa làng và nước


Vua Gia Long đã nói“nhà nước là góp làng xã lại mà thành.Muốn trị nước thì
phải sửa sang công việc của làng xã”.Làng xã vừa là đối trọng vừa là đối tác của
quốc gia.
-Làng là một đơn vị mang quyền lực kép.Làng vừa có những thể chế riêng,luật
làng riêng,lại vừa bị giám sát bởi nhà nước.Nhìn chung trong quá trình lịch sử
,các nhà nước phong kiến ngày càng tìm cách nắm lấy cộng đồng làng xã,chủ
yếu thông qua các việc quản lí ruộng đất và dân đinh bằng việc lập nên sổ địa bạ
và đinh bạ của từng làng…Trên cơ sở đó nhà nước coi dân làng là đơn vị hành
chính và kinh tế cấp cơ sở có những tư cách pháp nhân cộng đồng.Dân làng bị
giám sát bởi các luật làng được gọi là hương ước.Hương ước ở đây là những
quy phạm được dân làng chấp nhận qua thời gian.Ngoài ra còn luật pháp-là
những quy phạm cho hành động của cả nước mà nhân dân phải tuân theo.Làng
VN xưa không chỉ phải tuân theo hương ước mà còn phải tuân theo luật pháp

của triều đình.Pháp luật thì dựa vào quyền lực của nhà nước,tính cưỡng chế từ
trên xuống còn hương ước thì nhận được sự chấp thuậ rộng rãi của nhân
dân,tính cưỡng chế từ nội bộ.Tuy nhiên nhiều lúc dân ta có câu “phép vua thua
lệ làng”.
-Nhình chung làng xã vẫn là đơn vị trực thuộc nhà nước ,là đơn vị kinh tế,chính
trị quan trọng.Ví dụ:trong thời kỳ kháng chiến làng đã là lực lượng hỗ trợ quân
binh,lương thực,phối hợp thực hiện các đường lối chống giặc như:vườn khôn
nhà trống,chống cọc trên sông Bạch Đằng…
=>Tóm lại làng dù bị ảnh hưởng bởi nhà nước nhưng vẫn có những quyền lực
riêng đối với dân làng.
-Tuy nhiên vẫn có những thời điểm làng có sự chống đối lại với nước.Như đã
phân tích ở trên làng có một sự cố kết chặt chẽ nên không dễ gì điều khiển được
làng nếu không phù hợp với quan niệm,tín ngưỡng của dân làng.Điều này có thể
thấy rõ nhất trong thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc,dù nhà nước pk TQ có ra sức áp
đặt văn hóa,chữ viết TH vào VN thì dân ta vẫn gìn giữ được tiếng của người
Việt.Chỉ một bộ phận nhỏ trí thức có khả năng tiếp thu nền văn học,tư tưởng TH.
*So sánh mô hình làng xã miền Bắc Bộ và làng xã Nam Bộ
Làn xã BB khép kín hơn NB.


*Những sự thay đổi của làng qua các thời đại
Qua thời gian,làng xã VN đã có những sự biến đổi về mọi mặt từ mô hình chính
trị,văn hóa đến kinh tế.
-Ban đầu là tự trị do hội đồng kỳ mục điều hành
-Sau đó bị sát nhập thành đơn vị chính trị,gọi là xã,có xã trưởng
-Thời Bắc thuộc bị ảnh hưởn bởi tư tưởng Nho giáo
-Thời Pháp thuộc thực chất ảnh hưởng không nhiều ngoài bộ phận chính quyền
-Sau 1945,bãi bỏ hội đồng kỳ mục
-Sự xâm nhập của kinh tế hàng hóa,suy giảm nền văn hóa cổ truyền,một số giá
trị cổ truyền bị đánh mất….

3.Vùng miền
Mỗi vùng miền lại có những phong tục,tập quán riêng nhưng tựu chung lại vẫn
là những vùng miền thuộc dân tộc VN.
4.Quốc gia:
-Quốc gia phong kiến chế độ tập quyền
-Hình thành do lý do chính trị tư tưởng trước rồi mới đến địa lý lãnh thổ
-Có sự hỗ dung giữa văn hóa làng xã và văn hóa dân tộc.

Tiếp xúc-giao lưu văn hóa.
1.
-Tiếp xúc và giao lưu văn hóa là sự tiếp nhận văn hóa nước ngoài bởi dân tộc
chủ thể.
Trải qua thời gian sinh sống và làm ăn bất kỳ một tộc người nào cũng hình
thành cho mình những bản sắc riêng của họ.Tuy nhiên bộ tộc nào cũng có những
nhu cầu cơ bản giống nhau: như ăn,ngủ,nghỉ,thưởng thức cái đẹp,trao đổi hàng
hóa…Những nhu cầu này đã đẩy họ trao đổi với nhau những thứ có thể thỏa


mãn nhu cầu của mình hoặc của người khác.Không chỉ thế những biến động
chính trị,lịch sử xảy ra cũng đem đến những rủi ro về tiếp xúc văn hóa không tự
nguyện,làm nền văn hóa của một tộc người có thể bị ảnh hưởng bởi văn hóa
khác.Điều này dẫn đến sự đa dạng trong nền văn hóa dân tộc và văn hóa thế
giới,đây vốn là một điều tất yếu và vẫn đang diễn ra từ xa xưa đến nay.
-Cơ sở hình thành:ban đầu do sự trao đổi kinh tế.Bên cạnh đó còn những hoạt
động trao đổi phi kinh tế mà ảnh hưởng của chúng đến giao lưu văn hóa không
hề nhỏ(sự trao đổi tặng vật phẩm,vật phẩm tôn giáo…).Sự tiếp xúc vh còn có
được nhờ quan hệ giao tiếp,quan hệ hôn nhân…,các cuộc di cư lớn nhỏ…
-Giao lưu văn hóa vừa là kết quả của trao đổi vừa là chính bản thân sự trao
đổi.Những yếu tố lạc hậu,bảo thủ sẽ dần dần mất đi thay thế bằng những yếu tố
được coi là văn minh,hiện đại.

-Hai yếu tố ảnh hưởng đến giao lưu văn hóa:nội sinh và ngoại sinh
->Phân tích
-Kết quả của sự tương tác giữa nội sinh và ngoại sinh có 2 dạng thể hiện:tự
nguyện tiếp nhận và cưỡng bức tiếp nhận.
Ví dụ:Tự nguyện có tiếp nhận văn hóa ăn đồ ăn nhanh của Mỹ,Văn hóa ăn hóa
ăn mặc phong cách Hàn Quốc của người Hàn Quốc,Phật giáo Ấn Độ…
Cưỡng bức có tiếng Hán,Nho giáo của Trung Quốc,những công trình kiến trúc
Tây phương của Pháp…
-Mức độ tiếp nhận trong giao lưu cũng khác nhau:tiếp nhận đơn thuần và tiếp
nhận sáng tạo
-Sự tiếp nhận sáng tạo có 3 mức:+Tiếp nhận không toàn bộ mà chỉ chọn lọc giá
Ví dụ:Việt Nam chắc chắn có tham khảo bộ luật của các nước tư bản nhưng chỉ
tiếp nhận nhữn gì phù hợp với văn hóa người VN để đưa vào bộ luật VN…
+Tiếp nhận cả hệ thống nhưng đã có sự sắp xếp lại theo quan niệm chủ thể
Ví dụ: Ví dụ:Sự tích tết hàn thực của Trung Quốc. Vào khoảng năm 654 trước
Công Nguyên thuộc thời Xuân Thu, nước Tấn - một nước chư hầu của nhà Chu -


có loạn. Vua nhà Tấn, lúc đó là Công tử Trùng Nhĩ, phải chạy lánh nạn. Cùng đi
theo Trùng Nhĩ có một số bày tôi, trong đó có Giới Tử Thôi.Trong một lần chạy
chốn,do không có đủ lương thực,Gioi Tử Thôi đã cắt một miếng thịt đùi của
mình cho Trùng Nhĩ ăn.Gioi Tử Thôi theo phò Trùng Nhĩ suốt 19 năm,nếm trải
bao gian truân.Sau đó Trùng Nhĩ giành được ngai vàng,lập lại là nhà Tấn,ban
thưởng hậu hĩnh cho những người có công nhưng lại quên mất Gioi Tử Thôi.Ông
cũng không oán trác,đưa mẹ về núi Miên Sơn ở ẩn.Gioi Tử Thôi nhất quyết
không ra ngoài nhận thưởng của vua nữa.Nhà vua thấy vậy đốt rừng,giục
Giowsi Tử Thôi ra ngoài nhưng Gioi Tử Thôi nhất quyết không chịu ra,cuối cùng
hai mẹ con cùng chết cháy bên trong.Hôm đó đúng ngày 5/3 Âm lịch.Vua thương
xót cho lập miếu thờ Gioi Tử Thôi trên núi và ra lệnh cho nhân dân TQ trong ba
ngày 3-5/3 Âm Lịch không được đôt lửa,đó gọi là Tết Hàn Thực.Tục này được

lưu truyền khắp TQ,ngày nay người dân TQ lấy ngày 3/3 làm Tết Hàn thực.
Tuy nhiên về với VN,nó đã được biến thể thành câu chuyện tưởng nhớ sự tích
sinh trăm trứng của Âu Cơ và Lạc Long Quân.
+Mô phỏng và biến thể một số thành tựu của văn hóa dân tộc khác thành của
dân tộc mình.
Ví dụ:văn hóa Chăm pa biến thể từ văn hóa Phật giáo tiểu thừa của Ấn Độ với
những bức tượng các vị thần của đạo Balamon.
2.Tiếp xúc –giao lưu văn hóa trong cơ tầng văn hóa Đông Nam Á:
a.Về phạm vi hoạt động:
Vùng Đông Nam Á trong nghiên cứu văn hóa là vùng có ranh giới phía Bắc từ bờ
sông Dương Tử(Trung Quốc),phía Nam đến tận quần đảo Nam Dương,phía Tây
kéo đến tận biên giới Át-xam của Ấn Độ,phía đông là cả một thế giới bán đảo và
đảo nằm cạnh châu Đại Dương.
b.Văn hóa
Theo nghiên cứu của các nhà văn hóa học,văn hóa Đông Nam Á có những điểm
riêng biệt-phi Hoa phi Ấn chứ không phải như những gì các nhà khoa học Tây
phương đã nói.Trải qua thời gian dài,cộng đồng dân cư ĐNA đã hình thành nên


một số nét đặc trưng,những điểm chung thích nghi với điều kiện tự nhiên nhất
định:
Thứ nhất, đó là một phức thể văn hóa lúa nước với 3 yếu tố: văn hóa núi, văn
hóa đồng bằng. Văn hóa biển, trong đó yếu tố đồng bằng ra đời sau, chiếm diện
tích không gian lớn nhưng đóng vai trò chủ đạo. Đông Nam Á trong lịch sử đã
từng được mệnh danh là cái noi của cây lúa nước và một trong năm trung tâm
cây trồng lớn nhất thế giới. Vì vậy, Đông Nam Á mang những đặc trưng của
vùng văn hóa, văn minh nông nghiệp lúa nước. Cùng với sản xuất lúa nước, trâu
bò được thuần hóa và dùng làm sức kéo, đặt biệt là trâu. Công cụ dùng trong
sản xuất sinh hoạt, chiến đấu, dụng cụ nghi lễ chủ yếu được chế tác bằng đồng
và sắt,.v.v..

.Thứ hai: hoạt động kinh tế chính của Đông Nam Á là sản xuất nông nghiệp. Cư
dân thành thạo nghề trồng lúa nước và nghề đi biển..
.Thứ ba: trong cơ cấu gia đình truyền thống Đông Nam Á, người phụ nữ có vai
trò quyết định trong hoạt động gia đình. Đây cũng là một đặc điemr tạo nên dấu
ấn riêng của văn hóa Đông Nam Á so với các quốc gia trong khu vực văn hóa
phương Đông và phương Tây..
.Thứ tư: về mặt văn hóa tinh thần, ngay từ buổi ban đâu dân cư Đông Nam Á đã
hình thành cho mình một diện mạo văn hóa tinh thần khá phong phú và phát
triển trình đội cao. Điều đó thể hiện sự phát triển của tư duy về nhận thức xã hội
và gắn kết, quan niệm về tính chất lưỡng phân, lưỡng hợp của thế giới... tín
ngưỡng Đông Nam Á buổi đầu là bái vật giáo với thờ các thần: thần Đất, thần
Mưa, thờ mặt Trời, thờ cây, thờ Đá, thờ cá Sấu, đặc biệt là tín ngưỡng phồn thực
và thờ cún tổ tiên..
.Giai đoạn thứ hai, vào thời kì Đông sơn-thời kì kết tinh tinh thần dân tộc, kết
tinh văn hóa. Không chỉ ở giữa nền văn hóa Đông Sơn, văn hóa Sa Huỳnh và văn
hóa Đồng Nai có sự trao đổi, tiếp sức lẫn nhau, mà các nền văn hóa này đã có
trao đổi tiếp xúc khá mạnh mẽ với văn hóa Đông Nam Á. Chứng có là, người ta
tìm thấy khá nhiều trống đồng Đông Sơn ở thái lan, Mã Lai, Indônêxia, và miền
nam Trung Quốc (thuộc khu vực văn hóa Đông Nam Á). Nhiều trống đồng có hoa
văn, hình người, hình chim tìm thấy ở Tấn Ninh (nam Trung Quốc) mang phong


cách Đống Sơn. Rất nhiều rìu đồng duôi én tìm thấy ở Indônêxia được sản xuất
theo phong các Đông Sơn (kiểu rìu Làng Vạc - Nghệ An) các đồ đồng này hoặc
bằng con đường buôn bán mà có mặt ở các nước trong khu vực, hoặc được chế
tạo tại chổ theo phong cách Đông sơn mà nó chịu ảnh hưởng..
.Nằm trong khu vực Đông Nam Á, văn hóa Việt Nam ngay từ trong thời kì tiền
sử đã mang những sắc thái của văn hóa Đông Nam Á. Tuy nhiên, trong quá trình
phát triển lịch sử, giao lưu với văn hóa Trung Quốc. Ấn Độ, những ảnh hưởng
mạnh mẽ của chúng ta đã khiến cho nền văn hóa cổ Đông Nam Á bị giải thể về

mặt cấu trúc. Những yếu tố, những mãnh vụn của chúng trở thành cơ tầng sâu
văn hóa Đông Nam Á trong nền văn hóa của mỗi quốc gia trong khu vực và
được bảo lưu như các yếu tố, các giá trị chung tạo nên những nét tương đồng về
văn hóa..
.Vào thời kỳ sơ sử, người Việt Nam đã tạo dựng nên một nền văn hóa bản địa
rực rở: văn hóa Đông Sơn - văn minh Sông Hồng. Trước khi tiếp xúc với văn hóa
Trung Hoa và Ấn Độ, Việt Nam đã hình thành một nền văn hóa bản địa vừa có
những nét tương đồng với nền văn hóa Đông Nam Á vừa có cá tính bản sắc
riêng. Điều này được thể hiện một số điểm như sau:
Địa bàn cư trú của người Việt đã tương đối ổn định, theo mô hình làng..
.Phương thức sản xuất chính là nông nghiệp, trồng trọt, có kết hợp với chăn
nuôi và đánh bắt thủy hải sản. Trong sản xuất nông nghiệp, nổi bật là nền văn
minh lúa nước, dùng sức kéo là trâu, bò..
.Trình độ luyện kim đồng sắc, chế tác dụng cụ lao động, vật dụng đồ trang sức,....
.Bằng đồng, sắc đạt đến một trình độ điêu luyện và có cá tính văn hóa Việt..
.Đã có tiếng tương đối ổn định, đó là hệ ngôn ngữ Việt - Mường..
.Đã có một hệ thống huyền thoại trở thành " mẫu gốc", thành tâm thức cộng
đồng trong đời sống tinh thần người Việt. Hệ thống huyền thoại này -hản ánh 5
lĩnh vực trụ cột lớn của đời sống cộng đồng dân tộc quan tâm như: nguồn gốc
giống nồi, làm ăn xây dựng đất nước, đánh giặc giữ nước, đời sống tâm linh và
tình yêu lưa đôi của con người. Tất cả, hoặc từng phần những nội dung đó được
thể hiện thoại rực rỡ như: Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ, Sơn Tinh- Thủy Tinh,


Thánh Giống, An Dương vương, chử đồng tử và tiên dung,... đó là một tài sản
tinh thần to lớn có ý nghĩa tập hợp sức mạnh đoàn kết, ý thức tự cường văn hóa
của dân tộc Việt Nam trong suốt hành trình lịch sử..
.1000 năm dưới ách độ hộ của thế chế Phương Bắc, văn hóa Đông Sơn bị giải thể
về mặt cấu trúc nhưng văn hóa Việt vẫn phát triển. Những yếu tố văn hóa Đông
Sơn vẫn được lưu giữ trong các sớm làng. Đây chính là mạch nước ngầm, là sức

mạnh để chủ nhân văn hóa Việt Nam đủ bản lĩnh trong giao lưu tiếp biến với
văn hóa Trung Hoa mà vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc2.Giao lưu tiếp biến văn hóa Trung Hoa
Sự giao lưu tiếp biến giữa văn hóa VN và văn hóa Trung Hoa là một sự giao
lưu,tiếp biến rất dài qua nhiều thời kỳ lịch sử VN.Cho đến nay,không một nhà
văn hóa nào phủ nhận sự ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa đến văn hóa
VN.Qúa trình giao lưu tiếp biến ấy diễn ra theo cả hai đường cưỡng bức và
không cưỡng bức.
.Trung Hoa là một trong nhưng trung tâm văn hóa lớn ở phương Đông, có nền
văn hóa lâu đời và phát triển rực rở. Văn hóa Trung Hoa là nền văn hóa nông
nghiệp xuất phát từ nông nghiệp xuất phát từ nông nghiệp trồng khô (trồng kê
và lúa mạch) trên đất hoàng thổ của vùng trung du Hoàng Hà. Do nắm trên ngã
ba trong đại lục Châu Á và miền bình nguyên Âu - Á, nên văn hóa Trung Hoa vừa
mang những đặc điểm văn hóa du mục của các dân cư phương bắc và tây bắc,
vừa thấu hiểu tinh hoa của văn hóa nông nghiệp trồng lúa nước của các dân cư
phương Nam. Lịch sử hình thành và phát triển của văn hóa Trung Hoa gắn liền
với lịch sử mở rộng lãnh thổ bằng các cuộc chinh phạt về mặt quân sự và truyền
bá văn hóa của tổ tiên người Trung Hoa từ phía Tây lưu vực song Hoàng Hà
theo hướng từ tây sang đông, từ bắc xuống nam. Cùng với sự bành trướng về
phương nam các triều đại phong kiến Trung Hoa, đã diễn ra Trung hoa thâu hóa
văn hóa phương nam, hán hóa các nền văn hóa phương nam. Vị trí địa lí và
những diễn biến của lịch sử đã tạo các điều kiện gặp gỡ và tiếp xúc thường
xuyên giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa. Ngày nay, không thể phủ
nhận của của văn hóa Trung Hoa đối với văn hóa Việt Nam là rất lớn. Vấn đề đặt
là trong cuộc tiếp xúc không cân sức này, người Việt Nam làm thế nào để văn


hóa dân tộc vẫn tồn tại và phát triển, vẫn khẳn định được bản sắc văn hóa của
mình..
Giao lưu cưỡng bức diễn ra ở hai giai đoạn lịch sử điển hình: từ thế kỉ I đến thế

kỹ thứ X và từ 1407 đến 1427 suốt thiên niên sau công nguyên, các đế chế
Phương Bắc ra sức thực hiện các chính sách đồng hóa về phương diện văn hóa
nhằm biến nước ta trở thành một quận, huyện của trung Hoa. Từ 1407 đến
1427 là giai đoạn nhà Minh xâm chiếm Đại Việt. Trong số các kẻ thù từ phương
bắc, giặc Minh là kẻ thù tàn bạo đối với văn hóa Đại Việt. Minh Thành tổ ban
lệnh cho viên tướng Trương Phụ chỉ huy binh tướng vào xâm lược Đại Việt:
"Binh lính vào nước Nam, trừ sách vở và bản in đạo Phật, đạo Lão thì không
thiêu hủy, ngoài ra hết thải mọi sách vở khác, văn tự cho đến ca lý dân gian hay
sách dạy trẻ nhỏ... một mãnh một chữ đều phải đốt hết. Khắp trong nước phàm
những bia do người Trung Quốc dựng từ xưa đến nay thì đều giữ gìn cẩn thận
còn các bia do An Nam dựng thì phá hủy tất cả, một chữ chớ đê còn"..
.Giao lưu tiếp biến văn hóa một cách tự nguyện là dạng thức thứ hai của quan
hệ giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Hoa..
.Trước thời kỳ Bắc thuộc đã từng diễn ra giao lưu tự nhiên giữa dân tộc người
Hán với cư dân Bách Việt nghiên cứu lịch sử văn minh Trung Hoa người ta thấy
có nhiều yếu tố văn hóa phương Nam đã được người hán tiếp nhận từ cổ đại
những yếu tố này nhập sâu vào văn hóa hán, được hệ thống hóa, nâng cao "chữ
nghĩa hóa" rồi truyền bá trở lại phương nam dưới dáng vẻ mới. Có thể nói, đó là
sự giao lưu tiếp xúc hai chiều học hỏi lẫn nau giữa các nền văn hóa. Hiện nay đã
phát hiện được trống đồng và nhiều đồ đồng đông Sơn trên đất trung Hoa, đồng
thời cũng phát hiện nhiều vật phẩm. Mang dấu ấn trung hoa trong các di chỉ
khảo cổ học ở Việt Nam. Trong nền văn hóa đông sơn, người ta đã nhận thấy
khá nhiều di vật của văn hóa phương bắc nằm cạnh những hiện vật của văn hóa
đông sơn. Chảng hạn những đồng tiền thời tần hán, tiền ngũ thù đờn hán, các
dụng cụ sinh hoạt của quí tộc hán như gương đồng, ấm đồng... có thể những sản
phẩm ấy là kết quả của sự trao đổi thông thương giữa hai nước..
.Ở thời kỳ độc lập tự chủ, nhà nước quân chủ Đại Việt được mô phỏng theo mô
hình nhà nước phong kiến trung hoa. Nhà lý, nhà trần về tổ chức chính trị xã hội



×