Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (72.57 KB, 15 trang )

Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự

Sự tham gia tố tụng dân sự của người đại diện của đương sự có ý nghĩa rất lớn đối
với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự cũng như việc làm rõ sự thật
của vụ việc dân sự. Tuy nhiên, tìm hiểu, nghiên cứu pháp luật về các vấn đề liên
quan đến người đại diện của đương sự cho thấy còn nhiều quy định chưa rõ ràng,
chưa phù hợp, có những vấn đề cần thiết nhưng chưa được luật hóa… Vì vậy, nhóm
em quyết định chọn đề tài “Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự” làm
bài tập nhóm tháng 1 nhằm mục đích trau dồi kiến thức, đồng thời đề xuất những ý
kiến góp phần hoàn thiện các quy định về người đại diện của đương sự.
II. Khái quát về người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự.
1. Khái niệm người đại diện của đương sự.
a. Người tham gia tố tụng.
Để giải quyết một vụ việc dân sự cần có sự tham gia của rất nhiều chủ thế với các
quyền và nghĩa vụ khác nhau. Ngoài cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành
tố tụng thực hiện việc giải quyết vụ việc dân sự, thi hành án dân sự còn có các cá
nhân, cơ quan, tổ chức khác tham gia vào vụ việc dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của mình, của người khác hoặc hỗ trợ cơ quan tiến hành tố tụng trong việc
giải quyết vụ việc dân sự, thi hành án dân sự. Đó là những người tham gia tố tụng.
Người tham gia tố tụng dân sự là người tham gia vào việc giải quyết vụ việc dân sự
để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác hoặc hỗ trợ Tòa án,
cơ quan thi hành án trong việc giải quyết vụ việc dân sự và thi hành án dân sự.
b. Người đại diện của đương sự.


Theo quy định tại Điều 139 Bộ luật dân sự năm 2005 (BLDS) thì: đại diện là việc
một người nhân danh và vì lợi ích của người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân
sự trong phạm vi đại diện. Quan hệ đại diện được xác lập theo pháp luật hoặc theo
ủy quyền. Theo quy định này thì người đại diện luôn nhân danh và vì lợi ích của
người khác xác lập, thực hiện giao dịch dân sự trong phạm vi đại diện.
Đương sự trong vụ việc dân sự là người tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích


hợp pháp của mình hoặc bảo vệ lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước trong lĩnh
vực mình phụ trách.
Từ sự phân tích trên ta có thể hiểu, người đại diện của đương sự là người tham gia
tố tụng, thay mặt đương sự thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho đương sự trước Tòa án.
2. Vai trò của người đại diện của đương sự.
Người đại diện của đương sự tham gia vào quá trình giải quyết vụ việc dân sự có
một ý nghĩa rất lớn.
Thứ nhất: việc tham gia tố tụng của người đại diện của đương sự có tác dụng đối
với việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự, nhất là trong trường hợp họ
là người bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi tố tụng dân sự.
Thứ hai: việc tham gia tố tụng của người đại diện của đương sự còn có tác dụng
nhất định trong việc làm rõ sự thật về vụ việc dân sự.
3. Các loại đại diện của đương sự.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, để thực hiện được các quyền, nghĩa vụ tố
tụng của đương sự, người đại diện của đương sự phải có năng lực hành vi tố tụng
dân sự. Những người không có năng lực hành vi tố tụng dân sự thì không thể thực


hiện được các quyền, nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương
sự trước Tòa được. Thông thường, người đại diện của đương sự là các cá nhân bởi
họ có thể tự mình chủ động thực hiện các quyền, nghĩa vụ tố tụng của đương sự
trong tố tụng. Tuy vậy, theo quy định tại Điều 73 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004
(BLTTDS) thì có trường hợp ngoại lệ như trường hợp cơ quan, tổ chức khởi kiện để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác cũng là người đại diện cho đương
sự.
Người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự gồm:
a. Người đại diện theo pháp luật.
Người đại diện theo pháp luật là người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp cho đương sự theo quy định của pháp luật.

Diện những người đại diện theo pháp luật của đương sự bao gồm: cha, mẹ của con
chưa thành niên; người giám hộ của người được giám hộ; người đứng đầu cơ quan,
tổ chức; chủ hộ gia đình và cá nhân, tổ chức khởi kiện bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác. Tuy nhiên, để đảm bảo việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp
của đương sự, pháp luật đã hạn chế những trường hợp không được làm người đại
diện tại Điều 75 BLTTDS, đó là: người không có năng lực hành vi tố tụng dân sự;
người là đương sự trong cùng một vụ án đối với người được đại diện mà quyền, lợi
ích của họ đối lập với quyền, lợi ích của người được đại diện; đang là người đại
diện theo pháp luật của một đương sự khác trong cùng một vụ án mà quyền, lợi ích
của đương sự đó đối lập với quyền, lợi ích của người được đại diện.
Người đại diện theo pháp luật của đương sự đương nhiên được tham gia tố tụng để
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự khi xét thấy cần thiết. Phạm vi tham
gia tố tụng của họ không bị hạn chế trong các loại việc.
b. Người đại diện do Tòa án chỉ định.


Người đại diện do Tòa án chỉ định là người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự theo sự chỉ định của Tòa án.
Mặc dù mục đích của việc Tòa án chỉ định người đại diện cho đương sự là bảo đảm
quyền bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự trước Tòa án song trong tố tụng
dân sự các đương sự có quyền tự định đoạt nên theo quy định tại Điều 76 BLTTDS
thì Tòa án chỉ tiến hành chỉ định người đại diện cho đương sự trong trường hợp
đương sự là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà không có người đại diện
hoặc người đại diện theo pháp luật không được đại diện theo quy định tại Khoản 1
Điều 75 BLTTDS. Đồng thời, Tòa án cũng không được chỉ định những người thuộc
diện không được làm người đại diện theo pháp luật của đương sự.
Người đại diện do Tòa án chỉ định tham gia tố tụng từ khi có quyết định của Tòa án
chỉ định họ đại diện cho đương sự. Phạm vi tham gia tố tụng của người đại diện do
Tòa án chỉ định không bị hạn chế trong các loại việc.
c. Người đại diện theo ủy quyền.

Người đại diện theo ủy quyền là người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp cho đương sự theo sự ủy quyền của đương sự.
Khác với đại diện theo pháp luật và đại diện theo chỉ định của Tòa án, đương sự
được đại diện là người có năng lực hành vi tố tụng nên người đại diện theo ủy
quyền chỉ được tham gia tố tụng khi được đương sự ủy quyền thay mặt họ trong tố
tụng dân sự. Đương sự có thể ủy quyền cho bất kì người nào có năng lực hành vi tố
tụng đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích của mình trừ những người
không được làm người đại diện theo pháp luật của đương sự và những người là cán
bộ, công chức trong ngành Tòa án, kiểm sát, công an.


Đương sự có thể ủy quyền cho người đại diện thực hiện toàn bộ các quyền và nghĩa
vụ tố tụng của mình. Tuy vậy, do tính chất, yêu cầu của việc giải quyết vụ việc dân
sự, sau khi ủy quyền cho người đại diện đương sự vẫn có quyền tham gia tố tụng để
bổ sung cho hoạt động của người được ủy quyền.
Đương sự có thể ủy quyền cho người đại diện tham gia tố tụng trong các loại việc
trừ việc ly hôn. Việc ủy quyền phải được tiến hành dưới hình thức văn bản.
II. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự.
Như đã biết, xuất phát từ tính đa dạng của các quan hệ pháp luật tố tụng dân sự nên
người đại diện của đương sự trong tố tụng dân sự cũng có nhiều hình thức, cụ thể
là: Người đại diện của đương sự bao gồm: người đại diện theo pháp luật, người đại
diện do toà án chỉ định và người đại diện theo uỷ quyền. Tuỳ vào tính chất tham gia
tố tụng trong từng trường hợp cụ thể mà người đại diện của đương sự có các quyền
và nghĩa vụ nhất định.Vấn đề này đã được quy định tại Điều 74 BLTTDS:
3. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo pháp luật và người đại diện do toà án
chỉ định.
Trong các trường hợp này, người đại diện của đương sự tham gia tố tụng bảo vệ
quyền, lợi ích cho đương sự là người không có năng lực hành vi tố tụng dân sự.
Do bản thân đương sự không thể thực hiện được các quyền và nghĩa vụ tố tụng để
bảo vệ quyền, lợi ích của mình cho nên người đại diện theo pháp luật và người đại

diện do toà án chỉ định được thực hiện tất cả các quyền và nghĩa vụ tố tụng của
đương sự mà họ đại diện để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự ( Khoản 1
Điều 74). Đối chiếu với điều 58 BLTTDS quy định về quyền và nghĩa vụ của đương
sự, ta có thể thấy quyền và nghĩa vụ của đại diện theo pháp luật và người đại diện
toà án chỉ định được quy định như sau:


- Cung cấp chứng cứ, chứng minh để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình:
Đây là một trong những quyền quan trọng của người đại diện theo pháp luật và do
toà án chỉ định cho đương sự bởi chứng cứ và chứng minh là một trong những căn
cứ quan trọng nhất, mang tính chất quyết định trong quá trình giải quyết vụ việc
theo thủ tục tố tụng dân sự.
- Yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức đang lưu giữ, quản lí chứng cứ cung cấp chứng
cứ cho mình để giao nộp cho Toà án.
- Đề nghị Toà án xác minh, thu thập chứng cứ của vụ án mà tự mình không thể thực
hiện được hoặc đề nghị Toà án triệu tập người làm chứng, trưng cầu giám định, định
giá; khiếu nại với Viện kiểm sát về những chứng cứ mà Toà án đã xác minh, thu
thập do đương sự khác yêu cầu: Đây là các trường hợp người đại diện của đương sự
không thể tự mình thực hiện việc thu thập chứng cứ, thì có thể sử dụng quyền này
để đề nghị cơ quan tiến hành tố tụng là Toà án, Viện kiểm sát, với tư cách là các cơ
quan quyền lực nhà nước, thực hiện các hoạt động hỗ trợ cho việc thu thập chứng
cứ để giải quyết vụ việc.
- Được biết và ghi chép, sao chụp tài liệu, chứng cứ do các đương sự khác xuất trình
hoặc do Toà án thu thập: Do thu thập chứng cứ là quyền của nhiều chủ thể tham gia
tố tụng dân sự nên để đảm bảo tính khách quan và công bằng trong quá trình giải
quyết, người đại diện theo pháp luật, đại diện do Toà án chỉ định cho đương sự có
quyền được biết và xem xét các chứng cứ khác không phải do mình thu thập để có
thể chuẩn bị cho các bước tiếp theo của quá trình tố tụng, nhằm đảm bảo quyền và
lợi ích của người được đại diện.
- Đề nghị Toà án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời: Trong các trường

hợp nhằm giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự, bảo toàn tình trạng tài sản, bảo
vệ bằng chứng hoặc để đảm bảo thi hành án, với tư cách là người đại diên của
đương sự, người đại diện theo pháp luật hay do toà án chỉ định của đương sự có
quyền đề nghị Toà án quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.


- Tự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; tham gia hoà giải do Toà án tiến
hành: Do các vụ việc được giải quyết bằng thủ tục tố tụng dân sự là các vụ việc
trong lĩnh vực dân sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động – là các
vụ việc luôn đề cao sự tự thoả thuận của các bên đương sự nên trong trường hợp
đương sự không thể tự mình tham gia tố tụng với tư cách của chủ thể có năng lực
hành vi dân sự đầy đủ mà phải thông qua người đại diện theo pháp luật hay do toà
án chỉ định thì người đại diện được thay mặt đương sự thoả thuận với ác đương sự
khác về việc giải quyết vụ án hay tham gia hoà giải do toà án tiến hành; nhằm đảm
bảo tôn trọng ý chí của các bên đương sự tham gia tố tụng.
- Nhận thông báo hợp lệ để thực hiện các quyền, nghĩa vụ của mình;
- Tự bảo vệ hoặc nhờ người khác bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình;
- Tham gia phiên toà;
- Yêu cẩu thay đổi người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng theo quy định
của Bộ luật này;
- Đề xuất với Toà án những vấn đề cần hỏi người khác; được đối chất với nhau
hoặc với nhân chứng;
- Tranh luận tại phiên toà: Đây là một trong những quyền quan trọng nhất của người
đại diện theo pháp luật, đại diện do Toà án chỉ định cho đương sự bởi tại phiên toà,
căn cứ vào những chứng cứ được đưa ra cũng như sự tranh luận của các bên đương
sự, vụ việc sẽ được các chủ thể có thẩm quyền giải quyết.
- Được cấp trích lục bản án , quyết định của Toà án;
- Kháng cáo, khiếu nại bản án, quyết định của Toà án theo quy định của Bộ luật này.



- Phát hiện và thông báo cho người có thẩm quyền kháng nghị căn cứ để kháng nghị
theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực
pháp luật;
- Phải có mặt theo giấy triệu tập của Toà án và chấp hành các quyết định của Toà án
trong thời gian giải quyết vụ án;
- Tôn trọng Toà án, chấp hành nghiêm chỉnh nội quy phiên toà;
- Nộp tiền tạm ứng án phí, án phí, lệ phí theo quy định của pháp luật;
- Chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật.
- Các quyền, nghĩa vụ khác mà pháp luật có quy định.
4. Quyền và nghĩa vụ của người đại diện theo uỷ quyền của đương sự.
Trong trường hợp này, người đại diện của đương sự tham gia tố tụng để bảo vệ
quyền lợi cho đương sự là người có năng lực hành vi tố tụng dân sự. Bản thân
đương sự cũng có thể tự thực hiện được các quyền, nghĩa vụ tố tụng của họ. Do vậy.
người đại diện theo ủy quyền của đương sự chỉ thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố
tụng của đương sự trong phạm vi uỷ quyền ( Khoản 2 Điều 74 BLTTDS). Xét về
mặt bản chất pháp lý, quan hệ ủy quyền luôn tồn tại 2 quan hệ:
Thứ nhất: Quan hệ giữa người ủy quyền và người được ủy quyền: Trong quan hệ
này người được uỷ quyền có nghĩa vụ phải thực hiện các hành vi pháp lý trong
phạm vi ủy quyền. Người được ủy quyền phải trực tiếp thực hiện nghĩa vụ của mình
mà không được ủy quyền lại cho người khác trừ trường hợp các bên có thỏa thuận
khác;


Thứ hai: Quan hệ giữa người được ủy quyền với bên thứ ba của giao dịch: Người
được ủy quyền với tư cách của người đã ủy quyền giao kết hoặc thực hiện các giao
dịch dân sự với bên thứ ba. Người được ủy quyền có những quyền và nghĩa vụ nhất
định với bên thứ ba của giao dịch. Trong trường hợp giao dịch dân sự do người đại
diện xác lập, thực hiện vượt quá phạm vi đại diện được quy định cụ thể tại Điều 146
BLDS thì:
“1. Giao dịch dân sự do người đại diện xác lập , thực hiện vượt quá phạm vi đại

diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối với phần
giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người được đại
diện đồng ý hoặc biết mà không phản đối ; nếu không được sự đồng ý thì người đại
diện phải thực hiện nghĩa vụ đối với người đã giao dịch với mình về phần giao dịch
vượt quá phạm vi đại diện….
3. Trong trường hợp người đại diện và người giao dịch với người đại diện cố ý xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự vượt quá phạm vi đại diện mà gây thiệt hại cho
người được đại diện thì phải chịu trách nhiêm liên đới bồi thường thiệt hại.”
Như vậy, tuỳ từng trường hợp, là người đại diện theo pháp luật, đại diện do Toà án
chỉ định cho đương sự hay đại diện theo uỷ quyền mà người đại diện tham gia vào
quá trình tố tụng dân sự với các quyền và nghĩa vụ khác nhau. Việc quy định như
vậy là phù hợp với thực tiễn tiến hành tố tụng, góp phần tạo ra cơ chế đảm bảo cho
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
III. Thực trạng và phương hướng hoàn thiện.
1. Về xác định tính hợp pháp về hình thức của đơn khởi kiện do người đại diện theo
ủy quyền đứng đơn khởi kiện
Về hình thức, nội dung đơn khởi kiện, tại điểm 1 khoản 2 Điều 164 BLTTDS quy
định: “Người khởi kiện là cá nhân phải ký tên hoặc điểm chỉ; nếu cơ quan, tổ chức


khởi kiện thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu ở
phần cuối đơn”.
Tuy nhiên, trong trường hợp nguyên đơn do ở xa và vì nhiều lý do khác nhau không
thể trực tiếp tham gia vụ kiện, do đó, nguyên đơn lập hợp đồng uỷ quyền cho người
được uỷ quyền thay mặt mình giải quyết tranh chấp cả trong giai đoạn tiền tố tụng
và trong quá trình tố tụng tại Tòa án. Vì vậy, người đại diện theo uỷ quyền làm đơn
khởi kiện và ký tên trong đơn khởi kiện. Về lý luận, đơn khởi kiện là cơ sở pháp lý
để Tòa án xem xét thụ lý vụ án dân sự; cá nhân, cơ quan tổ chức có thể ủy quyền
cho người đại diện khởi kiện để bảo vệ lợi ích của mình (Điều 161 BLTTDS). Khi
xác lập quan hệ ủy quyền, người được ủy quyền sẽ thay mặt và đại diện cho người

ủy quyền thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng trong phạm vi và nội dung ủy
quyền, đồng thời chịu trách nhiệm về công việc ủy quyền. Vì vậy, không thể nói
rằng nếu người đại diện ủy quyền ký vào đơn khởi kiện là không thể hiện ý chí và
nguyện vọng của người khởi kiện. Mặt khác, nhiều trường hợp cơ quan, tổ chức làm
hợp đồng ủy quyền cho Luật sư thay mặt cơ quan, tổ chức khởi kiện và tham gia tố
tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Nếu bắt buộc “đại diện hợp
pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu ở phần cuối đơn” thì không
thể thực hiện được. Mặt khác, Điều 161 BLTTDS quy định: “Cá nhân, cơ quan, tổ
chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án
(sau đây gọi chung là người khởi kiện)..”. Bản thân quy định chung này đã trao
quyền cho người đại diện hợp pháp khởi kiện và người đại diện hợp pháp được đặt
trong thuật ngữ chung gọi là “người khởi kiện”. Bên cạnh đó, về nội dung, điểm 1
khoản 2 Điều 164 không cấm người đại diện ủy quyền đứng tên trong đơn khởi
kiện.
Vì vậy, để thống nhất trong việc áp dụng luật, Tòa án nhân dân tối cao cần sớm có
hướng dẫn cụ thể về Điều 164 BLTTDS, trong đó, có việc xác định tính hợp pháp
về hình thức của đơn kiện trong 2 trường hợp:


Một là: Người khởi kiện là cá nhân phải điểm chỉ vào đơn; nếu cơ quan, tổ chức
khởi kiện thì đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức đó phải ký tên và đóng dấu
vào phần cuối đơn (theo điểm 1 khoản 2 Điều 164 BLTTDS).
Hai là: Người đại diện ủy quyền của cá nhân, cơ quan, tổ chức khởi kiện phải ký tên
vào phần cuối đơn. Kèm theo đơn khởi kiện, người đại diện ủy quyền phải xuất
trình được hợp đồng ủy quyền hợp pháp với phạm vi ủy quyền được xác định rõ
bao gồm cả ủy quyền đứng đơn khởi kiện.
2. Về hình thức văn bản ủy quyền và việc xác định loại ủy quyền
Điều 586 BLDS có quy định: “Hợp đồng ủy quyền phải lập thành văn bản; nếu có
thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định, thì hợp đồng ủy quyền phải có chứng nhận
của công chứng nhà nước hoặc chứng thực của ủy ban nhân dân cấp có thẩm

quyền”. Quy định này chưa rõ ủy quyền phải qua công chứng, chứng thực trong
những trường hợp nào.
Theo quy định tại Điều 102 BLDS đại diện theo pháp nhân có thể đại diện theo
pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Đại diện theo pháp luật của pháp nhân là
người đứng đầu pháp nhân được quy định trong quyết định thành lập pháp nhân
hoặc trong điều lệ của pháp nhân. Người đại diện theo pháp luật của pháp nhân có
thể ủy quyền cho người khác thay mình thực hiện nhiệm vụ đại diện. Pháp nhân
phải chịu trách nhiệm về hành vi của người đại diện theo ủy quyền. Để xác định rõ
trách nhiệm của pháp nhân hay trách nhiệm của cá nhân cần phải quy định cụ thể về
hình thức ủy quyền. Thông thường người đứng đầu pháp nhân chỉ phụ trách việc
điều hành tổng thể, còn các cấp phó mỗi người phụ trách một công việc nhất định.
Đây là loại hình thức ủy quyền chuyên biệt, thường xuyên và người được ủy quyền
phải hoàn toàn chịu trách nhiệm trước người ủy quyền về mảng công việc của
mình.


Trong quá trình thụ lý giải quyết tranh chấp dân sự, nhiều vụ kiện giữa pháp nhân
với cá nhân không có đăng ký kinh doanh nảy sinh các tranh chấp trong các quan hệ
hợp đồng hoặc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Thông thường, người đại diện
theo pháp luật của pháp nhân là giám đốc, hoặc tổng giám đốc. Người đại diện theo
pháp luật của pháp nhân đó đứng ra khởi kiện, ký tên, đóng dấu vào đơn khởi kiện
hoặc ủy quyền cho người khác khởi kiện. Thực tiễn tại các Tòa án đã có nhiều
trường hợp, phó giám đốc (hoặc phó tổng giám đốc) đứng đơn khởi kiện hoặc ủy
quyền cho Luật sư hoặc người khác đại diện tham gia tố tụng, trong nhiều vụ kiện
người đứng đầu pháp nhân không lập hợp đồng ủy quyền mà thông qua giấy giới
thiệu của cơ quan với nội dung ủy quyền cho công chức hoặc nhân viên của mình
thay mặt pháp nhân tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện theo ủy quyền.
Việc có chấp nhận hay không chấp nhận các văn bản ủy quyền này đặt ra nhiều vấn
đề.
Vì vậy, bên cạnh việc hoàn thiện các quy định của pháp luật nội dung trong việc bổ

sung điều luật về hình thức ủy quyền, loại ủy quyền, Toà án nhân dân tối cao nên
sớm có văn bản hướng dẫn giải thích về hình thức ủy quyền tố tụng, cụ thể là đối
với chủ thể ủy quyền của loại hình ủy quyền mang tính chuyên biệt (không riêng
đối với ủy quyền của Chủ tịch UBND); hình thức văn bản ủy quyền tham gia tố
tụng có phải qua công chứng, chứng thực hay không? Có phải lập hợp đồng ủy
quyền hay chỉ là giấy ủy quyền, hoặc giấy giới thiệu – đối với cơ quan, tổ chức?
3. Việc chấm dứt đại diện ủy quyền trong tố tụng dân sự.
Quy định chấm dứt tư cách của người đại diện theo ủy quyền có thể xảy ra trong
nhiều trường hợp theo Điều 77 BLTTDS. Tòa án áp dụng theo quy định tại khoản 2
Điều 156 BLTTDS “Chấm dứt đại diện của cá nhân”, Điều 157 “Chấm dứt đại diện
của pháp nhân”, Điều 594 “Chấm dứt hợp đồng ủy quyền” để xác định việc đại diện
theo ủy quyền chấm dứt trong một số trường hợp.


Việc đơn phương đình chỉ hợp đồng ủy quyền có thể đặt ra với cả 2 bên đại diện uỷ
quyền và bên ủy quyền. Rất tiếc, trong pháp luật nội dung và tố tụng đều chưa đề
cập đến quy định này.
Tại Điều 593 “đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng uỷ quyền” có đề cập đến
thủ tục chấm dứt ủy quyền trong trường hợp uỷ quyền có thù lao và uỷ quyền không
có thù lao. Khoản 1 Điều 593 quy định: “Nếu uỷ quyền không có thù lao, thì bên uỷ
quyền có thể đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào nhưng phải
báo trước cho bên kia một thời hạn hợp lý”. Quy định này chưa rõ thế nào là thời
hạn hợp lý? việc đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng ủy quyền thể hiện dưới
hình thức nào?
Chính nội dung đó đã dẫn đến các yêu cầu xử lý về văn bản tố tụng khác nhau ở các
Tòa án. Có Toà cho rằng khi các bên lập hợp đồng ủy quyền qua công chứng, chứng
thực thì khi đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng ủy quyền đó cũng phải qua
công chứng, chứng thực. Nhưng, ở Tòa án khác lại cho rằng chỉ cần có văn bản của
một bên xác định việc đơn phương đình chỉ hợp đồng ủy quyền là có thể chấp nhận.
Chúng em cho rằng đã nói đơn phương đình chỉ hợp đồng là thể hiện ý chí của một

bên trong việc chấm dứt hợp đồng. Vì vậy, chỉ cần sự thể hiện bằng văn bản về việc
chấm dứt hợp đồng uỷ quyền là được Toà án chấp nhận. Trong nhiều trường hợp,
việc thể hiện ý chí này cũng không nhất thiết phải lập thành văn bản. Chẳng hạn
việc chấm dứt ủy quyền ngay tại phần thủ tục bắt đầu phiên toà khi kiểm tra các căn
cước của các đương sự, nếu vụ án có người đại diện ủy quyền. Nếu đương sự hoặc
người đại diện theo ủy quyền khẳng định trước Hội đồng xét xử về việc rút ủy
quyền ngay tại phiên toà thì không nhất thiết phải lập thành biên bản. Ý chí chấm
dứt ủy quyền của một bên trong quan hệ ủy quyền được thể hiện trong biên bản
phiên tòa.
Ngoài ra, cần quy định ủy quyền trực tiếp và quy định thời hạn cụ thể cho việc ủy
quyền. Thực tế, có những trường hợp không phải ủy quyền trực tiếp 1 lần mà là ủy


quyền kế tiếp nhiều lần, ví dụ A ủy quyền cho B, sau đó B lại ủy quyền cho C…
Thực ra A có thể ủy quyền cho C nhưng trước đó phải chấm dứt uỷ quyền với B.
Việc quy định thời hạn chung cho việc ủy quyền nhằm thống nhất quyền và nghĩa
vụ của các chủ thể dân sự. Nhiều trường hợp, yếu tố thời gian trong ủy quyền mang
tính quyết định về quyền, nghĩa vụ của chủ thể.
4.Về quy định người đại diện của đương sự có quyền kháng cáo.
Thứ nhất: về phía người áp dụng, do chỉ đặt quy định của Điều 243 BLTTDS độc
lập và áp dụng quy định đó một cách riêng biệt việc áp dụng đã trở nên phiến diện
và mâu thuẫn về mặt lý luận. Hệ quả là người đại diện theo ủy quyền lại không
nhân danh người ủy quyền mà nhân danh chính mình thực hiện hành vi tố tụng
trước tòa án. Nếu chỉ viện dẫn riêng Điều 243 BLTTDS trong trường hợp này thì
luật sư không sai vì quy định người đại diện có quyền kháng cáo tại Điều 243 nói
trên cho phép được hiểu quyền đó dành cho tất cả những người đại diện.
Thứ hai: về quy định của điều luật, Điều 243 Bộ luật tố tụng dân sự quy định người
đại diện của đương sự có quyền kháng cáo dẫn đến có người hiểu quyền đó dành
cho tất cả những người đại diện, nhưng thực tế quyền này không quy định cho tất cả
những người đại diện mà chỉ đối với người đại diện theo pháp luật, đặc biệt cho

người đại diện quy định tại các khỏan 4; 5; 6 và 7 Điều 57 BLTTDS. Nếu đúng như
vậy thì quy định chưa chuẩn của điều luật đã gây sự hiểu lầm và tạo nên sự áp dụng
không thống nhất và không chính xác trong thực tiễn.
Để khắc phục những bất cập trong hoạt động tố tụng cần có những lưu ý sau:
Đối với những người đại diện theo uỷ quyền, khi sử dụng quyền kháng cáo, không
nên cho rằng quyền kháng cáo bản án, quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết
vụ án của toà án cấp sơ thẩm để yêu cầu toà án cấp trên trực tiếp giải quyết lại theo
thủ tục phúc thẩm là quyền trực tiếp của mình, mà quyền đó là quyền được đương
sự ủy quyền. Mọi hành vi tố tụng của luật sư đều phải nhân danh người ủy quyền


cho mình, nhân danh đương sự. Cần đặt quy định này trong tổng thể chung, trong
các điều luật có liên quan.
Đối với Tòa án, các Thẩm phán, khi nhận được đơn kháng cáo như nêu trên, cần áp
dụng quy định chung của pháp luật tại các Điều 244 và 246 Bộ luật tố tụng dân sự
để xác định tính không hợp lệ của đơn kháng cáo và không chấp nhận đơn.



×