Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Cầm giữ, bảo lưu quyền sở hữu có nên xếp vào biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự hay không

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.73 KB, 29 trang )

Cầm giữ, bảo lưu quyền sở hữu có nên xếp vào các biện pháp
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự hay không
Giao dịch dân sự là hoạt động tất yếu và phổ biến trong đời sống kinh tế, xã hội.
Nhằm mục đích đảm bảo và khắc phục rủi ro, vi phạm, bội ước và tranh chấp,
không đảm bảo được quyền lợi của người có quyền khi người vi phạm nghĩa vụ
không có khả năng tài sản để thực hiện nghĩa vụ, giao dịch đảm bảo đã được quy
định trong mục 5: Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự của phần thứ III trong BLDS
2005. Đồng thời nó còn tạo cho người có quyền trong các quan hệ nghĩa vụ có được
thế chủ động trong thực tế hưởng quyền dân sự.
Các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự không thể thiếu được trong các
hệ thống pháp luật. Pháp luật của chúng ta và các hệ thống pháp luật mà chúng tôi
biết chia các quy định về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự thành hai phần là phần
các quy định chung và phần những quy định cụ thể đối với từng loại biện pháp bảo
đảm. Điều 318 BLDS là điều luật đầu tiên về Biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự và có 02 khoản. Khoản 1 có nội dung là “các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự bao gồm: a) Cầm cố tài sản; b) Thế chấp tài sản; c) Đặt cọc; d) Ký
cược; đ) Ký quỹ; e) Bảo lãnh; g) Tín chấp” và khoản 2 có nội dung là “trong trường
hợp các bên có thoả thuận hoặc pháp luật có quy định về biện pháp bảo đảm thì
người có nghĩa vụ phải thực hiện.biện.pháp.bảo.đảm.đó”. Điều 318 nêu trên đưa ra
7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự và trong phần sau BLDS đưa ra quy
định cho từng biện pháp bảo đảm (cầm cố, thế chấp, đặt cọc, ký quỹ, ký cược, bảo
lãnh, tín chấp). Thuật ngữ “bao gồm” này theo hướng giới hạn các biện pháp bảo
đảm và do đó các bên không thể thỏa thuận biện pháp bảo đảm khác. Trong thực tế,
có trường hợp các bên thỏa thuận biện pháp bảo đảm không được BLDS dự liệu
nhưng Tòa án đã không chấp nhận như cầm giữ giấy tờ không là tài sản (giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, sở hữu nhà, đăng ký xe máy…) hay chuyển quyền sở hữu
tài sản nhằm đảm bảo thực hiện nghĩa vụ hoàn trả tiền vay.


Câu hỏi đặt ra là ngoài 07 biện pháp được quy định trong phần biện pháp bảo đảm
của BLDS, các bên có thể thỏa thuận tạo ra một biện pháp bảo đảm mới không?


Sau đây, nhóm chúng tôi xin đưa ra 1 số ý kiến bàn luận về “cầm giữ”, “bảo lưu
quyền sở hữu” có nên xếp vào “các biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ dân sự”
hay không?
2. Cầm giữ
2.1.Khái niệm cầm giữ
Trong các chế định được ghi nhận tại Bộ Luật Dân sự thì nghĩa vụ và hợp đồng là
chế định chiếm một vị trí quan trọng vì nó điều chỉnh chủ yếu các giao lưu dân sự
diễn ra trong cuộc sống hàng ngày. Để tồn tại và phát triển, thoả mãn các nhu cầu
vật chất và tinh thần của mình, các chủ thể quan hệ pháp luật đều chủ động tích cực
tham gia vào các quan hệ pháp luật dân sự mà hợp đồng là một trong những giao
dịch dân sự chủ yếu.
Khi tham gia xác lập hợp đồng để thoả mãn các nhu cầu vật chất và tinh thần, các
chủ thể thông thường thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình một cách tự giác,
nhưng cũng có trường hợp chủ thể nghĩa vụ không tự giác thực hiện đúng, đầy đủ
nghĩa vụ của mình trước chủ thể quyền. Điều này dẫn đến tình trạng quyền và lợi
ích hợp pháp của chủ thể quyền không được bảo đảm, thậm chí còn ảnh hưởng cả
đến lợi ích của Nhà nước, của cộng đồng, quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
khác. Bên cạnh đó, việc không thực hiện, thực hiện không đúng nghĩa vụ còn là
nhân tố kìm hãm sự phát triển giao lưu dân sự nói riêng cũng như kìm hãm sự phát
triển của xã hội nói chung.
Để bảo đảm cho quyền và lợi ích của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng được
thực hiện, Bộ Luật Dân sự Việt Nam 2005 đã bổ sung tại Mục 7 chương 17 phần
nghĩa vụ dân sự và hợp đồng dân sự. Các biện pháp bảo đảm này nhằm góp phần


bảo đảm cho các quyền và nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng được thực hiện,
nói cách khác đảm bảo cho các quan hệ hợp đồng được thực hiện đúng pháp luật và
đúng thỏa thuận. Đây chính là một trong những cơ sở để xây dựng một xã hội ổn
định và phát triển về mọi mặt...
Một trong những biện pháp bảo đảm mà Bộ Luật Dân sự ghi nhận là cầm giữ.

Cầm giữ tài sản (jus retentionnis) là một quyền năng theo đó bên có quyền được
nắm giữ tài sản chừng nào bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ của mình. Ở
Việt Nam, theo các nhà bình luận, “ Quyền cầm giữ tài sản trong hợp đồng song vụ
là quy định mới được đưa vào Bộ luật Dân sự 2005 so với quy định tại Bộ luật dân
sự 1995”.
Theo Khoản 1 Điều 416 Bộ luật Dân sự 2005: “Cầm giữ tài sản là việc bên có
quyền (sau đây gọi là bên cầm giữ) đang chiếm giữ hợp pháp tài sản là đối tượng
của hợp đồng song vụ được cầm giữ tài sản khi bên có nghĩa vụ không thực hiện
nghĩa vụ hoặc thực hiện nghĩa vụ không đúng theo thỏa thuận”.
Khi bên có quyền cầm giữ tài sản của bên có nghĩa vụ, bên có nghĩa vụ không có
khả năng khai thác và hưởng lợi từ tài sản này một cách trọn vẹn. Chính vì vậy mà
cầm giữ tài sản tạo được sức ép cho bên có nghĩa vụ: nếu bên có nghĩa vụ muốn
khai thác, hưởng lợi một cách đầy đủ tài sản của mình thì họ phải thực hiện đứng
nghĩa vụ của mình để bên cầm giữ giao tài sản.
Ví dụ như A là người sửa chữa xe máy, A được giữ chiếc xe mà mình đã sửa cho
đến khi người yêu cầu sửa xe thanh toán toàn bộ tiền sửa xe.
Đây là biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hoàn toàn mới trong BLDS 2005,
biện pháp này được áp dụng rộng rãi trong giao lưu dân sự kinh tế ở các nước và đã
từng được đề cập trong Luật dân sự La Mã. Hình thức bảo đảm mới này là hoàn
toàn phù hợp với yêu cầu thực tế.


Vì là một biện pháp bảo đảm mới cho nên chỉ qui định hết sức chung chung, chính
điều này có thể dẫn đến nhận thức không chính xác nội dung pháp lý của nó, cho
nên có thể sẽ có những nhầm lẫn tai hại trong việc áp dụng pháp luật.
2.2. Nội dung của cầm giữ.
2.2.1. Đặc điểm
Cầm giữ có ba đặc điểm cơ bản:
- Thứ nhất: Đây là một biện pháp bảo đảm duy nhất trong số các biện pháp bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ được áp dụng mà không dựa trên sự thoả thuận của các bên liên

quan. Vì đây là một biện pháp tự vệ trong quan hệ dân sự nhằm bảo vệ lợi ích chính
đáng của bên có quyền.Pháp luật là cơ sở trực tiếp phát sinh quyền được cầm giữ tài
sản, nếu như trước đó các bên không có thoả thuận không áp dụng biện pháp
này.Trong khi đó các biện pháp thế chấp, bảo lãnh, cầm cố chỉ áp dụng trong trường
hợp các bên có thoả thuận.Chính yếu tố này mà trong các tài liệu pháp luật nước
ngoài khi đề cập đến biện pháp này thường sử dụng thuật ngữ “quyền chiếm
giữ”.Cầm giữ tài sản là cách thức bảo đảm thực hiện nghĩa vụ là quyền được pháp
luật qui định của người có quyền trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện
nghĩa vụ.Song đây không là hình thức “xiết nợ” thường gặp trong thực tiễn.
Ví dụ:
Ngày 11/5/2013, A mang tivi đến cửa hàng của V để sửa chữa. Hai bên thỏa thuận 1
tuần sau là ngày 18/5 A sẽ đến lấy tivi và trả tiền sửa chữa. Đến hạn trên, A tới cửa
hàng của V để lấy tivi nhưng lại chưa có tiền để thanh toán. Trong trường hợp này,
ta nhận thấy: V có quyền cầm giữ tài sản của A là chiếc tivi cho đến khi A đến trả
hết tiền sửa chữa mặc dù trước đó A và V không hề thỏa thuận về việc này.


- Thứ hai: Quyền cầm giữ tài sản chỉ được thực hiện nếu đồng thời hội đủ ba yếu tố
sau:
a) Vật cầm giữ đang được bên có quyền nắm giữ nhưng vật ấy thuộc sở hữu của bên
có nghĩa vụ, tức bên cầm giữ có nghĩa vụ phải chuyển giao cho chủ sở hữu (cho bên
có nghĩa vụ) hoặc cho bên thứ ba theo chỉ định của chủ sở hữu.
b) Nghĩa vụ được bảo đảm phải là nghĩa vụ của người chủ sở hữu vật ấy và nghĩa
vụ ấy phải phát sinh trực tiếp từ vật ấy.
Ví dụ: nghĩa vụ trả chi phí chăm sóc, chi phí thức ăn trong trường hợp chăm sóc súc
vật nuôi, nếu như chủ sở hữu vật nuôi không chi trả chi phí này thì bên chăm sóc có
quyền chiếm giữ chính vật nuôi đó cho đến khi nào chủ sở hữu chi trả xong.
Những nghĩa vụ không phát sinh một cách trực tiếp từ vật cầm giữ thì bên có quyền
không được cầm giữ nó.
Ví dụ:

A mượn của B cái nồi cơm điện trong một ngày. Đến ngày hôm sau B sang đòi lại
nồi cơm, A không trả vì B còn nợ A 300 nghìn đồng và đòi B phải trả số tiền trên thì
A mới trả nồi. Yêu cầu trên của A là trái pháp luật về cầm giữ tài sản vì nghĩa vụ trả
tiền của B không phát sinh một cách trực tiếp từ chiếc nồi cơm điện nên A không
được cầm giữ nó.
Tuy nhiên pháp luật một số nước qui định rằng không áp dụng yêu cầu này nếu việc
chiếm giữ có liên quan đến các chủ thể là các chủ thể kinh doanh, ví dụ: doanh
nghiệp A mở tài khoản và nhận các dịch vụ tại Ngân hàng nhưng không thực hiện
việc chi trả các khoản tiền phí dịch vụ ngân hàng thì ngân hàng được được quyền
phong toả tài khoản cho đến khi nào khách hàng trả xong nợ.


c) Nghĩa vụ được bảo đảm bằng biện pháp cầm giữ tài sản chưa được thực hiện bởi
người có nghĩa vụ đúng hạn cam kết.
- Thứ ba: Chiếm giữ tài sản là một biện pháp có những nội dung pháp lý đồng nhất
với biện pháp cầm cố vì vậy các qui định về nghĩa vụ bảo quản tài sản trong cầm
giữ, xử lý tài sản để thực hiện nghĩa vụ chính… có thể dẩn chiếu sang các điều luật
tương tự trong phần cầm cố.
Ngoài ra, ta còn nhận thấy cầm giữ còn có một số đặc điểm thường thấy sau:
- Cầm giữ tài sản áp dụng thông dụng trong trường hợp bên có nghĩa vụ không thực
hiện các nghĩa vụ của mình trong các quan hệ hợp đồng: vận tải, gia công, thuê, ký
gửi, ủy thác, sửa chữa tàu biển…
- Về tài sản được cầm giữ: có một số loại tài sản thường không được phép cầm giữ
như một số loạitàisản dễ hư hỏng trong thời gian ngắn, cácloạitàisảnbiếnchất theo
thời gian, các loại tài sản phục vụ cho các việc cứu người khẩn cấp, công vụ khẩn
và đang trên đường thực hiện việc đó.
Ví dụ:
Ngày 23/5/2013, bệnh viện M mang một chiếc xe cứu thương đi bảo dưỡng tại cửa
hàng sửa chữa ô tô của anh N và hẹn ngày 28/5 sẽ đến lấy và thanh toán tiền. Đến
ngày đã hẹn người của bệnh viện M tới lấy chiếc xe để sử dụng ngay cho một ca

chở bệnh nhân đi cấp cứu cách đó 10km nhưng chưa có tiền thanh toán. Lúc này
anh N không thể lấy cớ bệnh viện M chưa thực hiện nghĩa vụ thanh toán tiền bảo
dưỡng xe để cầm giữ chiếc xe đó vì chiếc xe cần sử dụng để phục vụ ngay cho việc
khẩn cấp là cứu người.
- Người cầm giữ tài sản có vị thế rất mạnh trong quan hệ đối trọng với người có
nghĩa vụ và những người có quyền khác. Người cầm giữ tài sản chỉ phải giao tài sản


sau khi khoản nợ của mình được thanh toán hết. Nếu người có nghĩa vụ bán tài sản
thì người cầm giữ tài sản có quyền không giao tài sản cho người mua nếu khoản nợ
của mình chưa được thanh toán. Tương tự, nếu những người có quyền khác tiến
hành kê biên tài sản thì người cầm giữ tài sản có thể phản đối việc kê biên chừng
nào khoản nợ của mình chưa được thanh toán. Trong trường hợp phá sản doanh
nghiệp, người cầm giữ tài sản cũng được ưu tiên thanh toán trước các chủ nợ khác.
Như vậy, quyền cầm giữ tài sản là biện pháp được sử dụng để gây áp lực để người
cầm giữ tài sản được thanh toán trước các chủ nợ khác, kể cả chủ nợ có bảo đảm.
Ví dụ:
C nhờ P nuôi hộ 2 con lợn con và hứa sẽ trả tiền công chăm sóc và tiền thức ăn cho
P. Năm tháng sau, C bán 2 con lợn trên cho S nhưng C lại chưa trả tiền công chăm
sóc và tiền thức ăn cho P. Như vậy P có quyền giữ lại và không giao 2 con lợn trên
cho S cho đến khi P nhận được tiền công chăm sóc và tiền thức ăn.
- Quyền cầm giữ trao cho người cầm giữ quyền tuyệt đối chừng nào người đó còn
giữ tài sản. Điều đó có nghĩa là nếu người cầm giữ tài sản khởi xướng việc kê biên,
bán tài sản để thu hồi khoản nợ thì sẽ rơi vào một tình thế bất lợi vì lúc đó, sẽ không
được hưởng hàng ưu tiên cao hơn các chủ nợ có thế chấp, cầm cố khác.
2.2.2.Điều kiện áp dụng.
- Thứ nhất: đối tượng của quyền cầm giữ phải là tài sản là đối tượng của hợp đồng
song vụ.
Đối tượng của quyền cầm giữ trong bộ luật dân sự hiện nay là “tài sản” mà theo bộ
luật dân sự 2005: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản”

(điều 163), theo nghị định áp dụng bộ luật dân sự về phần biện pháp bảo đảm thì
“giấy tờ có giá bao gồm cổ phiếu, trái phiếu, hối phiếu, kỳ phiếu, chứng chỉ tiền


gửi, séc, giấy tờ có giá khác theo quy định của pháp luật, trị giá được thành tiền và
được phép giao dịch” (khoản 9, điều 3).
Suy ra, theo bộ luật dân sự hiện hành những gì không phải tài sản thì không thuộc
quyền cầm giữ.
Tuy nhiên, trong luật thương mại, phạm vi của đối tượng thuộc quyền cầm giữ rộng
hơn, điều 149 luật thương mại: “Trừ trường hợp có thỏa thuận khác, bên đại diện có
quyền cầm giữ tài sản, tài liệu được giao để bảo đảm việc thanh toán các khoản thù
lao và chi phí đã đến hạn”, điều 239 luật thương mại: “Thương nhân kinh doanh
dịch vụ logistics có quyền cầm giữ một số lượng hàng hóa nhất định và các chứng
từ liên quan đến số lượng hàng hóa để đòi tiền nợ đã đế hạn của khách hàng”.
Ví dụ thực tế: chủ cửa hàng xe máy Thanh Sang (bà Liên) và chủ cửa hàng xe máy
Đông Trang (ông Quang) ký hợp động mua bán xe gắn máy với nội dung, bà Liên
giao xe cho ông Quang, ông Quang bán được chiếc xe nào thì trả đủ tiền chiếc xe
đó. Một thời gian sau đôi bên có tranh chấp. Trong quá trình tố tụng, ông Quang
cho rằng bà Liên phải chịu trách nhiệm về việc bà Liên đã giữ 44 bộ đăng kiểm xe
là trái pháp luật. Tuy nhiên, theo bản án số 81/2009/DSST ngày 15-5-2009 của tòa
án nhân dân thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai, theo thỏa thuận của các bên thì “khi
ông Quang trả tiền xong chiếc xe nào thì bà Liên sẽ giao phiếu đăng kiểm chiếc xe
đó cho ông Quang, như vậy do ông Quang còn thiếu tiền bà Liên nên bà Liên giữ lại
phiếu đăng kiểm là đúng, không vi phạm pháp luật”.
Trong vụ việc trên, bà Liên đã giữ phiếu đăng kiểm xe máy để gây sức ép cho ông
Quang, chừng nào ông Quang chưa thanh toán tiền xe thì bà Liên chưa đưa giấy
đăng kiểm. Như vậy, đối tượng được cầm giữ không phải tài sản nhưng lại rất hiệu
quả đối với bên cầm giữ.
Quyền cầm giữ cũng chỉ giới hạn trong tài sản là đối tượng của hợp đồng song vụ,
và như vậy, những gì không phải đối tượng của hợp đồng song vụ thì không có khả



năng được cầm giữ. Chúng ta chưa có quy định nào về cầm giữ tài sản đối với quan
hệ song vụ không phải là quan hệ “hợp đồng song vụ”. Hiện chưa có quy định đối
với nghĩa vụ của cùng hai bên nhưng xuất phát từ hai hợp đồng khác nhau hay từ
một cơ sở pháp lý khác.
Ví dụ: A thực hiện công việc không có ủy quyền đối với một tài sản của B. Theo
luật hiện hành, B phải trả cho A một khoản tiền và A phải trả cho B tài sản vì tài sản
này là của B. Giữa A và B không có hợp đồng song vụ nhưng có quan hệ song vụ:
cả 2 đều có nghĩa vụ với nhau. Nếu chỉ áp dụng điều 416, bộ luật dân sự 2005 thì
khi B không trả tiền cho A, A sẽ không được cầm giữ tài sản của B, như vây, B sẽ
gặp bất lợi. Cũng tương tự, theo điều 243, bộ luật dân sự 2005: “Trong trường hợp
gia cầm của một người bị thất lạc, mà người khác bắt được thì người bắt phải thông
báo công khai để chủ sở hữu gia cầm biết mà nhận lại. Chủ sở hữu nhận lại gia cầm
bị thất lạc phải thanh toán tiền công nuôi giữ và các chi phí khác cho người bắt
được”. Vậy, nếu người có gia cầm bị thất lạc không thanh toán tiền công nuôi giữ
và chi phí khác thì bên bắt được có được quyền cầm giữ gia cầm không? Hiện nay
chúng ta không thể áp dụng trực tiếp điều 416 được vì các bên có quan hệ song vụ
nhưng không có hợp đồng song vụ.
Vì những lý do trên, chúng ta nên mở rộng cả quyền cầm giữ cho cả quan hệ song
vụ khác quan hệ hợp đồng. Để đạt được điều này, chúng ta có thể sử dụng kỹ thuật
“áp dụng tương tự pháp luật” được quy định tại điều 3, bộ luật dân sự.(Các biện
pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đúng hợp đồng trong pháp luật Việt
Nam, TS. Đỗ Văn Đại, NXB chính trị quốc gia)
- Thứ hai: Tài sản cầm giữ đang được bên có quyền nắm giữ hợp pháp (đang kiểm
soát, quản lý tài sản đó được sự cho phép của chủ sở hữu) nhưng tài sản ấy thuộc sở
hữu của bên có nghĩa vụ, tức bên cầm giữ có nghĩa vụ phải chuyển giao cho chủ sở
hữu (cho bên có nghĩa vụ) hoặc cho bên thứ ba theo chỉ định của chủ sở hữu.



- Thứ ba: Nghĩa vụ được bảo đảm phải là nghĩa vụ của người chủ sở hữu tài sản và
nghĩa vụ ấy phải phát sinh trực tiếp từ tài sản ấy.Những nghĩa vụ không phát sinh
một cách trực tiếp từ tài sản cầm giữ thì bên có quyền không được cầm giữ nó.
Tuy nhiên pháp luật một số nước qui định rằng không áp dụng yêu cầu này nếu việc
chiếm giữ có liên quan đến các chủ thể là các chủ thể kinh doanh, ví dụ: doanh
nghiệp A mở tài khoản và nhận các dịch vụ tại Ngân hàng nhưng không thực hiện
việc chi trả các khoản tiền phí dịch vụ ngân hàng thì ngân hàng được quyền phong
toả tài khoản cho đến khi nào khách hàng trả xong nợ.
- Thứ tư: Nghĩa vụ được bảo đảm bằng biện pháp cầm giữ tài sản chưa được thực
hiện bởi người có nghĩa vụ đúng hạn cam kết.
- Ví dụ:
T thuê H chở một lô hàng quần áo mà T đặt mua ở cửa khẩu Tân Thanh (Lạng Sơn)
đến cửa hàng của T ở Hà Nội. Khi H chuyển số hàng trên đến nơi thì T chưa có tiền
để thanh toán phí vận chuyển cho H.
Ta thấy ở tình huống trên:
H đang nắm giữ lô quần áo mà H có nghĩa vụ chuyển cho T.
Lô quần áo trên thuộc sở hữu của T và T có nghĩa vụ phải trả tiền vận chuyển số
quần áo đó từ Lạng Sơn đến Hà Nội cho H.
Tuy nhiên T lại chưa có tiền để trả phí vận chuyển đó cho H.
Như vậy trong tình huống này, H có quyền cầm giữ lô quần áo cho tới khi T trả tiền.
2.2.3. Quyền và nghĩa vụ của các bên.


Bên cầm giữ có quyền và nghĩa vụ:
- Cầm giữ toàn bộ hoặc một phần tài sản.
- Thu hoa lợi từ tài sản cầm giữ và được dùng để bù trừ nghĩa vụ. Tuy nhiên, bên
cầm giữ không được bán, trao đổi, tặng cho, cho thuê, cho mượn tài sản cầm giữ.
Theo quy định của bộ luật dân sự hiện hành thì ngoài việc được thu hoa lợi từ tài
sản cầm giữ dùng để bù trừ nghĩa vụ thì bên cầm giữ không có quyền định đoạt tài
sản cầm giữ. Tuy nhiên, trong luật thương mại, ở một số trường hợp, bên cầm giữ

có quyền định đoạt đối với hàng hóa: khoản 2, điều 239 luật thương mại có ghi
nhận, “Sau thời hạn bốn mươi lăm ngày kể từ ngày thông báo cầm giữ hàng hóa
hoặc chứng từ liên quan đến hàng hóa, nếu khách hàng không trả tiền nợ thì thương
nhân kinh doanh dịch vụ logistics có quyền định đoạt hàng hóa ngay khi có bất kỳ
khoản nợ đến hạn nào của khách hàng”. Do đó, để đảm bảo quyền lợi của bên cầm
giữ khi bên có nghĩa vụ quá chậm trong việc hoàn thành nghĩa vụ thì luật dân sự
nên cho phép bên có quyền cầm giữ định đoạt tài sản, đặc biệt đối với tài sản có dấu
hiệu bị hư hỏng.
- Bảo quản giữ gìn tài sản cầm giữ, nếu làm mất hoặc hư hỏng tài sản cầm giữ thì
phải bồi thường thiệt hại cho chủ sở hữu.
- Yêu cầu bên có tài sản bị cầm giữ thanh toán các chi phí cần thiết cho việc bảo
quản.
- Trả lại tài sản cầm giữ khi bên có tài sản bị cầm giữ hoàn thành nghĩa vụ.
Bên có tài sản bị cầm giữ có quyền và nghĩa vụ:


- Không được phản đối việc giữ lại tài sản thuộc sở hữu của mình của bên có quyền
cầm giữ.
- Được bồi thường thiệt hại nếu bên cầm giữ tài sản làm mất, hư hỏng tài sản của
mình.
- Phải trả cho bên cầm giữ khoản chi phí cho việc bảo quản tài sản của mình trong
quá trình tài sản bị cầm giữ.
- Được yêu cầu bên cầm giữ tài sản trả lại tài sản sau khi đã hoàn thành xong nghĩa
vụ với bên cầm giữ.
Ví dụ:
Công ty sửa chữa tàu biển Đông Hải nhận sửa chữa 10 chiếc tàu đánh cá của công
ty đánh bắt hải sản Đại Ngư. Theo hợp đồng, công ty Đông Hải sẽ sửa chữa 10
chiếc tàu trong 2 tháng với giá 3 triệu đồng/1 chiếc tàu. Đến ngày hẹn giao tàu,
công ty Đại Ngư chỉ có đủ tiền trả cho 5 chiếc tàu là 15 triệu đồng.
Phân tích quyền và nghĩa vụ của 2 công ty trong ví dụ trên:

Quyền và nghĩa vụ của công ty Đông Hải:
- Giữ lại 5 chiếc tàu trong số 10 chiếc tàu mà công ty Đại Ngư chưa có tiền để thanh
toán.
- Bảo quản, giữ gìn 5 chiếc tàu, không được để 5 chiếc tàu bị hỏng hóc, mất mát.
Nếu làm mất hoặc hư hỏng thì phải sửa chữa, bồi thường tương ứng cho công ty
Đại Ngư.


- Trong quá trình cầm giữ, nếu phải bỏ chi phí cho việc bảo quản thì khi công ty Đại
Ngư thực hiện nốt nghĩa vụ thanh toán thì có thể yêu cầu công ty này thanh toán cả
khoản chi phí bảo quản trên.
- Không được bán, trao đổi, tặng cho, cho thuê, cho mượn 5 chiếc tàu.
- Trả lại 5 chiếc tàu khi công ty Đại Ngư hoàn thành xong việc trả tiền 5 chiếc tàu.
Quyền và nghĩa vụ của công ty Đại Ngư:
- Chấp nhận để công ty Đông Hải giữ lại 5 chiếc tàu mà mình chưa có tiền để thanh
toán cho việc sửa chữa.
- Nếu công ty Đông Hải làm mất, hư hỏng 5 chiếc tàu trên thì được bồi thường thiệt
hại.
- Nếu công ty Đông Hải phải bỏ cho phí cho việc bảo quản 5 chiếc tàu thì phải
thanh toán chi phí trên cho công ty Đông Hải.
- Được trả lại 5 chiếc tàu sau khi đã hoàn thành xong nghĩa vụ thanh toán với công
ty Đông Hải.
2.3.Chấm dứt cầm giữ.
Quyền cầm giữ chấm dứt trong các trường hợp sau đây:
- Theo thỏa thuận của các bên: tức là bên cầm giữ đồng ý trả tài sản mà mình đang
cầm giữ cho bên có nghĩa vụ.
Để đạt được thỏa thuận này có thể xuất phát từ sự tin cậy giữa hai bên giao kết hợp
đồng hoặc bên có nghĩa vụ phải đáp ứng các điều kiện khác do hai bên thỏa thuận.



- Bên cầm giữ vi phạm nghĩa vụ bảo quản, giữ gìn tài sản cầm giữ.
Xuất phát từ tài sản cầm giữ chính là đối tượng của hợp đồng, bên cầm giữ có nghĩa
vụ giao tài sản này cho bên bị cầm giữ nếu bên bị cầm giữ không vi phạm hợp
đồng, nên khi thực hiện quyền cầm giữ, nếu bên cầm giữ vi phạm nghĩa vụ bảo
quản, giữ gìn tài sản cầm giữ sẽ là một trong các trong các trường hợp chấm dứt
quyền cầm giữ của bên có quyền.
Trong BLDS năm 2005 không nêu rõ giải quyết trong trường hợp vi phạm nghĩa vụ
bảo quản cầm giữ này ra sao.
Do đó, nếu quyền cầm giữ không còn thì bên cầm giữ phải giao tài sản lại cho bên
bị cầm giữ tài sản, mỗi bên đều phải chịu sự trách nhiệm của mình theo hợp đồng
đã kí kết hoặc theo quy định của pháp luật.
- Bên có tài sản bị cầm giữ hoàn thành nghĩa vụ.
Khi bên có tài sản cầm giữ hoàn thành nghĩa vụ theo hợp đồng thì chấm dứt quyền
cầm giữ của bên có quyền, vì lúc này điều kiện phát sinh quyền cầm giữ đã không
còn.
Ví dụ:
L mang đến cửa hàng kim hoàn của anh K một viên đá quý yêu cầu anh K chế tác
nó thành một chiếc nhẫn hình trái tim. Hai bên thoả thuận một tháng sau, anh K
giao hàng còn L thanh toán tiền công. Đến ngày hẹn, anh K mang chiếc nhẫn hình
trái tim đã được chế tác từ viên đá quý đến nhà L, tuy nhiên L lại chưa có tiền trả
cho K. Vì vậy, K đã giữ lại chiếc nhẫn.


Trong tình huống trên, quyền cầm giữ chiếc nhẫn của K sẽ chấm dứt khi một trong
những trường hợp sau xảy ra:
- Khi L và K có thỏa thuận với nhau là K giao chiếc nhẫn cho L và L sẽ trả tiền sau
dựa trên sự tin tưởng của 2 bên với nhau.
- Trong lúc cầm giữ K đã làm hư hỏng chiếc nhẫn của L.
- L đã trả tiền chế tác cho K.
2.4. So sánh với cầm cố

- Giống nhau: đều có mục đích đảm bảo cho nghĩa vụ được thực hiện đúng.
- Khác nhau:
Nội dung Cầm giữ Cầm cố
Thờiđiểm phát sinh Sau khi nghĩa vụ không được thực hiện hoặc thực hiện không
đúng Trước hoặc ngay từ khi giao kết hợp đồng, thờiđiểm nghĩa vụ không được
thực hiện hoặc thực hiện không đúng thì tài sản cầm cố đượcđưa ra xử lý
Cơ sở phát sinh Pháp luật quy định Theo thỏa thuận của các bên tham gia nghĩa vụ
Tài sản cầm cố hoặc cầm giữ -Chính là đối tượng của hợp đồng song vụ.
- Bên có quyền có thể tự mình cầm giữ hoặc giao cho người thứ ba mà không cần
sự thỏa thuận của bên bị cầm giữ tài sản.
- Bên cầm giữ không có quyền xử lý tài sản cầm giữ, được thu hoa lợi và lợi tức từ
tài sản cầm giữ; được dùng số hoa lợi, lợi tức này để bù trừ nghĩa vụ. - Là tài sản
thuộc sở hữu của bên cầm cố hoặc tài sản được hình thành trong tương lai.
- Các bên thỏa thuận bên cầm cố hoặc người thứ ba giữ tài sản cầm cố.


- Bên nhận cầm cố tài sản có quyền xử lý tài sản cầm cố theo phương thứcđã thỏa
thuận, không được hưởng hoa lợi, lợi tức từ tài sản cầm cố nếu không được bên cầm
cố đồngý.
Số lượng Điều luật trong BLDS
Một điều luật (Điều 416). 16 điều luật (từĐiều 326 đếnĐiều 341).
Ví Dụ
A thiếu tiền ăn chơi nên đã vay tiền B hẹn 1 tuần trả. 1 tuần sau A chưa trả, A và B
thỏa thuận B giữ chiếc đồng hồ của B cho đến khi A trả hết nợ. A thiếu tiền ăn chơi
nên đã đến tiệm cầm đồ và cầm cố chiếc xe máy của mình ở lại tiệm với giá X đồng
và hẹn 1 tuần sau sẽ quay lại chuộc xe.
2.5. So sánh với Nhật Bản
Trong quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ luật Dân sự Việt Nam năm 2005, một trong
những vấn đề quan trọng, có nhiều ý kiến khác nhau đó là cơ chế pháp lý giữa chủ
nợ có bảo đảm trong vật quyền bảo đảm pháp định với chủ nợ có bảo đảm trong vật

quyền bảo đảm ước định. Trên cơ sở tham khảo kinh nghiệm của Nhật Bản (đất
nước có quy định về vật quyền bảo đảm pháp định để hạn chế các quy định có thể
dẫn đến bất bình đẳng giữa các chủ nợ có bảo đảm).
- Giống nhau:
+ Biện pháp bảo đảm do pháp luật quy định.
+ Mục đích bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
+ Người cầm giữ có vị thế rất mạnh trong quan hệ cầm giữ
- Khác nhau
Nội dung Việt Nam Nhật Bản


Điều kiện áp dụng Sau khi nghĩa vụ không được thực hiện hoặc thực hiện không
đúng -Người có trái quyền phải đang chiếm hữu vật bị cầm giữ.
- Trái quyền được bảođảm phải đến hạn thanh toán.
- Giữa trái quyền và đối tượng của trái quyền (vật) phải có quan hệ khăng khít
Quyền các bên Bên cầm giữ không có quyền xử lý tài sản cầm giữ, được thu hoa lợi
và lợi tức từ tài sản cầm giữ; được dùng số hoa lợi, lợi tức này để bù trừ nghĩa vụ.
Thừa nhận quyền chiếm hữu tài sản của bên có quyền, nhưng không công nhận
quyền ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản (nghĩa là bên có quyền cầm giữ không
đương nhiên được bán tài sản để thanh toán cho trái quyền).
Tài sản cầm giữ
Chính là đối tượng của hợp đồng song vụ. Không phải chuyển quyền sở hữu
Bắt buộc phải thuộc quyền sở hữu của bên có nghĩa vụ hay có thể thuộc sở hữu của
người khác, nhất là trong quan hệ giữa các thương nhân).
Tính chất trái quyền vật quyền
2.6. Đánh giá
Nói tới “Chiếm giữ hợp pháp tài sản là đối tượng của Hợp đồng song vụ được cầm
giữ tài sản”, ta có thể hiểu như sau :
Hợp đồng song vụ được cầm giữ tài sản là dạng hợp đồng song vụ có yếu tố: Bên
có quyền được “chiếm giữ” một tài sản nào đó nhằm bảo đảm việc thực hiện nghĩa

vụ của bên có nghĩa vụ .


Do đó, trước khi giao kết hợp đồng, các bên sẽ phải nhất trí chọn ra một món tài sản
để làm vật bảo đảm. Cho đến khi bên kia không thực hiện hoặc không thực hiện
đúng nghĩa vụ, bên có quyền sẽ được chiếm giữ món tài sản bảo đó. Vật bảo đảm
đó chính là đối tượng của hợp đồng song vụ được cầm giữ tài sản
Ta có thể xét đến một số văn bản trên thế giới về cầm giữa như:
- CÔNG ƯỚC QUỐC TẾ VỀ QUYỀN CẦM GIỮ VÀ CẦM CỐ HÀNG HẢI 1993
(Tổ chức tại Palais des Nations, Geneva, từ 19 tháng 4 đến 6 tháng 5 năm 1993),
theo đó quyền cầm giữ hàng chỉ được thực hiện khi:
- Món nợ phải là tiền cước, phí hay những khoản tiền khác của chính lô hàng đang
trở trên tàu.
- Cầm giữ hàng đang trên tàu hoặc hàng đã dỡ xuống kho cảng nhưng vẫn còn nằm
trong sự kiểm soát của người chuyên chở. Những trường hợp nằm ngoài 2 điều kiện
kể trên chủ tàu không được áp dụng điều khoản cầm giữ hàng cho dù hợp đồng hay
vận đơn có đề cập đến điều khoản cầm giữ hàng hay không.
- Ở một số nước, quyền cầm hàng hóa không được hệ thống pháp luật công nhận và
cho phép, ví dụ như ở những nước mà việc nhập khẩu hàng hóa đều do Chính phủ
hoặc những cơ quan dịch vụ của Chính phủ đảm nhận. Ở những nước này, hàng hóa
là thuộc sở hữu của Nhà nước, chủ tàu khó thực hiện được quyền cầm giữ hàng hóa.
Còn ở Việt Nam, ngày 22 tháng 2 năm 2012, Chính phủ đã ban hành Nghị định
11/2012/NĐ-CP có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10 tháng 4 năm 2012 về sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006
hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật dân sự về giao dịch bảo đảm (các điều
từ 318 đến 373).


Quyền cầm giữ tài sản có phạm vi khá hẹp vì chỉ phát sinh trong quan hệ hợp đồng
song vụ và chưa được coi là một biện pháp bảo đảm (điều 416 Bộ luật Dân sự). Tuy

vậy, Nghị định mới đã cải thiện đáng kể vị thế của bên cầm giữ khi quy định bên
cầm giữ chỉ phải giao tài sản mà mình đang cầm giữ cho bên nhận thế chấp để xử lý
sau khi bên nhận thế chấp hoặc bên có nghĩa vụ đã hoàn thành nghĩa vụ đối với bên
cầm giữ (điều 21, Nghị định 163). Như vậy, chừng nào bên cầm giữ tài sản còn
chưa được thanh toán thì bên này vẫn có quyền cầm giữ tài sản. Duy chỉ có điều
Nghị định mới không nói rõ nguyên tắc này có được áp dụng hay không trong
trường hợp bên thế chấp tài sản cầm giữ lâm vào tình trạng phá sản. Nếu thừa nhận
bên cầm giữ tiếp tục được thực hiện quyền cầm giữ trong trường hợp này sẽ tăng
cường hiệu quả của biện pháp cầm giữ tài sản.
3. Bảo lưu quyền sở hữu
Anh A mua một chiếc xe máy giá 33 triệu đồng tại cửa hàng X, tuy nhiên anh A
không trả một lần mà trả tiền cho cửa hàng X dưới hình thức trả góp. Lúc này việc
mua xe của anh A là hình thức bảo lưu quyền sở hữu.
3.1. Khái niệm
Bảo lưu là “Giữ lại ý kiến riêng của mình khác với ý kiến của đa số nghị quyết để
tiếp tục làm sang tỏ sự đúng, sai trong những lần sau.Bảo lưu là cách tránh sự áp đặt
ý kiến vẫn phải phục tùng tuyệt đối và hành động theo quyết định của tập thể và
không được chống lại.”
“Pháp nhân khi tham gia hoặc kí kết một điều ước tổ chức tuyên bố không chấp
nhận một số điều khoản nhất định, không chịu ràng buộc về mặt pháp lý bởi nội
dung một số điều khoản của điều ước ấy.”
“Quyền sở hữu”: là quyền dân sự, bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và
quyền định đoạt tài sản của chủ sở hữu theo quy định của pháp luật.


“Quyền sở hữu tài sản”: quyền sở hữu tài sản hữu hình là quyền đầy đủ nhất đối với
tài sản vì người chủ tài sản có 3 quyền: quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền
định đoạt. 2.Các hình thức sở hữu gồm sở hữu toàn dân , sở hữu của tổ chức chính
trị, tổ chức chính trị-xã hội, sở hữa tập thể, tư nhân, tổ chức xã hội, tổ chức nghề
nghiệp, sở hữu hỗn hợp, sở hữu chung. 3. Chủ sở hữu có thể là : cá nhân, pháp nhân

và các chủ thể khác có ba quyền nói trên
Trong Bộ luật dân sự 2005 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ được đề cập đến
trong điều 461 Mua trả chậm, trả dần như một trường hợp riêng của hợp đồng mua
bán tài sản, dạng hợp đồng này được giao kết với điều kiện trì hoãn, bảo lưu quyền
sở hữu của các bên đối với tài sản đã bán. Vậy đây là cơ sở pháp lý trọng tâm mà từ
điều luật này chúng ta có thể xem xét một cách toàn diện vấn đề Bảo lưu quyền sở
hữu là một hình thức bảo đảm thực hiện nghĩa vụ chính thức, chứ không phải là một
hình thức đặc biệt, một trường hợp đơn giản bằng một điều luật của hợp đồng mua
bán tài sản.
Có thể hiểu mua trả chậm là việc bên mua sẽ trả toàn bộ tiền cho bên bán sau một
thời gian nhất định sau khi giao kết hợp đồng và mua bán tài sản. Còn mua trả dần
là phương thức thanh toán nhiều lần( sô tiền trả trong một lần và thời ginan được trả
dần theo thỏa thuận của các bên) mặc dù tài sản mua bán được chuyển giao ngay
cho người mua ngay sau khi kí kết hợp đồng mua bán.
3.2. Nội dung bảo lưu quyền sở hữu
3.2.1. Đặc điểm
• Bên mua đã nhận vật nhưng quyền sở hữu vật vẫn thuộc bên bán. Lúc này việc
mua bán vẫn chưa làm phát sinh quyền sở hữu với người mua mà chỉ xảy ra khi bên
mua đã đồng ý lấy vật và thực hiện xong nghĩa vụ.


• Khi nhận được tài sản mua bán và có quyền đưa tài sản vào khai thác công dụng,
còn bên bán vẫn được sở hữu tài sản.
• Theo đó bên bán có thể bán được tài sản, còn bên mua có cơ hội có được tài sản
mà mình mong muốn khi họ chưa thể đủ tiền mua ngay.
• Khác với các biện pháp đảm bảo thực hiện nghĩa vụ khác (cầm cố, thế chấp, đặt
cọc, ký cược, kỹ quỹ, bảo lãnh, tín chấp, cầm giữ) bên nhận vật lại là bên có nghĩa
vụ phải thực hiện công việc, hành vi nào đó.
Việc quy định vấn đề bảo lưu quyền sở hữu nhằm giúp cho bên mua khi nhận được
tài sản họ phải sử dụng tài sản một cách có hiệu quả, có ý thức bảo vệ tài sản và có

trách nhiệm thanh toán tiền cho bên bán khi đến hạn. Còn bên bán được quyền ưu
tiên thanh toán khi mà bên mua có rủi ro, đảm bảo quyền lợi cho bên bán có thể
nhận được đầy đủ giá trị tài sản khi giao tài sản cho bên mua.
3.2.2. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong bảo lưu quyền sở hữu.
Ngoài quyền và nghĩa vụ chung của các bên trong việc giao kết và thực hiện hợp
đồng, tuân thủ các quy định chung về hợp đồng mua bán tài sản, thì các bên trong
hợp đồng co quyền và nghĩa vụ cụ thể sau đây:
• Bên mua
- Có nghĩa vụ thanh toán đúng theo thỏa thuận (trả tiền đủ, đúng hạn). Ngoài ra còn
phải chịu rủi ro khi sử dụng sản phẩm.
- Bên mua có quyền sử dụng khai thác công dụng của tài sản là đối tượng mua bán.
• Bên bán


- Có quyền đòi lại tài sản đã bán nếu bên mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán (như
không trả tiền, trả tiền không đầy đủ, trả tiền không đúng hạn…). bên bán còn
quyền sở hữu với tài sản.
Như vậy, trong biện pháp bảo lưu quyền sở hữu bên bán là bên nhận bảo đảm vì
thông qua biện pháp này bên bán được bảo đảm là chắc chắn sẽ bán được hàng cho
bên mua, chắc chắn giao dịch mua bán sẽ được diễn ra, sự trì hoãn quyền bảo lưu
của bên bán đối với tài sản là đối tượng mua bán để đảm bảo cho người bán bán
được hàng và thu được đúng số tiền mà bên mua phải trả. Trong khi đó bên bảo
đảm là bên mua, biện pháp bảo lưu quyền sở hữu vẫn làm cho bên bảo đảm tuy
chưa chính thức trở thành chủ sở hữu tài sản bảo đảm nhưng được giữ tài sản và
khai thác công dụng của tài sản đó, và nghĩa vụ trả tiền thuộc về bên bảo đảm, rủi ro
trong thời gian sử dụng đối tượng bảo đảm thuộc về bên bảo đảm.
3.2.3. Phương thức thực hiện
Hợp đồng mua trả chậm trả dần phải được lập thành văn bản với hình thức được
quy định chặt chẽ. Do việc thực hiện nghĩa vụ của các bên không phát sinh và chấm
dứt ngay mà đó là cả một quá trình rất phức tạp dễ xảy ra tranh chấp.

Hợp đồng ngoài quy dịnh về đối tượng, giá cả, thời gian chậm thanh toán, các bên
phải thỏa thuận về hậu quả pháp lý khi bên mua vi phạm nghĩa vụ với bên bán.
Đối tượng thường là những tài sản có đăng ký quyền sở hữu (như ô tô, xe máy,
nhà…).
Bên bán chọn một trong hai phương thức: không tạo điều kiện để bên mua làm thủ
tục đăng ký quyền sở hữu hoặc cùng bên mua làm thủ tục đăng ký quyền sở hữu tài
sản cho bên mua nhưng bên bán giữ lại bản gốc.
3.2.4. Yêu cầu về hình thức của hợp đồng mua trả chậm, trả dần


• Theo Khoản 2 Điều 461:
"Hợp đồng mua trả chậm hoặc trả dần phải được lập thành văn bản. Bên mua có
quyền sử dụng vật mua trả chậm, trả dần và phải chịu rủi ro trong thời gian sử dụng,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác".
Do đó, Hợp đồng mua trả chậm, trả dần phải được lập thành văn bản. Quy định hình
thức chặt chẽ cho hợp đồng mua bán tài sản trả chậm, trả dần xuất phát từ cơ sở:
trong hình thức mua bán này, việc thực hiện nghĩa vụ của các bên không phát sinh
và chấm dứt ngay mà là cả một quá trình.
Theo thông tư số 04/2007/TT- BTP ngày 17/05/2007 Bộ Tư pháp hướng dẫn về
thẩm quyền, trình tự và thủ tục đăng ký, cung cấp thông tin về hợp đồng mua trả
chậm, trả dần có bảo lưu quyền sở hữu của bên bán, hợp đồng thuê tài sản, hợp
đồng cho thuê tài chính và hợp đồng chuyển giao quyền đòi nợ .
Việc hợp đồng mua trả chậm, trả dần được thành lập bằng văn bản như vậy sẽ giúp
cho bên bán dễ thực hiện quyền yêu cầu của mình, nâng cao trách nhiệm của bên
mua đối với việc thực hiện nghĩa vụ đã cam kết
Giá trị của đăng ký đối với các bên. “Đăng ký giao dịch bảo đảm là việc cơ quan
đăng ký giao dịch bảo đảm ghi vào Sổ đăng ký giao dịch bảo đảm hoặc nhập vào
Cơ sở dữ liệu về giao dịch bảo đảm việc bên bảo đảm dùng tài sản để bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo đảm” (khoản 1 Điều 2 Nghị định số 83
năm 2010).

Trong thực tế chúng ta gặp không hiếm trường hợp biện pháp bảo đảm không được
đăng ký và, khi có tranh chấp giữa bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm (không có
tranh chấp với người thứ ba), câu hỏi đặt ra là giao dịch bảo đảm không đăng ký có
giá trị pháp lý không?


Điều 13. Nghị định 163/CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 về giao dịch bảo đảm
“ Điều 13. Trường hợp tài sản bảo đảm không thuộc sở hữu của bên bảo đảm
1. Trong trường hợp bên bảo đảm dùng tài sản không thuộc sở hữu của mình để bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự thì chủ sở hữu có quyền đòi lại tài sản theo quy định
tại các Điều 256, 257 và 258 Bộ luật Dân sự và khoản 2 Điều này.
2. Trong trường hợp tài sản bảo đảm là tài sản mua trả chậm, trả dần, tài sản thuê có
thời hạn từ một năm trở lên của doanh nghiệp, cá nhân có đăng ký kinh doanh gồm
máy móc, thiết bị hoặc động sản khác không thuộc diện phải đăng ký quyền sở hữu
và hợp đồng mua trả chậm, trả dần, hợp đồng thuê được đăng ký tại cơ quan đăng
ký giao dịch bảo đảm có thẩm quyền trong thời hạn mười lăm ngày, kể từ ngày giao
kết hợp đồng mua trả chậm, trả dần, hợp đồng thuê thì bên bán có bảo lưu quyền sở
hữu, bên cho thuê có thứ tự ưu tiên thanh toán cao nhất khi xử lý tài sản bảo đảm;
nếu không đăng ký hoặc đăng ký sau thời hạn trên và sau thời điểm giao dịch bảo
đảm đã đăng ký thì bên nhận bảo đảm được coi là bên nhận bảo đảm ngay tình và
có thứ tự ưu tiên thanh toán cao nhất khi xử lý tài sản bảo đảm.
3. Tổ chức, cá nhân nhận bảo đảm bằng tài sản mua trả chậm, trả dần, tài sản thuê
sau thời điểm đăng ký hợp đồng mua trả chậm, trả dần, hợp đồng thuê không được
coi là bên nhận bảo đảm ngay tình”
3.3. So sánh mua trả chậm, trả dần và mua sau khi sử dụng
Tiêu chí Mua sau khi sử dụng thử (Điều 460) Mua trả chậm, trả dần (Điều 461)
Khái niệm Mua sau khi sử dụng thử là việc sau khi sử dụng thử bên mua quyết
định mua vật. -Trả chậm là việc thanh toán một lần nhưng không phải là thanh toán



ngay.(Bên mua sẽ trả tiền một thời gian nhất định sau khi giao kết hợp đồng và nhận
tài sản).
- Mua trả dần là thanh toán nhiều lần mặc dù tài sản mua bán được chuyển giao
ngay cho người bán sau khi kí hợp đồng mua bán. (Bên mua trả thành nhiều lần và
số tiền trả trong một lần do thỏa thuận các bên).
Hình thức hợp đồng Có thể hợp đồng hoặc không có Có hợp đồng bằng văn bản
Quyền các bên
Trong thời hạn dùng thử, vật vẫn thuộc quyền sở hữu của bên bán. Bên mua có
quyền sử dụng, khai thác công dụng của tài sản
Bên bán có quyền đòi lại tài sản đã bán nếu bên mua vi phạm nghĩa vụ thanh toán
(như không trả tiền, trả tiền không đầy đủ, trả tiền không đúng hạn…). bên bán còn
quyền sở hữu với tài sản.
Nghĩa vụ Bên bán phải chịu mọi rủi ro xảy ra đối với vật nếu không có thỏa thuận
khác, không được bán, tặng cho, cho thuê, trao đổi, thế chấp, cầm cố tài sản khi bên
mua chưa trả lời
Bên mua nếu không mua thì phải trả lại vật cho bên bán và bồi thường thiệt hại nếu
làm mất mát, hư hỏng vật dùng thử Bên mua có nghĩa vụ thanh toán theo thỏa thuận
và phải chịu rủi ro trong thời gian sử dụng trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
Hiệu lực sau khi giao kết Chưa phát sinh hiệu lực mà còn phải chờ sự trả lời chấp
nhận hay không chấp nhận mua sau một thời gian dùng thử của bên mua. Phát sinh
hiệu lực ngay khi chấp nhận mua vật.
3.4. Thực tế áp dụng


×