Tải bản đầy đủ (.docx) (94 trang)

Tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế của Việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (568.08 KB, 94 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trước tiên tác giả xin bày tỏ sự biết ơn sâu sắc tới cô giáo Trần Minh Nguyệt
về sự hướng dẫn nhiệt tình và những ý kiến đóng góp của cô để khóa luận hoàn
thành tốt hơn.
Tác giả xin trân thành cảm ơn sự hỗ trợ nhiệt tình trong quá trình tìm tài liệu
thu thập thông tin, bảng câu hỏi, phỏng vấn… của cacác kiểm toán viên ở các tập
đoàn dầu khí Việt Nam, tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam, tập đoàn tài chính
Bảo Việt, tập đoàn cao su Việt Nam, tập đoàn công ngiệp than khoáng sản Việt Nam
. Xin cảm ơn các kiểm toán viên nhà nước, và quản lý các công ty kiểm toán, các dự
án kinh tế đã hỗ trợ tìm kiếm tài liệu cũng như góp ý cho tác giả sửa chữa khóa luận.
Xin cảm ơn trường Đại học Tài Nguyên và Môi Trường Hà Nội, khoa kinh tế
tài nguyên và môi trường dã tạo điều kiện thuận lợi trong suốt quá trình làm luận án.
Sinh viên
Phùng Thị Mai Hương

1


MỤC LỤC

2


DANH MỤC BẢNG

DANH MỤC SƠ ĐỒ

3


MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài:

Việt Nam bước vào thời kỳ hội nhập với rất nhiều sự thay đổi, các oanh
nghiệp đã có sự thay đổi lớn về quy mô và đa dạng hóa phương thức hoạt động. Quy
mô lớn cộng với phương thức kinh doanh đa dạng thì hoạt động kiểm tra kiểm soát
càng trở nên cần thiết. Ngoài việc thuê các dịch vụ kiêm toán bên ngoài để đảm bảo
tính chính xác và độ tin cậy của báo cáo tài chính thì việc thành lập một tổ chức kiểm
soát nội bộ trong doanh nghiệp cũng là cách thức hiệu quả nhất để kiểm soát, kiểm
tra các hoạt động của doanh nghiệp.Các nhà quản lý càng cần một bộ máy hỗ trợ
cho các hoạt động kiểm tra, quản lý nhằm tăng cường hiệu quả và hiệu năng của hoạt
động quản lý. Kiểm soát nội bộ được hình thành mang tính khách quan nhằm đáp
ứng nhu cầu của nhà quản lý trong môi trường kinh doanh ngày càng thay đổi, phức
tạp.
Đáp ứng nhu cầu hội nhập kinh tế quốc tế, tăng cường khả năng cạnh tranh
trong nền kinh tế toàn cầu, Nhà nước đã thực hiện chủ trương tiếp tục đổi mới, sắp
xếp lại các doanh nghiệp nhà nước và thành lập các doanh nghiệp nhà nước có quy
mô lớn, kinh doanh trong các lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Theo
chủ trương đó, Thủ tướng chính phủ đã ban hành Quyết định 91/TTg ngày 7/3/1994
về “Thí điểm thành lập các tập đoàn kinh doanh”, việc thành lập các tập đoàn kinh tế
sẽ tạo tiền đề cho sự phát triển kinh tế của Việt Nam.
Mở đầu trong chuỗi các tập đoàn kinh tế lần lượt ra đời là tập đoàn Bưu Chính
Viễn Thông. Đồng thời việc thành lập các tập đoàn kinh tế trong một số ngành sản
xuất vật chất then chốt là một yêu cầu tất yếu khách quan. Kinh doanh theo mô hình
kinh doanh tập đoàn là mô hình rất mới do đó trong quá trình hoạt động của các tập
đoàn kinh tế, công việc kiểm tra, kiểm soát gặp rất nhiều khó khăn. Hiện nay, kiểm
soát nội bộ đã được tổ chức ở hầu hết các tập đoàn kinh tế và đã có những đóng góp
đáng kể vào sự phát triển của các tập đoàn. Tuy nhiên, kiểm soát nội bộ vẫn chư
được thiết lập đầy đủ và vận hành hữu hiệu. Các nhà quản lý trong các tập đoàn kinh
tế còn chưa nhận thức được rõ ràng vai trò và tầm quan trọng của kiểm soát nội bộ.
Hơn nữa, bản thân những người thực hiện kiểm soát nội bộ cũng chưa hiểu đúng về

chức năng, nhiệm vụ và vai trò của kiểm toán nội bộ. Điều này dẫn đến hoạt động
kiểm toán nội bộ hiện nay trong các tập đoàn kinh tế còn chưa thể hện đúng bản chất
của kiểm toán nội bộ. Hoạt động của kiểm toán nội bộ mới dừng ở mức kiểm tra và
khảo sát việc ghi chép sổ sách kế toán, lập bảng khai tài chính và tuân thủ các quy
định trong chế độ, thể lệ luật pháp mà chưa chú trọng đến việc đánh giá hiệu quả của
các hoạt động trong đơn vị.
4


Hơn nữa, hệ thống các văn bản pháp lý hướng dẫn về kinh doanh theo hình
thứ tập đoàn kinh tế và về kiểm soát nội bộ còn mới mẻ, chưa đầy đủ, thiếu tính
thống nhất dẫn tới những khó khăn trong tổ chức kiểm toán nội bộ tại các tập đoàn
kinh tế.
Từ đó việc xây dựng và hoàn thiện kiểm toán nội bộ trở thành vấn đề mang
tính cấp bách trong quản lý tài chính tại các tập đoàn kinh tế, vừa có ý nghĩa về lý
luận, vừa có ý nghĩa thực tiễn trong giai đoạn hiện nay ở Việt Nam.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề này, em đã lựa chọn đề tài: “Tổ
chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế của Việt nam”
2. Tổng quan nhũng nghiên cứu về kiểm toán nội bộ
Đã có rất nhiều nghiên cứu trên khía cạnh và lĩnh vực khác nhau về kiểm toán
nội bộ. Một số nghiên cứu về kiểm toán nội bộ có thể kể đến như: Các nghiên cứu
của tác giả Victor Z.Brink và Herbert Witt (1941) về “Kiểm toán nội bộ hiện đại”,
tác giả A.P.Alvarez (1970) về “Vai trò của kiểm toán nội bộ trong ban hành chính
sách và quyết định”, tác giả J.C. Shaw (1980) về “Kiểm toán nội bộ - Một yếu tố cần
thiết cho hoạt động quản lý hiệu quả”, tác giả John A. Edds (1980) về “Kiểm toán
quản trị: khái niệm và thực hiện”, tác giả Richard A. Roy (1989) về "Quản lý đối với
bộ phận kiểm toán nội bộ"; Tác giả Ann Neale (1991) về "Hệ thống kiểm toán: Lý
thuyết và thực hành"; Tác giả Lawrence B. Sawyer, Mortimer Dittenhofe, James H.
Scheiner (2003) về "Thực hành kiểm toán nội bộ hiện đại"; Tác giả Robert Moeller
(2004) về "đạo luật Sabanes Oxley và những nguyên tắc mới về kiểm toán nội bộ";

Tác giả Robert Moeller (2005) về "Kiểm toán nội bộ hiện đại theo quan điểm của
Brink"; Tác giả Michael Elliot, Ray Dawson, Janet Edwards (2007) về "Cải thiện mô
hình hoạt động cho kiểm toán nội bộ". Các tác giả này đã xem xét những vấn đề
mang tính khái quát chung về KTNB. Ngoài ra, còn một số nghiên cứu với những
lĩnh vực đặc thù như Tác giả Victor Z. Brink, Bradford Cadmus (1950) về "Kiểm
toán nội bộ trong ngành công nghiệp"; Tác giả Reisner, Franz, Drsocoec (1990) về
"Kiểm toán nội bộ trong các công ty bảo hiểm: Cơ sở thực hiện"; Tác giả D.P Gupta,
R.K Gupta (2004) về "Kiểm toán nội bộ ngân hàng dựa trên cơ sở tiếp cận rủi ro".
Ở Việt Nam, năm 1997, KTNB chính thức được công nhận. Theo đó nhiều
nghiên cứu về KTNB cũng bắt đầu phát triển. Tác giả Nguyễn Quang Quynh (1998)
về "Xây dựng hệ thống kiểm tra kiểm soát trong quản lý vĩ mô và vi mô ở Việt Nam"
đã đề cập tới KTNB như là một yếu tố cấu thành của HTKSNB, KTNB đóng vai trò
quan trọng đặc biệt trong quản lý vi mô. Tác giả Ngô Trí Tuệ và cộng sự (2004) với
đề tài "Xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ với việc tăng cường quản lý tài chính tại
Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam" đã đề cập tới một yếu tố cấu thành
5


của hệ thống kiểm soát nội bộ là KTNB trong hoạt động của một đơn vị cụ thể là
Tổng công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam. Tác giả Vương Đình Huệ và cộng sự
với đề tài cấp nhà nước: "định hướng chiến lược và giải pháp phát triển kiểm toán ở
Việt Nam" cũng đề cập tới định hướng và giải pháp phát triển KTNB nhưng ở góc độ
quản lý vĩ mô với các vấn đề mang tính chiến lược tổng thể. Các công trình nghiên
cứu trên mới chỉ đề cập đến các vấn đề mang tính tổng thể của KTNB hoặc gắn với
một doanh nghiệp nhất định. Luận án tiến sĩ kinh tế của Tác giả Phan Trung Kiên
(2008) với đề tài "Hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ trong các doanh nghiệp xây
dựng Việt Nam" đã đề cập đến tổ chức kiểm toán nội bộ trong một ngành nhất định
là ngành xây dựng. Ngoài ra, một số đề tài Luận văn Thạc sỹ đã nghiên cứu về tổ
chức KTNB trong một số doanh nghiệp cụ thể.
Hơn nữa, các nghiên cứu về KTNB trong cơ cấu tổ chức của các tập đoàn còn

chưa được đề cập. Tác giả Nguyễn Đình Phan (1996) với đề tài "Thành lập và quản
lý các tập đoàn kinh doanh ở Việt Nam" đề cập đến mô hình các tập đoàn kinh tế và
giới thiệu mô hình tập đoàn kinh tế trên thế giới và bài học vận dụng ở Việt Nam.
Tác giả Vũ Huy Từ (2002) với đề tài "Mô hình tập đoàn kinh tế trong công nghiệp
hóa hiện đại hóa" đề cập đến các mô hình tập đoàn trên thế giới và các giải pháp vĩ
mô nhằm hình thành tập đoàn kinh tế tại Việt Nam. Tác giả Trần Tiến Cường và
cộng sự (2005) với đề tài "Tập đoàn kinh tế - Lý luận và kinh nghiệm quốc tế ứng
dụng vào Việt Nam" đã đề cập đến những lý luận chung về tập đoàn kinh tế, phân
tích các mô hình tập đoàn trên thế giới và khả năng áp dụng những mô hình này ở
Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra các chính sách vĩ mô đối với các Tổng công ty nhà
nước khi phát triển theo hướng tập đoàn kinh tế. Thạc sỹ Lại Thị Thu Thủy (2012)
với đề tài “Xây dựng hệ thống kiểm soát nội bộ hướng đến quản lý rủi ro trong các
doanh nghiệp”.Các công trình trên chủ yếu hướng đến nghiên cứu các mô hình tập
đoàn kinh tế và các chính sách vĩ mô nhằm phát triển tập đoàn kinh tế. Tuy nhiên,
các nghiên cứu này chưa đề cập một cách cụ thể đến kiểm tra kiểm soát đối với các
tập đoàn và tổ chức KTNB tại các tập đoàn kinh tế.
Ta thấy, chưa có một nghiên cứu mang tính khái quát bao gồm cả lý luận và
thực tiễn về tổ chức KTNB đối với một loại hình mới bắt đầu hình thành ở Việt Nam
là các tập đoàn kinh tế.
Vì vậy, Luận án tập trung nghiên cứu đến mô hình tập đoàn, tổ chức quản lý
tập đoàn, kinh nghiệm quốc tế; nghiên cứu KTNB thích ứng với mô hình tập đoàn.
Các nghiên cứu của Luận án sẽ bao gồm cả lý luận về KTNB và thực trạng KTNB
trong tập đoàn kinh tế của Việt Nam.
6


3. Mục đích và ý nghĩa nghiên cứu của luận án
a. Mục đích
Mục đích của Luận án là hệ thống hóa các lý luận cơ bản về tập đoàn kinh tế,
các lý luận cho tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế và nghiên cứu

thực trạng tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế Việt Nam. Trên cơ sơ
đó, Luận án nghiên cứu các giải pháp và đề xuất các mô hình hiệu quả của tổ chức
kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế Việt Nam.
b. Ý nghĩa
Với mục đích trên, Luận án có ý nghĩa cả trong lý luận và thực tiễn tổ chứ
kiểm toán nội bộ. Cụ thể:
Thứ nhất, về lý luận: Luận án trình bày hệ thống và toàn diện về tập đoàn kinh
tế, các mô hình tập đoàn, đồng thời Luận án phát triển lý luận về tổ chức kiểm toán
nội bộ trong các tập đoàn kinh tế, khẳng định tầm quan trọng của kiểm toán nội bộ
trong tập đoàn kinh tế.
Thứ hai, Về thực tiễn: Luận án mô tả và phân tích thực trạng tổ chức KTNB
trong các tập đoàn kinh tế của Việt Nam trên hai mặt là tổ chức công tác KTNB và tổ
chức bộ máy KTNB, đánh giá những thành tựu và hạn chế và luận giải các nguyên
nhân theo các nội dung của tổ chức KTNB. Trên cơ sở đó, Luận án đề xuất được
những quan điểm và giải pháp khả thi trong tổ chức KTNB trong các tập đoàn kinh
tế, đóng góp vào việc hoàn thiện hệ thống công cụ quản lý kinh tế và quản trị kinh
doanh trong nền kinh tế thị trường.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
a. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tập
đoàn kinh tế được thành lập theo pháp luật Việt Nam. Đối tượng nghiên cứu được cụ
thể hóa trên các khía cạnh sau:
Một là: Những vấn đề lý luận về tổ chức KTNB trong các tập đoàn kinh tế.
Hai là: Phân tích đánh giá thực trạng tổ chức KTNB trong các tập đoàn kinh
tế của Việt Nam có gắn với tổ chức KTNB của các tập đoàn kinh tế của các nước
trên thế giới.
b. Phạm vi nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu các tập đoàn kinh tế nhà nước trong đề án thí
điểm thành lập tập đoàn bằng hình thức chuyển đổi hình thức sở hữu và tái cấu trúc
hoạt động của các tổng công ty 91.

5. Phương pháp nghiên cứu của luận án
Luận án sử dụng chủ yếu các phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
7


sử, sử dụng kết hợp các phướng pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu định
lượng. Các phương pháp kỹ thuật chủ yếu mà Tác giả sử dụng trong luận án bao
gồm: Phương pháp điều tra, khảo sát, phương pháp thống kê, phương pháp phân tích
hệ thống, phương pháp thực chứng, các phương pháp bổ trợ khác.
Dữ liệu được sử dụng trong Luận án bao gốm cả dữ liệu sơ cấp và thứ cấp.
Các dữ liệu sơ cấp được thu thập chủ yếu thông qua phiếu điều tra đối với thành viên
của các tập đoàn kinh tế bao gồm cả công ty mẹ, các công ty con và công ty liên kết.
Dữ liệu này còn được bổ sung bằng phỏng vấn trực tiếp đối với nhà quản lý và kiểm
toán viên nội bộ trong các doanh nghiệp này. Ngoài ra, Tác giả còn tiến hành phỏng
vấn các chuyên gia trong bộ máy quản lý nhà nước về tài chính kế toán kiểm toán
như Bộ Tài chính, Kiểm toán nhà nước, Văn phòng Chính phủ. Dữ liệu thứ cấp được
thu thập qua các tài liệu, báo cáo khoa học về tập đoàn kinh tế và về kiểm toán nội
bộ, báo cáo tổng kết hoạt động của các tập đoàn kinh tế của Việt Nam.
6. Những đóng góp của luận án
Việc hình thành và phát triển các tập đoàn kinh tế là một định hướng nhằm
tăng cường sức mạnh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế, phát triển bền vững và
đạt hiệu quả cho các doanh nghiệp của Việt Nam. KTNB sẽ góp phần không nhỏ
nhằm giúp các tập đoàn đạt được các mục tiêu trên. Chính vì vậy Luận án có những
đóng góp cả về lý luận và giải quyết thực tiễn.
Một là về lý luận: Luận án đã hệ thống hóa lý luận chung về các tập đoàn kinh
tế, đề, trên cơ sở đó đã làm rõ lý luận chung về KTNB trong tập đoàn kinh tế. Trong
đó, Luận án đã đưa ra các mô hình của KTNB phù hợp với đặc điểm chung của tập
đoàn kinh tế. Ngoài ra, Luận án cũng đề cập đến kinh nghiệm tổ chức KTNB của tập
đoàn ở một số nước trên thế giới.
Hai là về thực tiễn: Luận án đã xem xét các đặc điểm chung của tập đoàn kinh

tế trong phạm vi nghiên cứu, trên cơ sở đó nhận diện mô hình tập đoàn kinh tế của
Việt Nam. Luận án đã đánh giá thực trạng tổ chức KTNB ở các tập đoàn kinh tế của
Việt Nam trên hai mặt là tổ chức công tác KTNB và tổ chức bộ máy KTNB. Trên cơ
sở đó Luận án đã phân tích rõ những những kết quả đạt được và những hạn chế của
KTNB trong các tập đoàn, làm rõ các nguyên nhân chủ quan và khách quan của các
nội dung trên.
Trên cơ sở các nghiên cứu về thực trạng tổ chức KTNB, Luận án đã đề xuất
các giải pháp cơ bản nhằm hoàn thiện KTNB trên cả hai mặt là tổ chức công tác và
tổ chức bộ máy KTNB. đặc biệt, tác giả nhấn mạnh đến việc tổ chức mô hình KTNB
phù hợp với mô hình tập đoàn kinh tế đang được vận dụng ở Việt Nam. Những đề
xuất mà tác giả đưa ra còn có thể vận dụng cho các đơn vị khác đang trong quá trình
8


hình thành tập đoàn.
7. Bố cục, kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của tổ chức kiểm toán nội bộ trong tập đoàn kinh tế
Chương 2: Thực trạng tổ chức kiểm toán nội bộ trong các tập đoàn kinh tế
của Việt Nam
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện tổ chức kiểm toán nội bộ
trong các tập đoàn kinh tế của Việt Nam..
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA TỔ CHỨC KIỂM TOÁN NỘI BỘ
TRONG TẬP ĐOÀN KINH TẾ
1.1. KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG TẬP ĐOÀN KINH TẾ
1.1.1. Khái quát chung về tập đoàn kinh tế
1.1.1.1. Bản chất và vai trò của tập đoàn kinh tế
Quá trình phát triển của nền kinh tế thường dẫn tới xu hướng tích tụ, tập trung
sản xuất và tập trung các nguồn lực về vốn, lao động và tài nguyên hay sự kết hợp về
công nghệ của các công ty đơn lẻ thông qua hình thức liên kết lại với nhau để hình

thành tổ hợp các công ty có quy mô lớn, hoạt động trong nhiều lĩnh vực, phạm vi
hoạt động rộng. Xu hướng đó đã trở thành tiền đề phát triển của các tập đoàn kinh tế
trên thế giới.
Tại Châu Âu và Hoa Kỳ, các tập đoàn được hình thành một cách chính thức từ
sau cuộc cách mạng công nghiệp. Trước hết có thể kể đến hình thức "Cartel". Cartel
là hình thức tập đoàn kinh tế có liên kết đơn giản nhất xuất hiện đầu tiên ở Hoa Kỳ
vào khoảng giữa thế kỷ XIX và sau đó mở rộng sang nhiều nước Châu Âu. đây là
loại hình tập đoàn kinh tế được hình thành bởi sự liên kết của các công ty hoạt động
trong cùng một ngành, một lĩnh vực sản xuất kinh doanh trên cơ sở thoả thuận kinh
tế như thống nhất về giá cả, tiêu chuẩn sản phẩm, phân chia thị trường đầu vào, đầu
ra... nhằm tránh cạnh tranh trực tiếp với nhau. Trong Cartel, các công ty tham gia vẫn
giữ nguyên tư cách pháp nhân và tính độc lập của chúng, tuy nhiên tính độc lập về
kinh tế lại bị hạn chế bởi các hợp đồng kinh tế. Một dạng đặc biệt của Cartel là
Syndicate và Trust. điểm đặc biệt trong hình thức Syndicate là có một văn phòng
thương mại chung do một ban quản trị điều hành và tất cả các công ty thành viên đều
tiêu thụ hàng hóa của mình qua văn phòng thương mại này. điều này làm cho các
đơn vị thành viên sẽ mất tính độc lập về thương mại và chỉ còn giữ được tính độc lập
về sản xuất. Với hình thức Trust, liên kết trong tập đoàn không chỉ ở khâu tiêu thụ
mà cả ở khâu sản xuất. Trust bao gồm nhiều doanh nghiệp công nghiệp do một ban
9


quản trị thống nhất điều hành. Trong hình thức này, các doanh nghiệp thành viên đều
bị mất quyền độc lập cả về sản xuất và thương mại. Trong điều kiện kinh tế hiện nay,
các nước đều không khuyến khích độc quyền thông qua các qui định của hệ thống
luật pháp. Ví dụ tại Hoa Kỳ đã có nhiều đạo luật chống độc quyền như đạo luật
Serman năm 1890, đạo luật Clayton năm 1914, đạo luật của Ủy ban Thương mại
Liên bang năm 1914, đạo luật cải tiến lĩnh vực chống độc quyền Anti-Trust năm
1976. Hơn thế nữa, mô hình Cartel chỉ hoạt động trong cùng một ngành, một lĩnh
vực sẽ tiềm ẩn nhiều rủi ro, vì vậy hình thức này đến nay ít tồn tại.

Tại một số quốc gia phát triển ở châu Á, các tập đoàn cũng hình thành và phát
triển từ rất sớm. Ở Nhật Bản, "Keiretsu" là thuật ngữ được sử dụng để chỉ các tập
đoàn kinh tế. Keiretsu là một nhóm các doanh nghiệp độc lập về mặt pháp lý nắm
giữ cổ phần của nhau và thiết lập được mối quan hệ mật thiết về nguồn vốn, về nhân
lực, công nghệ, cung ứng nguyên vật liệu, tiêu thụ sản phẩm. Ở Hàn Quốc, tập đoàn
thường được gọi là "Chaebol". Chaebol được sử dụng để chỉ liên kết gồm nhiều công
ty hình thành quanh một công ty mẹ. Trong Chaebol, các công ty thành viên trong
tập đoàn thường nắm giữ cổ phần hoặc vốn góp của nhau và do một gia đình điều
hành. Còn theo quan điểm của các nhà kinh tế Trung Quốc, Tập đoàn doanh nghiệp
là một tổ hợp kinh doanh tập hợp các doanh nghiệp có liên quan với nhau bởi một
công ty mẹ. Công ty mẹ của mỗi tập đoàn doanh nghiệp sẽ hoạt động như là hạt nhân
của tập đoàn, còn các công ty con và các doanh nghiệp có liên quan khác đều là các
pháp nhân được pháp luật công nhận, chia sẻ tất cả các quyền dân sự có liên quan và
chịu trách nhiệm dân sự phát sinh. Những công ty trực thuộc hoặc các đơn vị không
phải là pháp nhân sẽ không phải là các thành viên độc lập của tập đoàn. Bản thân tập
đoàn doanh nghiệp không phải là các pháp nhân [84, tr 2].
Có thể thấy hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về tập đoàn kinh tế,
song vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về tập đoàn kinh tế. Ở Việt Nam, quan
điểm của các tác giả của cuốn "Từ điển Thương mại Anh - Pháp - Việt" về tập đoàn
kinh tế: "Một nhóm là một tập đoàn kinh tế và tài chính gồm một công ty mẹ và các
công ty khác mà nó kiểm soát hay trong đó nó có tham gia. Mỗi công ty bản thân nó
cũng có thể kiểm soát các công ty khác hay tham gia các tổ hợp khác" [23, tr206].
Quan điểm này thể hiện ba điểm chính: Một là, Cơ cấu tổ chức tập đoàn là một nhóm
các công ty trong đó có một công ty mẹ và các công ty thành viên; Hai là, Công ty
mẹ liên kết với các đơn vị thành viên bằng cách kiểm soát hoặc tham gia hoạt động
với các công ty thành viên; Ba là, Các công ty thành viên có thể kiểm soát và tham
gia các công ty khác.
Dưới góc độ pháp lý của Việt Nam, Luật Doanh nghiệp ban hành ngày
10



29/11/2005 đưa ra khái niệm "Tập đoàn kinh tế là nhóm các công ty có quy mô
lớn", trong đó có thể hiểu "nhóm công ty là tập hợp các công ty có mối quan hệ gắn
bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường và các dịch vụ kinh
doanh khác" [27]. Có thể thấy ngay các văn bản pháp luật của Việt Nam vẫn chưa
đưa ra một căn cứ rõ ràng để xác định các tập đoàn kinh tế. điều này dẫn đến nhiều
khó khăn cho các cơ quan nhà nước và bản thân các tập đoàn trong quá trình xác
định mối quan hệ với các cơ quan nhà nước và mối liên hệ giữa các doanh nghiệp
thành viên.
Theo các phân tích trên, các quan niệm về tập đoàn kinh tế kể trên có những
điểm khác biệt và có những điểm tương đồng nhất định. Sự khác biệt chủ yếu là do
khác biệt về phương pháp tiếp cận, điều kiện kinh tế xã hội ở mỗi quốc gia. Các quan
niệm trên có thể có những cách diễn đạt khác nhau nhưng đều thể hiện rõ những nội
dung cơ bản sau:
Thứ nhất: Tập đoàn kinh tế là sự hình thành mang tính tất yếu khách quan của
các quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất của nền kinh tế thị trường như quy luật cạnh tranh, quy luật
cung cầu. Các tập đoàn đều có quy mô kinh doanh lớn, phạm vi hoạt động rộng.
Thứ hai: Các tập đoàn thường hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực và có lĩnh vực
kinh doanh chính. Các ngành kinh doanh khác thường liên quan hoặc là ngành kinh
doanh phụ trợ cho ngành kinh doanh chính nhằm tận dụng cơ sở vật chất, tiềm năng,
lao động hoặc phân tán rủi ro. Các tập đoàn thường gồm nhiều doanh nghiệp có tư
cách pháp nhân độc lập. Tuy nhiên bản thân tập đoàn lại chỉ mang ý nghĩa là một
nhóm các công ty chứ không có tư cách pháp nhân.
Thứ ba: Các tập đoàn có thể có hình thức sở hữu rất đa dạng, có thể là đơn sở
hữu, đa sở hữu hoặc sở hữu gia đình. Các tập đoàn phát triển theo xu hướng hiện đại
thường theo hướng đa sở hữu nhằm thu hút tối đa các nguồn lực. Trong một số
trường hợp do đặc điểm về kinh tế và truyền thống văn hoá, hình thức sở hữu gia
đình cũng được hình thành và phát triển;
Thứ tư: Liên kết chủ yếu trong các tập đoàn có thể có nhiều hướng khác nhau,

có thể là liên kết về tài chính, liên kết về công nghệ, thị trường và chiến lược kinh
doanh. Các liên kết này có thể là liên kết đầu vào hoặc đầu ra của quá trình kinh
doanh nhưng đều hướng đến sự gia tăng lợi ích của các bên tham gia. Mục tiêu cụ
thể của các liên kết này là tăng cường khả năng tích tụ, tập trung, cạnh tranh và tối đa
hoá lợi nhuận. Trung tâm của các tập đoàn là các công ty mẹ, các công ty này có thể
hoạt động với chức năng đầu tư tài chính và sản xuất kinh doanh hoặc chỉ thực hiện
chức năng đầu tư tài chính.
11


Trên cơ sở những phân tích trên, theo quan điểm của tác giả có thể đưa ra một
khái niệm về tập đoàn kinh tế như sau: Tập đoàn kinh tế là một thực thể kinh tế có
quy mô lớn gồm nhiều doanh nghiệp thành viên liên kết với một doanh nghiệp hạt
nhân là công ty mẹ, các doanh nghiệp thành viên có tư cách pháp nhân độc lập. Mối
quan hệ kinh tế trong tập đoàn dựa trên cơ sở các liên kết được pháp luật thừa nhận.
Các liên kết này có thể là liên kết đầu vào hoặc đầu ra của quá trình kinh doanh dựa
trên cơ sở liên kết chặt chẽ và gắn bó lâu dài về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị
trường, các dịch vụ khác và chiến lược kinh doanh nhằm tăng cường tích tụ, tập
trung, tăng khả năng cạnh tranh và tối đa hoá lợi ích. Bản thân tập đoàn kinh tế
không được coi là một pháp nhân độc lập mà là một tập hợp hay một nhóm các
doanh nghiệp thành viên mà mỗi doanh nghiệp thành viên đều có tư cách pháp
nhân.
Với cách hiểu về tập đoàn kinh tế như trên, có thể thấy vai trò quan trọng của
các tập đoàn trong nền kinh tế quốc dân của mỗi quốc gia cũng như của nền kinh tế
toàn cầu. Vai trò này thường được xem xét trên những khía cạnh sau:
Thứ nhất: Tập đoàn kinh tế tăng tốc độ huy động vốn thông qua sự chuyển
dịch vốn nhanh giữa công ty mẹ và công ty thành viên, giữa các công ty thành viên
với nhau. Sự chuyển dịch này hạn chế tình trạng thừa, thiếu vốn cục bộ. Hơn nữa, tập
đoàn kinh tế tạo điều kiện cho các công ty tối đa hoá được các nguồn lực khác như
lao động và tài nguyên. Việc tạo ra một đầu mối chung cho các tập đoàn kinh tế còn

giúp các doanh nghiệp trong tập đoàn tiết kiệm được vốn và các nguồn lực khác khi
chỉ cần thực hiện qua một đầu mối. Ví dụ như các chương trình quảng cáo, đào tạo
nghiệp vụ, phổ biến thông tin trong toàn tập đoàn sẽ tiết kiệm chi phí rất nhiều.
Thứ hai: Tập đoàn luôn tạo một nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, đồng
thời đảm bảo các cân đối lớn của nền kinh tế. Một nguồn thu lớn từ thuế cho ngân
sách nhà nước là từ các tập đoàn kinh tế. điều này dẫn đến vị trí ngày càng quan
trọng của tập đoàn đối với nền kinh tế quốc dân. Do đặc điểm nổi bật của các tập
đoàn kinh tế là hoạt động theo một sự chỉ đạo chung thống nhất về chiến lược phát
triển nên hoạt động của tập đoàn thường mang tính dẫn đường cho một ngành trong
nền kinh tế quốc dân. Kim ngạch xuất khẩu lớn và có ảnh hưởng tới cán cân thương
mại và cán cân thanh toán quốc gia. Vì vậy, các tập đoàn có khả năng đảm bảo các
cân đối lớn của nền kinh tế về nguồn thu ngân sách, tạo việc làm, bình ổn giá...
Thứ ba: Quy mô và phạm vi hoạt động của tập đoàn cho phép tổ chức nghiên
cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ mới vào sản xuất kinh doanh:
Các tập đoàn thường đi đầu trong việc áp dụng công nghệ mới, chuyển giao kỹ thuật
công nghệ trên toàn tập đoàn. điều này làm cho việc phổ biến công nghệ được thực
12


hiện với tốc độ cao hơn, làm tăng năng suất hoạt động và tăng hiệu quả kinh tế.
Nhà quản lý ở cấp vĩ mô và vi mô đều cần nhận thức rõ bản chất và vai trò
của tập đoàn kinh tế. Tuy nhiên, những vai trò trên của tập đoàn kinh tế có thể thay
đổi tùy thuộc vào nhiều yếu tố như chính sách phát triển hay điều kiện kinh tế xã hội
của mỗi thời kỳ. Do đó, để quản lý tốt tập đoàn kinh tế, cần nhận dạng loại hình tập
đoàn phù hợp với từng mục tiêu của quản lý. đây cũng là cơ sở giúp nhà quản lý có
thể xác định mô hình và phương thức tổ chức kiểm toán nội bộ.
1.1.1.2. Các loại tập đoàn kinh tế
Các tập đoàn thường được phân loại theo bản chất liên kết, theo phương thức
hình thành và tính chất ngành nghề hay theo hình thức sở hữu:
Phân loại tập đoàn theo bản chất liên kết: Các tập đoàn có thể được hình

thành dựa trên nhiều cách thức liên kết khác nhau. Bản chất liên kết của tập đoàn
kinh tế thường được biểu hiện dưới hai hình thức sau:
Thứ nhất là liên kết mềm: Trong liên kết này quan hệ giữa các thành viên
tương đối lỏng lẻo thông qua các thoả thuận hoặc cam kết hợp tác. Trong hình thức
này, các doanh nghiệp thành viên có tính độc lập tương đối cao. Tập đoàn có một
ban quản trị điều hành các hoạt động theo một chiến lược chung, từng công ty thành
viên vẫn giữ tính độc lập về tài chính, thương mại và sản xuất. Nếu xét về bản chất
liên kết thì các Consortium, Cartel cũng được coi là các liên kết mềm.
Thứ hai là liên kết cứng: Tập đoàn kinh tế được hình thành theo liên kết chặt
chẽ về vốn. Có bốn dạng khác nhau của hình thức liên kết này: Dạng thứ nhất là cấu
trúc đơn giản. Theo mô hình này, công ty "mẹ" nắm giữ cổ phần của công ty "con",
công ty "con" có thể nắm giữ cổ phần của công ty "cháu"... Các công ty cấp trên chi
phối trực tiếp về tài chính đối với các công ty cấp dưới thông qua việc nắm giữ cổ
phiếu. Dạng liên kết thứ hai là, Công ty mẹ nắm giữ cổ phiếu của công ty thành viên
không thuộc cấp dưới trực tiếp (ví dụ công ty "cháu"). Mục đích của việc kiểm soát
về tài chính với những công ty này là do tập đoàn muốn nắm giữ một lĩnh vực quan
trọng nào đó nên đã trực tiếp đầu tư. Tập đoàn Petronas của Malaysia được tổ chức
và liên kết theo mô hình này. Dạng liên kết thứ ba là: Các công ty đồng cấp nắm giữ
cổ phiếu của nhau. Mô hình này tạo khả năng thành lập được công ty mới trong tập
đoàn, tăng cường liên kết giữa các công ty thành viên trong tập đoàn. Mô hình này
được áp dụng phổ biến ở phần lớn các nước phát triển như ở Mỹ với tập đoàn
General Electric, General Motors, Hàn Quốc với tập đoàn LG, Samsung. Dạng liên
kết thứ tư là: Tập đoàn kinh tế có hình thức liên kết hỗn hợp. đây là tập đoàn có mối
quan hệ liên kết phức tạp nhất. Mô hình này là sự kết hợp của cả ba mô hình trên.
Nền kinh tế càng phát triển, các quan hệ liên kết càng đa dạng thì số lượng tập đoàn
13


theo mô hình này càng nhiều.
Phân loại tập đoàn theo phương thức hình thành: Theo cách phân loại này,

có ba phương thức hình thành của các tập đoàn kinh tế tương ứng với ba loại liên kết
trong tập đoàn là liên kết ngang, liên kết dọc và liên kết hỗn hợp. Thứ nhất, tập đoàn
bao gồm các công ty thành viên trong cùng một ngành – gọi là liên kết ngang: Cartel,
Syndicate, Trust, Keiretsu. Mô hình này hiện nay không phổ biến vì phải đối mặt với
rủi ro cao khi chỉ tập trung vào một ngành nghề. Hơn nữa, mô hình này thường vấp
phải sự ngăn cấm bởi luật pháp của các nước về chống độc quyền. Thứ hai, liên kết
trong tập đoàn là liên kết dọc. Các đơn vị thành viên trong tập đoàn có mối liên hệ
theo quy trình công nghệ với công ty mẹ, hoặc bản thân công ty con có thể phát triển
các công ty mới để thực hiện các hoạt động phụ trợ cho ngành sản xuất của công ty.
Tuy nhiên, để thành lập được tập đoàn theo mô hình này, công ty mẹ phải có tiềm
lực tài chính lớn đồng thời phải có khả năng kiểm soát các hoạt động và kiểm tra tài
chính đối với đơn vị thành viên. Thứ ba, tập đoàn liên kết hỗn hợp. Mô hình này là
sự kết hợp của cả hai mô hình trên. Trong tập đoàn có cả liên kết ngang và liên kết
dọc. Liên kết hỗn hợp sẽ đảm bảo sự phát triển bền vững của tập đoàn khi phân tán
rủi ro bằng cách kinh doanh đa ngành, đa lĩnh vực nhưng phát triển với chiến lược
trọng tâm là ngành sản xuất kinh doanh chính. Hình thức liên kết này có thể diễn ra
tự nguyện khi các công ty tự nguyện đàm phán liên kết xoay quanh một công ty có
tiềm lực kinh tế lớn hoặc nắm giữ khâu chủ chốt của dây chuyền công nghệ. Ngoài
ra, liên kết này có thể hình thành khi một công ty có tiềm lực tài chính sở hữu cổ
phần chi phối của các công ty khác và nắm quyền kiểm soát đối với các công ty đó.
Một khả năng nữa dẫn đến việc hình thành mô hình này là thông qua việc tổ chức và
cơ cấu lại công ty. Một công ty có quy mô lớn tiến hành tổ chức lại theo hướng
chuyển đổi thành một tổ hợp bao gồm một công ty mẹ và các công ty con thông qua
chuyển đổi hình thức công ty hoặc cổ phần hoá. Cách thức hình thành tập đoàn này
đang phổ biến ở Việt Nam hiện nay.
Phân loại tập đoàn theo hình thức sở hữu, tập đoàn kinh tế thường bao gồm
hai loại sau: Thứ nhất, tập đoàn sở hữu tư nhân: Các tập đoàn kinh tế loại này chủ
yếu có nguồn gốc từ những công ty sở hữu gia đình hay sở hữu tư nhân. Sau một thời
gian hoạt động, các công ty đó lớn mạnh và tăng cường hoạt động và liên kết kinh tế
hình thành tập đoàn. Quá trình hình thành tập đoàn kinh tế gắn liền với quá trình thay

đổi cơ cấu sở hữu của tập đoàn. Loại tập đoàn này thường phổ biến tại Hàn Quốc và
Nhật Bản. Thứ hai, tập đoàn sở hữu nhà nước hoặc nhà nước nắm giữ phần sở hữu
chi phối: Các tập đoàn này có thể do nhà nước đầu tư 100% vốn để thành lập hoặc
nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối. Ở Việt Nam, khi cơ cấu lại các doanh nghiệp
14


theo hình thức tập đoàn, Nhà nước vẫn nắm giữ toàn bộ cổ phần của công ty mẹ và
từ đó trực tiếp hoặc gián tiếp nắm giữ quyền kiểm soát đối với các công ty thành
viên. Thứ ba, tập đoàn đa sở hữu: là hình thức sở hữu kết hợp giữa nhà nước và tư
nhân dựa trên các quan hệ liên kết về tài chính, vốn, công nghệ và tài nguyên. đây là
hình thức ngày càng phát triển trên thế giới.
1.1.1.3. Đặc trưng cơ bản của tập đoàn kinh tế ảnh hưởng đến tổ chức kiểm toán nội bộ
Với mỗi loại hình được trình bày ở phần trên, các đặc điểm của từng loại hình
đã được nêu rõ. Tuy nhiên, có thể nhận thấy một số đặc trưng chung của tập đoàn
kinh tế như sau:
Về quan hệ liên kết: Tập đoàn kinh tế là tập hợp các doanh nghiệp liên kết.
Hiện nay, tập đoàn kinh tế thường liên kết chủ yếu về quan hệ tài chính thông qua
đầu tư vốn. Ngoài ra, các doanh nghiệp trong tập đoàn còn có mối quan hệ về sản
xuất, thương mại, công nghệ... Các liên kết kinh tế thường được thể hiện trong tập
đoàn dưới dạng công ty mẹ - công ty con. Tập đoàn thường bao gồm nhiều đơn vị
thành viên. Ví dụ như tập đoàn sản xuất ô tô hàng đầu của Nhật Bản Toyota có 522
công ty thành viên. Công ty mẹ thường thực hiện việc thành lập hoặc tham gia góp
vốn với các công ty thành viên. Công ty mẹ chỉ đạo, điều hành hoạt động của đơn vị
thành viên thông qua việc cử người tham gia hội đồng quản trị, điều hòa huy động
vốn, quản lý vốn, xây dựng chiến lược phát triển, chiến lược thị trường, chiến lược
đầu tư. Việc tập trung vốn và thống nhất chiến lược cho các đơn vị thành viên đã tạo
lợi thế cho các tập đoàn hơn hẳn các doanh nghiệp khác cùng ngành khi tạo được sức
mạnh tập trung, tạo ra sự kết hợp linh hoạt giữa các đơn vị thành viên. đặc điểm này
đòi hỏi phải xây dựng KTNB là một chức năng mang tính kiểm tra kiểm soát dưới

góc độ là chủ sở hữu kiểm soát chứ không chỉ đơn thuần là kiểm tra hành chính của
cấp trên đối với cấp dưới. Hơn nữa, với số lượng doanh nghiệp thành viên lớn như
vậy các tập đoàn kinh tế càng phải chú trọng đến tổ chức công tác và tổ chức bộ máy
kiểm tra kiểm soát một cách hợp lý, tránh hiện tượng kiểm soát chồng chéo hoặc bỏ
sót.
Về quy mô: Tập đoàn kinh tế có quy mô lớn về vốn, lao động, doanh thu và
phạm vi hoạt động. Trong tập đoàn kinh tế, vốn thường được tập trung từ nhiều
nguồn khác nhau: có thể thông qua tích lũy vốn nội bộ nền kinh tế hoặc thông qua
thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Phần vốn tích lũy từ nội bộ nền kinh tế thường được
hình thành theo nhiều phương thức khác nhau như nhà nước cấp vốn ban đầu dưới
dạng đầu tư trực tiếp hoặc góp cổ phần lớn nhất; vốn bổ sung từ lợi nhuận của hoạt
động sản xuất kinh doanh hoặc vốn từ cho vay ưu đãi, huy động vốn thông qua phát
hành trái phiếu, cổ phiếu. Với số vốn lớn, tập đoàn có khả năng cạnh tranh trên thị
15


trường thường chiếm thị phần lớn trong các doanh nghiệp cùng ngành (Bảng 1.1).
Bảng 1.1: Quy mô 10 tập đoàn hàng đầu của Mỹ năm 2006
Tên công ty
T
Citigroup

0

Xếp hạng
Tổng nguồn
trong Top 500 về vốn (Triệu USD)
doanh
thu
8

112,537

Exxon Mobil

1

111,186

General Electric

7

109,354

J.P. Morgan Chase & Co.

17

107,211

Bank of America Corp.

12

101,533

Berkshire Hathaway

13


91,484

American Intl. Group

9

86,317

Pfizer

31

65,627

Time Warner

40

62,715

Chevron

4

62,676

(Nguồn: )

Tương ứng với tiềm lực kinh tế lớn, hiệu quả sử dụng vốn của các tập đoàn
kinh tế tương đối cao thể hiện ở chỉ tiêu lợi nhuận (Bảng 1.2). Một vấn đề nữa là lực

lượng lao động trong tập đoàn không chỉ lớn về số lượng mà còn mạnh về chất
lượng. Số lượng lao động trong các tập đoàn có thể là từ hàng nghìn người
đến quy mô rất lớn hàng trăm nghìn người như năm 2007 tập đoàn Toyota có gần
299.394 lao động trong các doanh nghiệp của tập đoàn, tập đoàn Unilever có
179.000 lao động, tập đoàn Petronas có 33.944 lao động và tập đoàn Cisco có 66.050
lao động. Hơn nữa, lực lượng lao động trong tập đoàn không chỉ lớn về số lượng mà
còn mạnh về chất lượng, được tuyển chọn nghiêm ngặt và đào tạo kỹ lưỡng. Phạm vi
hoạt động của tập đoàn kinh tế rất rộng, không chỉ trong lãnh thổ quốc gia mà có thể
trên phạm vi toàn cầu. Ví dụ như tập đoàn Petronas của Malaysia có 120 công ty ở
22 quốc gia. Sự phân tán về địa lý đôi khi dẫn đến sự không chính xác về thông tin
do khoảng cách về địa lý cũng như hệ thống pháp luật và chuẩn mực ghi nhận thông
tin giữa các quốc gia có những điểm khác biệt nhất định.lượng. Số lượng lao động
trong các tập đoàn có thể là từ hàng nghìn người đến quy mô rất lớn hàng trăm nghìn
người như năm 2007 tập đoàn Toyota có gần 299.394 lao động trong các doanh
16


nghiệp của tập đoàn, tập đoàn Unilever có 179.000 lao động, tập đoàn Petronas có
33.944 lao động và tập đoàn Cisco có 66.050 lao động. Hơn nữa, lực lượng lao động
trong tập đoàn không chỉ lớn về số lượng mà còn mạnh về chất lượng, được tuyển
chọn nghiêm ngặt và đào tạo kỹ lưỡng. Phạm vi hoạt động của tập đoàn kinh tế rất
rộng, không chỉ trong lãnh thổ quốc gia mà có thể trên phạm vi toàn cầu. Ví dụ như
tập đoàn Petronas của Malaysia có 120 công ty ở 22 quốc gia. Sự phân tán về địa lý
đôi khi dẫn đến sự không chính xác về thông tin do khoảng cách về địa lý cũng như
hệ thống pháp luật và chuẩn mực ghi nhận thông tin giữa các quốc gia có những
điểm khác biệt nhất định.
Về tính chất pháp lý: Tập đoàn không có tư cách pháp nhân, các thành viên
trong tập đoàn không phải chịu trách nhiệm liên đới trước trách nhiệm và nghĩa vụ
của doanh nghiệp thành viên khác trong tập đoàn nếu không có các liên kết về tài
chính. Mỗi đơn vị thành viên của tập đoàn là một pháp nhân độc lập. Cả công ty mẹ

và đơn vị thành viên đều bình đẳng với nhau trước pháp luật. Việc tổ chức KTNB
trong tập đoàn có thể lựa chọn tùy thuộc vào điều kiện của doanh nghiệp. điều này
dẫn đến việc tổ chức KTNB trong các tập đoàn có thể tập trung hay phân tán tùy
thuộc vào đặc điểm của tập đoàn về liên kết, về quy mô hoạt động và về phạm vi
hoạt động. Mỗi doanh nghiệp trong tập đoàn có thể tổ chức KTNB riêng hoặc chỉ tổ
chức KTNB ở công ty mẹ.
Cơ cấu tổ chức tập đoàn: Do có nhiều liên kết kinh tế khác nhau nên mối
quan hệ giữa công ty mẹ và các đơn vị thành viên cũng khác nhau. Thông thường,
tập đoàn có một công ty mẹ đóng vai trò hạt nhân với các công ty con là vệ tinh xoay
quanh hạt nhân. Công ty mẹ có thể thực hiện các chức năng khác nhau như chức
năng kiểm soát về sản xuất, thương mại hay tài chính tuỳ thuộc vào hình thức liên
kết của tập đoàn. Hai đặc điểm kể trên dẫn đến việc tổ chức cơ cấu KTNB trong tập
đoàn thường được chú trọng bằng việc xây dựng KTNB tại công ty mẹ và mối liên
hệ với KTNB của các doanh nghiệp thành viên. Ngoài ra, khi xây dựng KTNB của
tập đoàn phải xác định mối liên hệ với bên ngoài bao gồm kiểm toán nhà nước, kiểm
toán độc lập.
Ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh: Các tập đoàn có hai xu hướng phát
triển. Thứ nhất là đa dạng hoá về ngành nghề và lĩnh vực kinh doanh nhằm phân tán
rủi ro và tránh các rào cản của luật pháp về độc quyền. Thứ hai là chủ yếu tập trung
vào một ngành nghề kinh doanh nhằm khai thác công nghệ. Tuy nhiên, xu hướng thứ
nhất vẫn tồn tại phổ biến hơn vì nó phù hợp với sự phát triển của kinh tế thị trường.
Chính vì lý do đó, đặc trưng cơ bản của các tập đoàn hiện nay là đa ngành, đa lĩnh
vực trong đó có một ngành sản xuất kinh doanh chính làm nòng cốt cho chiến lược
17


phát triển. Xu hướng đa ngành đa lĩnh vực đã đặt ra một yêu cầu thiết yếu là xây
dựng chuẩn về chuyên môn nghiệp vụ cho KTVNB.
1.1.2. Bản chất và ý nghĩa của kiểm toán nội bộ trong tập đoàn kinh tế
Kiểm toán nói chung và KTNB nói riêng có lịch sử phát triển lâu đời trên thế

giới. Kiểm toán có lịch sử phát triển vào khoảng hơn 5500 năm trước đây với những
dấu hiệu thể hiện sự kiểm tra đơn giản thông qua việc đánh dấu bên cạnh các con số
ghi nhận các giao dịch trên các vật để ghi chép của con người trong nền văn minh
Mesopotamian cổ đại. Một người ghi nhận giao dịch và một người khác kiểm tra
việc ghi nhận các giao dịch. Sau này, hoạt động kiểm tra này được sử dụng rất nhiều
tại Ai Cập cổ đại, Ba Tư và La Mã cổ đại. Ở La Mã cổ đại, công việc kiểm tra được
giao cho các "auditus" (tiếng Latin có nghĩa là nghe).
Trong giai đoạn đầu mới xuất hiện, KTNB chủ yếu tập trung vào lĩnh vực tài
chính kế toán với chức năng quan trọng nhất là phát hiện các sai phạm. Với chức
năng này, KTVNB đóng vai trò là người giám sát hay kiểm tra viên về tài chính.
Trên phạm vi rộng hơn, KTNB được sử dụng chủ yếu như một hoạt động hỗ trợ của
ngoại kiểm nhằm giảm bớt công việc và chi phí cho hoạt động ngoại kiểm. Như vậy,
quan điểm về KTNB giai đoạn này tương đối đơn giản, KTNB được coi là hoạt động
nhằm thực hiện chức năng của kiểm tra kế toán.
Môi trường kinh doanh thay đổi, các hoạt động càng phức tạp và đa dạng dẫn
đến đòi hỏi phải đánh giá từng loại hoạt động trên nhiều khía cạnh khác nhau. Ngoài
việc đánh giá đến tính trung thực và hợp pháp của thông tin, xem xét và phát hiện
các sai phạm, nhà quản lý cần quan tâm đến tính kinh tế, tính hiệu quả, hiệu lực của
từng hoạt động, tìm kiếm các giải pháp hoàn thiện hoạt động. điều này dẫn đến xu
hướng chuyển hoạt động của KTNB hướng đến hoạt động quản lý nhiều hơn đặc biệt
là hoạt động KTNB đã hướng đến cả các lĩnh vực phi tài chính.
Từ định nghĩa này có thể đưa ra ba điểm chủ yếu là: Một là, KTNB là quá
trình đánh giá một cách hệ thống và khách quan các hoạt động và các thủ tục kiểm
soát trong tổ chức; Hai là, hoạt động của KTNB là độc lập; Ba là, hoạt động của
KTNB là hoạt động phục vụ cho tổ chức với mục tiêu giúp đỡ các thành viên của tổ
chức hoàn thành nhiệm vụ hiệu quả.
Tháng 6 năm 1999, nhằm đáp ứng được yêu cầu cao hơn của quản lý do sự
thay đổi liên tục của môi trường kinh doanh, IIA đã đưa ra một định nghĩa toàn diện
hơn về KTNB: "KTNB là hoạt động đánh giá tư vấn độc lập trọng nội bộ tổ chức,
được thiết kế nhằm cải tiến và làm tăng giá trị cho các hoạt động của tổ chức đó.

KTNB giúp tổ chức đạt được các mục tiêu bằng việc đánh giá một cách hệ thống và
cải tiến tính hiệu lực của quy trình quản trị, kiểm soát và quản lý rủi ro” [73, tr725].
18


Có thể xem xét định nghĩa này trên những khía cạnh sau: Thứ nhất là, KTNB
là hoạt động với hai chức năng đánh giá và tư vấn. Như vậy, KTVNB nếu chỉ có
năng lực chuyên môn về kiểm toán là chưa đủ mà phải am hiểu sâu sắc về hoạt động
được kiểm toán mới có thể đưa ra tư vấn cho khách thể kiểm toán; Thứ hai là, KTNB
là hoạt động nội kiểm nhưng phải đảm bảo được tính độc lập; Thứ ba là, mục tiêu
của KTNB là cải tiến và tăng giá trị của hoạt động của tổ chức; Thứ tư là, phương
pháp thực hiện của KTNB là đánh giá hoạt động và kiến nghị nhằm cải thiện tính
hiệu lực của hoạt động quản trị, kiểm soát quản lý rủi ro.
Như vậy, mỗi tổ chức đều đưa ra khái niệm riêng của mình về KTNB. Các
khái niệm trên có cách diễn đạt khác nhau nhưng nhìn chung đều chỉ rõ những điểm
sau:
Thứ nhất: KTNB trước hết là một bộ phận của kiểm toán nên nó cũng hình
thành từ yêu cầu của quản lý và phục vụ cho yêu cầu này. KTNB có chức năng đo
lường, đánh giá các hoạt động của đơn vị kể cả hoạt động kiểm soát. Như vậy,
KTNB là một loại kiểm soát được sử dụng phục vụ yêu cầu quản lý như một chức
năng của quản lý.
Thứ hai: Chức năng của KTNB là kiểm tra, đánh giá, xác nhận và tư vấn.
Chức năng này sẽ được cụ thể và chú trọng trong từng loại hình kiểm toán khác
nhau, với từng tổ chức khác nhau. Quá trình thực hiện chức năng của KTNB có thể
được thực hiện đối với các hoạt động tài chính và hoạt động phi tài chính.
Thứ ba: KTNB là hoạt động nội kiểm có tính độc lập trong một tổ chức. Các
tổ chức này không chỉ là các đơn vị hoạt động kinh doanh mà có thể là các đơn vị phi
lợi nhuận. Theo xu hướng hiện đại, hoạt động này có thể được thực hiện thông qua
thuê ngoài các chuyên gia kiểm toán.
Thứ tư: Người thực hiện KTNB phải có trình độ nghiệp vụ tương xứng và

không những am hiểu về kiểm toán mà còn các lĩnh vực chuyên môn nghiệp vụ của
đơn vị được kiểm toán.
Thứ năm: Cách thức tiếp cận của KTNB là cách thức tiếp cận có hệ thống; các
phương pháp thực hiện công việc theo đúng các quy định về trách nhiệm nghề
nghiệp trong việc nhận định, phân tích đánh giá, ghi chép và thông báo kết quả.
Từ những phân tích trên, theo Tác giả có thể khái quát một định nghĩa về
KTNB như sau: KTNB là một hoạt động độc lập có chức năng kiểm tra, đánh giá
xác nhận và tư vấn nhằm trợ giúp cho nhà quản lý, cải thiện các hoạt động của một
tổ chức bằng một cách tiếp cận có hệ thống trong phạm vi tổ chức đó. Các tổ chức có
thể là các đơn vị hoạt động sản xuất kinh doanh vì lợi nhuận nhưng cũng có thể là
đơn vị phi lợi nhuận. Mục tiêu của KTNB là: đánh giá về độ tin cậy của thông tin tài
19


chính và các thông tin phi tài chính về việc chấp hành luật pháp và quy định, đánh
giá khả năng nhận diện, xử lý và phòng tránh rủi ro của tổ chức, đánh giá tính hiệu
lực của các hoạt động kiểm soát; đánh giá tính hiệu quả trong quá trình sử dụng các
nguồn lực và hiệu năng của quản lý trong quá trình thực hiện các hoạt động và tư vấn
thiết kế nhằm tăng giá trị và cải thiện hoạt động.
Như đã phân tích ở trên, tập đoàn kinh tế là là một thực thể kinh tế có quy mô
lớn gồm nhiều doanh nghiệp thành viên liên kết với một doanh nghiệp hạt nhân là
công ty mẹ, các doanh nghiệp thành viên có tư cách pháp nhân độc lập. Tập đoàn
kinh tế được hình thành dựa trên liên kết chặt chẽ và gắn bó lâu dài của các doanh
nghiệp thành viên về lợi ích kinh tế, công nghệ, thị trường, các dịch vụ khác và chiến
lược kinh doanh nhằm tăng cường tích tụ, tập trung, tăng khả năng cạnh tranh và tối
đa hoá lợi ích. Bản thân tập đoàn kinh tế không được coi là một pháp nhân độc lập
mà là một tập hợp hay một nhóm các doanh nghiệp thành viên có tư cách pháp nhân.
Như vậy, khái niệm về KTNB trong tập đoàn có những điểm riêng biệt và có thể
được cụ thể hóa theo những yếu tố cơ bản sau:
Thứ nhất: Tập đoàn kinh tế thường có quy mô lớn, phạm vị hoạt động rộng,

tiềm lực tài chính mạnh đòi hỏi chức năng kiểm tra kiểm soát của quản lý càng phải
được đề cao. KTNB là một phân hệ của hoạt động kiểm tra kiểm soát là một chức
năng của quản lý của công ty mẹ với đơn vị thành viên, của bản thân từng doanh
nghiệp thành viên. KTNB trong tập đoàn đảm bảo hiệu quả hoạt động của tập đoàn,
đảm bảo tuân thủ các chính sách của từng doanh nghiệp thành viên và chính sách
chung cũng như chiến lược của tập đoàn.
Thứ hai: Trong mỗi đơn vị thành viên của tập đoàn, KTNB đảm bảo tính độc
lập với khách thể được kiểm toán và với các hoạt động được kiểm toán nhằm đảm
bảo tính khách quan của việc thực hiện các chức năng của KTNB là kiểm tra, đánh
giá, xác nhận và tư vấn. Mặc dù tập đoàn kinh tế có sự phân quyền cao giữa công ty
mẹ và các công ty con nhưng KTNB trong các tập đoàn thường mang lại các thông
tin có tính tham vấn nhiều hơn là tính mệnh lệnh hay quản lý trực tiếp đối với các bộ
phận được kiểm toán.
Thứ ba: Tập đoàn kinh tế phát triển theo xu hướng chuyển từ đơn sở hữu sang
đa sở hữu. Người quan tâm đến thông tin tài chính càng nhiều thì càng cần có sự
minh bạch hóa cao hơn về thông tin tài chính được công bố và quản lý tài chính. Với
đòi hỏi cao về tính minh bạch, báo cáo tài chính của các doanh nghiệp thành viên
trong tập đoàn và báo cáo tài chính hợp nhất phải được kiểm toán nhà nước hoặc
kiểm toán độc lập thực hiện kiểm toán. KTNB là sự hỗ trợ quan trọng cho các hoạt
động ngoại kiểm trên nhằm khẳng định tính đúng đắn của báo cáo tài chính. Tuy
20


nhiên, khác với các KTV bên ngoài, KTNB đặt mối quan tâm hàng đầu tới hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp, hiệu năng của các hoạt động quản lý.
Thứ tư: Tập đoàn kinh tế có nhiều đơn vị thành viên với cấu trúc tổ chức đa
dạng, kinh doanh đa ngành, có lực lượng lao động lớn, đòi hỏi phải có sự đánh giá
hiệu quả với từng bộ phận, từng loại hoạt động, từng lĩnh vực sản xuất kinh doanh và
từng địa bàn hoạt động. Do đó, KTNB phải phát triển theo hướng đa dạng hóa các
phương thức thực hiện kiểm toán và nội dung thực hiện. KTNB có thể tiến hành với

cả hoạt động bán hàng, mua hàng, nhân sự, truyền tin và xử lý dữ liệu…
Có thể thấy KTNB ngày càng thể hiện vai trò quan trọng của mình trong các
tổ chức. Sự phát triển mạnh của hoạt động KTNB trong các doanh nghiệp đã chứng
tỏ vai trò ngày càng quan trọng của KTNB đối với các tập đoàn kinh tế nói riêng và
đối với nền kinh tế nói chung. Vai trò của KTNB trong tập đoàn kinh tế được xem
xét dưới bốn góc độ sau:
Thứ nhất, KTNB giữ vai trò là phương thức quản lý hiệu quả nhằm hỗ trợ
việc thực hiện trách nhiệm của nhà quản lý: Nhà quản lý ở các cấp độ khác nhau
thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình với mức độ trách nhiệm khác nhau. Tổng
giám đốc là người định hướng các hoạt động, đưa ra các quyết định mang tính chiến
lược và đề ra các mục tiêu tổng quát trong doanh nghiệp. đồng thời, tổng giám đốc
cũng phải chịu trách nhiệm về kết quả công việc của cấp dưới của mình. Các giám
đốc đơn vị thành viên, giám đốc các lĩnh vực theo đó cũng phải chịu trách nhiệm đối
với phạm vi công việc của mình. Công việc quản lý thường được tiến hành theo
nguyên tắc quản lý cấp dưới luôn phải báo cáo công việc cho cấp quản lý cao hơn.
Thứ hai, KTNB là phương thức giúp phát hiện và cải tiến những điểm yếu
trong hệ thống quản lý của doanh nghiệp. Thông qua phương thức này, Ban giam
đốc và Hội đồng quản trị có thể kiểm soát hoạt động tốt hơn, quản lý rủi ro tốt hơn.
KTNB luôn phải đánh giá tính hiệu quả của hoạt động và đánh giá năng lực của nhà
quản lý trong từng hoạt động. KTNB được coi như một nhà quan sát mà trong từng
bước đi của doanh nghiệp, KTNB chỉ ra những kết quả cũng những hạn chế trong hệ
thống quản lý và đưa ra các đề xuất nhằm hoàn thiện.
Thứ ba, KTNB giúp cân bằng và điều hoà những xung đột về lợi ích thường
có giữa các cổ đông với các nhà quản lý doanh nghiệp. Hoạt động kinh doanh càng
phát triển càng dẫn đến sự chuyên nghiệp trong điều hành hoạt động của các doanh
nghiệp. Hiện nay, có thể coi giám đốc doanh nghiệp là một nghề chứ không chỉ là
một vị trí quản lý cao nhất nữa. Sự tách rời giữa chủ sở hữu và nhà quản lý chắc chắn
không tránh khỏi những mâu thuẫn và xung đột về lợi ích giữa họ. Sự tách rời này
dẫn đến một thuật ngữ mới trong kiểm tra kiểm soát đó là "lý thuyết về đại diện”
21



(agency theory) trong đó chủ sở hữu được coi là người ủy quyền (principal) còn nhà
quản lý là người thừa hành (agent).
Thứ tư, KTNB làm tăng niềm tin của người sử dụng thông tin trên báo cáo tài
chính và báo cáo kế toán quản trị. Thông thường, một doanh nghiệp có KTNB sẽ
làm tăng niềm tin cho các cổ đông, nhà đầu tư về thông tin của doanh nghiệp cung
cấp và về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Các thống kê trên thế giới cho thấy
các công ty có bộ phận KTNB thường có báo cáo đúng hạn và báo cáo tài chính có
độ chính xác cao hơn, mức độ minh bạch cao hơn và hiệu quả sản xuất kinh doanh
cũng cao hơn so với những công ty không có KTNB.
Thứ năm, KTNB là công cụ hữu hiệu nhằm giảm thiểu chi phí cho đơn vị.
Việc đánh giá hiệu quả của các hoạt động, các tác nghiệp cụ thể thường giúp doanh
nghiệp giảm thiểu được sự lãng phí nguồn lực. Các nguồn lực bao gồm cả vốn, lao
động và tài nguyên luôn bị hạn chế chứ không phải là vô hạn. Tuy nhiên, có một
thực tế là không phải doanh nghiệp nào cũng thấy hết thực trạng này và có biện pháp
để hiện thực hoá các lợi ích của doanh nghiệp một cách tối ưu. Nhiều doanh nghiệp
theo đuổi mục tiêu tăng trưởng nóng và đã không cân bằng được ba mục tiêu bắt
buộc của phát triển bền vững đó là tăng trưởng, hiệu quả và kiểm soát. KTNB sẽ là
một bộ phận có vai trò to lớn trong việc điều chỉnh hoạt động của doanh nghiệp luôn
nằm trong tam giác đều với các góc là tăng trưởng, hiệu quả và kiểm soát.
Như vậy, có thể nói KTNB có vai trò như một phương thức hữu hiệu của nhà
quản lý, một chức năng của quản lý nhằm tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh và
tăng cường năng lực của hoạt động quản lý và kiểm soát. Với vai trò này, KTNB là
yếu tố cần có đối với mọi loại hình doanh nghiệp ở mọi quy mô hoạt động. đối với
các tập đoàn kinh tế, KTNB càng thể hiện rõ hơn vai trò của mình.
1.1.3. Nội dung kiểm toán của kiểm toán nội bộ trong tập đoàn kinh tế
Có thể xem xét đến các loại hình KTNB dựa trên những tiêu thức cơ bản sau:
Xét theo đối tượng cụ thể của kiểm toán, KTNB hiện đại thường thực hiện các
loại hình kiểm toán sau: Kiểm toán tài chính, kiểm toán hoạt động và kiểm toán liên

kết. Nghiên cứu sự phát triển ở trên cho thấy KTNB có sự mở rộng đối tượng từ các
hoạt động tài chính sang cả các hoạt động phi tài chính. điều này dẫn sự thay đổi
đáng kể về hình thức hoạt động và nội dung của KTNB trong một tổ chức.
Loại hình kiểm toán thứ nhất là kiểm toán tài chính. Với loại hình này đối
tượng của KTNB là báo cáo tài chính và báo cáo kế toán quản trị. Kiểm toán báo cáo
tài chính và báo cáo kế toán quản trị là việc kiểm tra, xác nhận tính trung thực và
tính hợp lý của các báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị cũng như xem xét sự
22


phù hợp giữa báo cáo tài chính, báo cáo kế toán quản trị với các nguyên tắc, chuẩn
mực kế toán và yêu cầu quản lý.
Loại hình kiểm toán thứ hai là kiểm toán hoạt động. Trong nhiều năm, kiểm
toán hoạt động chỉ giới hạn ở việc kiểm soát tài chính sau đó phát triển theo hướng
điều tra, xác minh, đánh giá đối với tất cả các hoạt động khác kể cả hoạt động phi tài
chính. Ngày nay trong rất nhiều tổ chức, cả đơn vị lợi nhuận và phi lợi nhuận, các
KTVNB đều tự nhìn nhận công việc của mình đã vượt xa những hoạt động tài chính
kế toán đơn thuần. Trong lĩnh vực công, Kiểm toán Nhà nước của Canada đã đưa ra
quan điểm về kiểm toán hoạt động như sau: Kiểm toán hoạt động là kiểm tra, xác
nhận và đánh giá tính kinh tế, tính hiệu quả và hiệu lực của các hoạt động, các tác
nghiệp, các chương trình dự án của doanh nghiệp, và các đơn vị thành viên dưới sự
kiểm soát của nhà quản lý và báo cáo cho các cá nhân có liên quan về kết quả của
việc đánh giá, đồng thời đưa ra những kiến nghị để cải tiến.
Kiểm toán liên kết là việc kết hợp các loại hình kiểm toán trên theo những
mục tiêu được chú trọng. Trên cơ sở đánh giá độ tin cậy của thông tin, chất lượng
của hệ thống kiểm soát nội bộ, KTNB tiến hành đánh giá thành tích và hiệu quả của
hoạt động, thành tích và hiệu quả của hoạt động kiểm soát cũng như thành tích và
hiệu quả của hệ thống thông tin quản lý. Trong các tập đoàn kinh tế, nơi mà các nhân
viên thông thường có ít cơ hội được liên hệ trực tiếp với các nhà quản lý cao cấp, thì
chỉ có KTVNB là một trong số ít được trao đổi trực tiếp với nhà quản lý.

Nếu xét theo mục tiêu tiến hành kiểm toán, có thể xem xét đến ba loại hình
kiểm toán sau đây: Kiểm toán thông tin, kiểm toán quy tắc, kiểm toán hiệu quả-hiệu
năng. Kiểm toán thông tin là loại hình kiểm toán hướng đến việc đánh giá độ tin cậy
của thông tin. Với loại hình kiểm toán này, các thông tin được đánh giá thường
hướng đến là các thông tin lượng hóa được. Kiểm toán quy tắc hay còn gọi là kiểm
toán tuân thủ là loại hình kiểm toán để xác định các hoạt động đã thực hiện có tuân
thủ với các hợp đồng, các chính sách của nhà quản lý hoặc luật pháp hay quy định
hiện hành hay không. Loại hình kiểm toán thứ ba là kiểm toán hiệu quả-hiệu năng.
Kiểm toán hiệu quả-hiệu năng liên quan đến việc đánh giá mức độ đạt được các mục
tiêu hoạt động với nguồn lực sử dụng để tạo ra chúng, đánh giá kết quả với mục tiêu
đặt ra. Kiểm toán hiệu quả-hiệu năng ngày càng trở nên quan trọng trong môi trường
kinh doanh biến động không ngừng hiện nay.
1.2. TỔ CHỨC KIỂM TOÁN NỘI BỘ TRONG TẬP ĐOÀN KINH TẾ
1.2.1. Nội dung tổ chứ kiểm toán nội bộ trong tập đoàn kinh tế
Tổ chức KTNB là tập hợp, sắp xếp các yếu tố của KTNB nhằm hướng tới các
23


chức năng cơ bản của KTNB là kiểm tra, xác nhận, đánh giá và tư vấn do các
KTVNB có trình độ nghiệp vụ tương xứng thực hiện dựa trên cơ sở hệ thống pháp lý
đang có hiệu lực cho các đơn vị thành viên trong tập đoàn. Các yếu tố của KTNB vẫn
dựa trên cơ sở chung của kiểm toán là đối tượng kiểm toán, các phương pháp kiểm
toán (kiểm toán cân đối, kiểm toán đối chiếu, đối chiếu lôgíc, đối chiếu trực tiếp,
kiểm kê, thực nghiệm và điều tra... ) và bộ máy kiểm toán. Trong kiểm toán, vấn đề
quan trọng là cần kết hợp các yếu tố này theo một trình tự khoa học, phù hợp với đối
tượng và khách thể kiểm toán trong từng thời kỳ cụ thể.
Tổ chức công tác KTNB hướng đến mục tiêu là tạo ra mối liên hệ khoa học và
nghệ thuật giữa các phương pháp kỹ thuật của kiểm toán mà KTNB áp dụng nhằm
thực hiện chức năng kiểm tra, xác nhận, đánh giá và tư vấn của kiểm toán. Tổ chức
công tác KTNB có thể được thực hiện căn cứ vào yêu cầu thực hiện chức năng kiểm

toán theo từng đối tượng, loại hình kiểm toán, khách thể kiểm toán và thời gian tiến
hành kiểm toán các liên kết trong tập đoàn. Các yếu tố cấu thành phương pháp kiểm
toán bao gồm kiểm toán cân đối, kiểm toán đối chiếu trực tiếp, đối chiếu logíc, kiểm
kê, thực nghiệm và điều tra sẽ trở thành nhận thức của người thực hiện kiểm toán và
cơ chế hoạt động của các phương tiện cấu thành bộ máy kiểm toán.
Tổ chức bộ máy KTNB gồm cả con người và phương tiện chứa đựng các yếu
tố của kiểm toán để thực hiện chức năng KTNB. Tổ chức bộ máy KTNB hướng đến
mục tiêu là tạo ra mối liên hệ qua lại của con người và phương tiện theo một trật tự
xác định. Tổ chức bộ máy KTNB với những mô hình tổ chức và cơ chế hoạt động
linh hoạt nhằm thích ứng với đặc điểm của đối tượng và khách thể kiểm toán trong
các cuộc kiểm toán cụ thể. đặc biệt, đối với KTNB trong tập đoàn kinh tế tổ chức bộ
máy luôn đỏi hỏi đảm bảo cơ chế hoạt động linh hoạt.
Như vậy, tổ chức KTNB trong tập đoàn kinh tế đặt ra yêu cầu xác định các
nguyên tắc trong tổ chức bộ máy, các mô hình tổ chức trong hàng loạt các mối liên
hệ trong và ngoài hệ thống, xác định điều kiện và mục tiêu, phương thức vận hành hệ
thống nhằm đạt được mục tiêu xác định. Giống như mô hình tổ chức nói chung đã
được phân tích ở phần trên, tổ chức KTNB trong tập đoàn kinh tế được cụ thể hóa
trên hai nội dung cơ bản là tổ chức công tác KTNB và tổ chức bộ máy KTNB.
1.2.2. Quy trình tổ chức công tác kiểm toán nội bộ trong tập đoàn kinh tế
Tổ chức công tác KTNB hướng đến mục tiêu là tạo ra mối liên hệ khoa học và
nghệ thuật giữa các phương pháp kỹ thuật của kiểm toán nhằm thực hiện các chức
năng của KTNB là kiểm tra, xác nhận, đánh giá và tư vấn. Mối liên hệ khoa học giữa
các phương pháp kỹ thuật của kiểm toán đòi hỏi KTNB phải xây dựng quy trình tổ
chức công tác KTNB theo quy trình chung của kiểm toán.
24


Phương thức xây dựng quy trình KTNB trong tập đoàn kinh tế mang đặc
trưng riêng: đặc điểm của các tập đoàn là nhóm các doanh nghiệp với các mối liên
kết phức tạp do đó việc xác định phương thức xây dựng quy trình càng trở nên cần

thiết. Thông thường, có thể sử dụng một trong hai phương thức sau để xây dựng quy
trình kiểm toán. Thứ nhất, tập đoàn thành lập bộ phận nghiên cứu và xây dựng quy
trình KTNB cho từng lĩnh vực cụ thể. Thứ hai, tập đoàn tiến hành xây dựng quy trình
KTNB dựa trên kinh nghiệm thực tế của các cuộc kiểm tra, kiểm soát hoặc các cuộc
KTNB đã thực hiện. Căn cứ vào kinh nghiệm thực tế, xác định những công việc và
thủ tục áp dụng phù hợp với thực tế và yêu cầu quản lý. Phương thức này được các
tập đoàn áp dụng rất nhiều do đòi hỏi chi phí không lớn, quy trình KTNB được thay
đổi kịp thời với những thay đổi của tập đoàn. Tuy nhiên, phương thức này có nhược
điểm là chưa thể có ngay được một quy trình KTNB có tính khoa học cao.
Quy trình KTNB trong tập đoàn kinh tế dựa trên quy trình chung của kiểm
toán: Quy trình kiểm toán là trình tự và nội dung cụ thể của các bước công việc của
cuộc KTNB nhằm giúp KTVNB tập hợp đủ thông tin thực hiện chức năng xác nhận,
kiểm tra, đánh giá và tư vấn. Trình tự các bước công việc của KTNB bao gồm lập kế
hoạch kiểm toán, thực hiện kế hoạch kiểm toán, thông báo kết quả kiểm toán (lập
báo cáo hay biên bản kiểm toán) và quá trình giám sát. Bước 1: Chuẩn bị kiểm toán
bao gồm tất cả các công việc khác nhau nhằm tạo được cơ sở pháp lý, lập kế hoạch
kiểm toán cụ thể và các điều kiện vật chất cho công tác kiểm toán. Bước 2: Thực
hiện kế hoạch kiểm toán và việc thực các công việc trong kế hoạch kiểm toán và
chương trình kiểm toán nhằm thực hiện các chức năng của kiểm toán. Bước 3: Lập
báo cáo hay biên bản kiểm toán nhằm đưa ra kết luận của KTNB về đối tượng được
kiểm toán. Bước 4: Là một bước công việc mang đặc trưng riêng của KTNB đó là
theo dõi sau kiểm toán và giám sát việc thực hiện các kết luận của KTNB. Có thể
khái quát quy trình tổ chức công tác KTNB theo sơ đồ sau:
Chuẩn bị kiểm toán
Thực
nộihiện
bộ kế hoạch kiểm toán Kết
nội thúc
bộ kiểm toán
Kiểmnội

trabộ
thực hiện kết luận kiểm toán nội bộ

Sơ đồ 1.2: Quy trình kiểm toán nội bộ
Giai đoạn I: Chuẩn bị KTNB
Ở giai đoạn này, lập kế hoạch KTNB là công việc chủ yếu mà các KTV sẽ tập
trung thực hiện. Lập kế hoạch KTNB là bước công việc đầu tiên của tổ chức công tác
25


×