Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Luận văn ĐƯỜNG LỐI ĐÓI NGOẠI, HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA ĐẢNG TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.58 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HCM
KHOA : LÝ LUẬN & CHÍNH TRỊ

Chủ đề :

Nhóm 11


MỤC LỤC


CHƯƠNG I :

1.

ĐƯỜNG LỐI ĐỐI NGOẠI

Hoàn cảnh lịch sử và quá trình hình thành đường lối :

1.1. Hoàn cảnh lịch sử :
Tình hình thế giới :
– Từ thập kỷ 80, tình hình thế giới có những biến đổi sâu sắc.
+ Cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tác động
đến hầu hết các quốc gia, dân tộc.
+ Các nước XHCN lâm vào khủng hoảng, đến đầu năm 1990 Liên Xô
sụp đổ, trật tự thế giới thay đổi.
+ Các nước đổi mới tư duy về sức mạnh.
+ Xu thế chung của thế giới là hòa bình hợp tác và phát triển.
+ Các nước đang phát triển rất cần mở rộng quan hệ đối ngoại để tranh
thủ các nguồn lực phát triển đất nước.
– Xu thế toàn cầu và tác động của nó.


+ Tích cực : thúc đẩy phát triển sản xuất; vốn, khoa học công nghệ, kinh
nghiệm quản lý…mang lại lợi ích cho các bên tham gia; tăng cường sự
hiểu biết và hợp tác giữa các quốc gia.
+ Tiêu cực : các nước phát triển thao túng; tạo sự bất bình đẳng quốc tế;
gia tăng sự phân cực giàu nghèo…
– Khu vực Châu Á- Thái Bình Dương.
+ Tuy có bất ổn nhưng đây vẫn là khu vực được đánh giá khá ổn định.
+ Đây là khu vực có tiềm lực và khá năng động về phát triển kinh tế.
+ Xu thế hòa bình hợp tác trong khu vực phát triển.
– Yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam.
+ Phá thế bị bao vây, cấm vận.
+ Tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế.

1.2. Quá trình hình thành :
- Giai đoạn 1986-1996 : xác lập và phát triển đường lối đối ngoại độc
lập tự chủ, mở rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế.
+ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (12-1986): trên cơ sở nhận thức
đặc điểm nổi bật của thế giới là cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật đang
diễn ra mạnh mẽ, đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa lực lượng sản xuất,
Đảng ta nhận : “ Xu thế mở rộng phân công, hợp tác giữa các nước, kể cả


các nước có chế độ kinh tế - xã hội khác nhau, cũng là những điều kiện
rất quan trọng, đối với công cuộc xây dưng CNXH của nước ta”. Từ đó,
Đảng chủ trương phải biết kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thơi
đại trong điều kiện mới và đề ra yêu cầu mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế
với các nước ngoài hệ thống XHCN, với các nước công nghiệp phát triển,
các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên tắc bình đẳng,
cùng có lợi.
+ Để triển khai chủ trương của Đảng, 12-1987, Luật đầu tư nước ngoài

tại Việt Nam được ban hành, tạo cơ sở pháp lý cho các hoạt động trực
tiếp nước ngoài vào Việt Nam mở cửa để thu hút nguồn vốn, thiết bị và
kinh nghiệm tổ chức quản lý sản xuất, kinh doanh phục vụ công cuộc xây
dựng, phát triển đất nước.
+ 5-1988 Bộ chính trị ra Nghị quyết 13 về nhiệm vụ và chính sách đối
ngoại trong tình hình mới, đề ra chủ trương kiên quyết chủ động chuyển
cuộc đấu tranh từ tình trạng đối đầu sang đấu tranh và hợp tác trong cùng
tồn tại hòa bình; lợi dụng sự phát triển của KH-KT và xu thế toàn cầu hóa
nền kinh tế thế giới để tranh thủ vị trí có lợi nhất trong phân công lao
động quốc tế; kiên quyết mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế,ra sức đa dạg
hóa kinh tế đối ngoại; là mốc khởi đầu của quá trình đổi mới tư duy, nhận
thức và đường lối đối ngoại của Đảng ta.
• Củng cố và giữ vững hòa bình để tập trung sức xây dựng và phát triển
kinh tế. Mở rộng hợp tác quốc tế, ra sức đa dạng hóa quan hệ đối ngoại.
• Đặt nền móng hình thành đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng
mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế.
+ Về kinh tế đối ngoại : Từ 1989 Đảng chủ trương xóa bỏ tình trạng độc
quyền trong sản xuất và kinh doanh và xuất nhập khẩu. Bước đầu tiên đổi
mới trên lĩnh vực đối ngoại. Nghị quyết nhận định rằng, tình trạng kinh tế
yếu kém, tình thế bị bao vây về kinh tế và cô lập về chính trị sẽ thành
nguy cơ lớn đối với an ninh và độc lập dân tộc. Từ đó, đề ra nhiệm vụ ra
sức tranh thủ các nước anh em, bè bạn và dư luận rộng rãi trên thế giới,
phân hóa hàng ngũ đối phương, làm thất bại âm mưu cô lập ta về kinh tế
và chính trị; chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ trạng thái đối đầu sang
đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hòa bình; ra sức lợi dụng sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học - kỹ thuật và xu thế quốc tế hóa cao của kinh


tế thế giới, đồng thời tranh thủ vị trí tối ưu trong phân công lao động
quốc tế.

+ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6-1991) của Đảng đề ra chủ
trương “ hợp tác bình đẳng và̀ cùng có lợi với tất cả các nước, không
phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên tắc
cùng tồn tại hòa bình”. Với phương châm: “ Việt Nam muốn làm bạn với
tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hòa bình, độc lập
và phát triển”.
+ Các hội nghị trung ương khóa VII tiếp tục cụ thể hóa quan điểm của
Đại hội đại biểu lần thứ VII, cụ thể:
• Hội nghị Trung ương 3 ban chấp hành trung ương khóa VII (6-1992)
đã ra Nghị quyết chuyên đề về công tác đối ngoại. Nghị quyết xác định rõ
nhiệm vụ công tác đối ngoại, tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại, các
phương châm xử lý, các vấn đề quan hệ quốc tế; đề ra chủ trương mở
rộng, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế. Mở rộng cửa đẻ tiếp
thu vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý, môi trường, hạn chế đến mức
tối thiểu những mặt tiêu cực phát sinh trong quá trình mở cửa.
• Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (1–1994) chủ
trương triển khai mạnh mẽ và đồng bộ đường lối đối ngoại độc lập tự
chủ, rộng mở, đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ đối ngoại
- Giai đoạn 1996 – 2011 : bổ sung và phát triển đường lối đối ngoại theo
phương châm chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Đại hội lần thứ VIII của Đảng (6-1996) khẳng diịnh tiếp tục mở rộng
quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt với các nước, các trung tâm kinh tế,
chính trị khu vực và quốc tế. Đồng thời chủ trương “ xây dựng nền kinh
tế mở ” và : đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới.
So với Đại hội toàn quốc lần thứ VII, chủ trương đối ngoại Đại hội VIII
có các điểm mới sau:
Một là: Chủ trương mở rộng quan hệ với các Đảng cầm quyền và các
Đảng khác.
Hai là: Quán triệt yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại nhân dân, quan hê
với các tổ chức phi Chính P̣hủ.

Ba là: Đảng chủ trương thử nghiệm để tiến tới thực hiện đầu tư ra nước
ngoài.
+ Cụ thể hóa Đại hội VIII, Nghị quyết Hội nghị lần tư Ban chấp hành
trung ương khóa VIII (12-1997) chỉ rõ :trên cơ sở phát huy nội lực, thực


hiện nhất quán, lâu dài chíh sách thu hút các nguồn lựuc bên ngoài. Nghị
quyết đề ra nghị quyết chủ trương tiến hành khẩn trương, vững chắc đàm
phán Hiệp định thương mại với Mỹ, gia nhập APEC và WTO.
+ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (4-2001), Đảng ta nhận
định : thực hiện đường lối đổi mới toàn diện từ 1986 đến 2001, khẳng
định Đảng và Nhà nước ta tiếp tục thực hiện nhất quán đường lối đối
ngoại đó với một tinh thần mạnh mẽ hơn và một tâm thế chủ động hơn
bằng tuyên bố “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển”. ,
Đảng nêu rõ quan điểm về xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết
là độc lập tự chủ về đường lối, chính sách, đồng thời có kinh tế đủ mạnh.
+ Tháng 11-2001 Bộ chính trị ra Nghị quyết 07 về Hội nhập kinh tế quốc
tế. Nghị Quyết đề ra 9 nhiệm vụ cụ thể và 6 biện pháp tổ chức thực hiện
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Hội nghị lần thứ 9 Ban chấp hành trung ương khóa IX (5-1-2004) nhấn
mạnh yêu cầu chuẩn bị tốt các điều kiện trong nước để sớm gia nhập tổ
chức thương mại thế giới (WTO); kiên quyết đấu tranh với mọi biểu hiện
của các lợi ích cục bộ làm kìm hãm tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
- Đại hội X của Đảng (4-2006) đã khẳng định: “Thực hiện nhất quán
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; chính
sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc
tế. Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp
tác quốc tế trên các lĩnh vực khác. Việt Nam là bạn, đối tác tin cậy của
các nước trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp

tác quốc tế và khu vực”.
• Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế
• Tích cực hội nhập kinh tế quốc tế
• Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế phải là ý chí, quyết tâm
của Đảng, Nhà nước, toàn dân, của mọi doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế và toàn xã hội.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (1-2011), nhận định
tình hình trong nước “ Những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi
mới (1986-2011) đã tạo ra cho đất nước lực và thế, sức mạnh tổng hợp
lớn hơn nhiều so với trước…Tuy nhiên, nước ta đứng trước nhiều
thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức
tạp, không thể coi thường thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về


kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và thế giới vẫn tồn tại”. Nghị
quyết đề ra chủ trương “ triển khai đồng bộ, toàn diện, hiệu quả các
hoạt động đối ngoại, tích cực và chủ động hội nhập quốc tế”.
CHƯƠNG II :
NỘI DUNG ĐƯỜNG LỐI ĐÓI NGOẠI, HỘI NHẬP
QUỐC TẾ CỦA ĐẢNG TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI.

1.
1.1.

Mục tiêu, nhiệm vụ và tư tưởng chỉ đạo:
Cơ hội và thách thức :
- Cơ hội:
+ Xu thế hòa bình, hợp tác phát triển và xu thế toàn cầu tạo thuận lợi cho
nước ta mở rộng quan hệ đối ngoại, hợp tác phát triển kinh tế.
+ Công cuộc đổi mới tạo thế và lực mới.

- Thách thức:
+ Những vấn đề toàn cầu như : phân hóa giàu nghèo, dịch bệnh, tội phạm
xuyên quốc gia... gây bất lợi đối với nước ta.
+ Kinh tế Việt Nam phải chịu sức ép cạnh tranh gay gắt trên cả ba cấp độ:
sản phẩm, doanh nghiệp, quốc gia, những biến động trên thị trường quốc
tế sẽ tác động nhanh và mạnh hơn đến thị truòng trong nước, tiềm arn
nguy cơ gây rối loạn, thậm chí khủng hoảng kinh tế - tài chính.
+ Các thế lực thù địch chống phá.
 Những cơ hội và thách thức nêu trên có mối quan hệ, tác động qua lại,
có thể chuyển hóa lẫn nhau.

1.2. Mục tiêu và nhiệm vụ đối ngoại :
-

Mục tiêu đối ngoại:

+ Giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, tạo các điều kiện quốc tế thuận
lợi để phát triển kinh tế- xã hội.
+ Mở rộng đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Thêm nguồn lực xây dựng đất nước.
+ Kết hợp nội lực với nguồn lực bên ngoài lực để CNH, HĐH đất nước.
+ Nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
-

Nhiệm vụ đối ngoại: Giữ vững môi trường hòa bình, tạo điều kiện
quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội.


1.3. Tư tưởng chỉ đạo:
Quán triệt đầy đủ, sâu sắc các quan điểm:


+ Đảm bảo lợi ích dân tộc chân chính, thực hiện nghĩa vụ quốc tế theo
khả năngcủa Việt Nam.
+Giữ vững độc lập, tự chủ đi đôi với tự lực tự cường đẩy mạnh đa
phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại.
+ Nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế.
+ Mở rộng quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ thổ trên thế giới,
không phân biệt chế độ chính trị xã hội.
+ Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế- xã hội; cố gắng thúc đẩy mạt hợp
tác.
+ Mở rộng mối quan hệ với mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thê giới,
không phân biệt chế độ chính trị xã hội. Coi trọng quan hệ hòa bình, hợp
tác khu vực.
+ Phát huy tối đa nội lực, thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn lực bên
ngoài, xây dứng nền kinh tế độc lập tự chủ
+ Giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, vai trò của Nhà nước,
Mặt trận và các đoàn thể quần chúng.

2.

Một số chủ trương, chính sách lớn về mở rộng quan hê đối ngoại, hội
nhập kinh tế quốc tế :
- Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định, bền
vững.
+Hội nhập sâu sắc và đầy đủ vào nền kinh tế thế giới nước ta sẽ có địa vị
bình đẳng với các thành viên khác.
+ Có điều kiện thuận lợi để đấu tranh bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp.
- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế theo lộ trình phù hợp.
+ Tận dụng các ưu đãi WTO dành cho.
+ Hội nhập từng bước, dần dần mở rộng thị trường theo lộ trình hợp lý.

- Bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật và thể chế kinh tế phù hợp với
các nguyên tắc, quy định của WTO.
- Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả, hiệu lực của bộ máy
nhà nước.
- Nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm trong
hội nhập kinh tế quốc tế.


- Giải quyết tốt các vấn đề văn hóa – xã hội và môi trường trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế.
+ Bảo vệ và phát huy các giá tị văn hóa dân tộc trong quá trình hội nhập.
+Xây dựng cơ chế kiểm soát và chế tài xử lý sự xâm nhập của các sản phẩm
và dịch vụvăn hóa không lành mạnh.
+Kết hợp hài hòa giữa giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống
với tiếp thu có chọn lọc các văn hóa tiên tiến.
-Xây dựng và vận hành có hiệu quả mạng lưới an sinh xã hội.
- Giữ vững và tăng cường QP – AN trong quá trình hội nhập.
- Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và
đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại.
- Đổi mới tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối
với các hoạt động đối ngoại.

3.

Thành tựu, ý nghĩa, hạn chế, nguyên nhân :

3.1. Thành tự và ý nghĩa :
-

Thành tựu :


+ Phá thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng môi trường
QT thuận lợi cho sự nghiệp XD và bảo vệ tổ quốc.
+ Giải quyết hòa bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các
nước liên quan.
+ Mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa
hoá (thiết lập, mở rộng quan hệ với các nước, tham gia tích cực tại Liên
hợp quốc…) .
+ Tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế (tham gia AFTA, APEC, WTO).
+ Thu hút đầu tư nước ngoài, mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học công
nghệ và kỹ năng quản lý.
+ Từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào
môi trường cạnh tranh.
-

Ý nghĩa :

+ Kết hợp nội lực với ngoại lực, hình thành sức mạnh tổng hợp góp phần
đưa đến những thành tựu kinh tế to lớn.
+ Giữ vững, củng cố độc lập tự chủ, định hướng xã hội chủ nghĩa
+ Nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.


3.2. Hạn chế và nguyên nhân :
+ Trong quan hệ với các nước lớn còn lúng túng, bị động, tùy thuộc lẫn
nhau với các nước lớn.
+ Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm đổi mới so với yêu cầu mở
rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế.
+ Hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, không đồng bộ gây khó khăn
trong việc thực hiện các cam kết của tổ chức quốc tế.

+ Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể đồng bộ và dài hạn về hội
nhập kinh tế quốc tế và một lộ trình hợp lý cho việc thực hiện các cam
kết.
+ Các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu cả về sản xuất, quản lý và cạnh
tranh; trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trình độ trang thiết bị lạc hậu;
kết cấu hạ tầng và các ngành dịch vụ cơ bản phụ vụ sản xuất kinh doanh
đều yếu kém và chi phí cao hơn các nước khác trong khu vực.
+ Đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại nhìn chung chưa đáp ứng được
nhu cầu cả về số lượng lẫn chất lượng. Cán bộ doanh nghiệp ít hiểu biết
về pháp luật quốc tế, về kỹ thuật kinh doanh.
 Quá trình thực hiện đường lối đối ngoại, hội nhập kinh tế quốc tế từ năm

1986 đến 20011 mặc dù còn những hạn chế nhưng thành tự cơ bản, có ý
nghĩa rất quan trọng : góp phần đưa đấ t nước ra khỏi khủng hoảng kinh
tế xã hội, nền kinh tế Việt Nam có bước phát triển mới, thế và lực của
Việt Nam được nâng cao trên trường quốc tế. Các thành tựu đối ngoại
trong 20 năm qua đã chứng minh đường lối đối ngoại, hội nhậ kinh tế
quốc tế của Đảng và nhà nước trong thời kỳ đổi mới là đúng đắn và sáng
tạo.
CHƯƠNG III : THỰC TIỄN VÀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA VIỆT
NAM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY.
- Trong thế kỉ 21, toàn cầu hóa tiếp tục phát triển sâu rộng và tác động
tới tất cả các nước
- Hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, phản ánh đòi hỏi bức
xúc của các quốc gia, dân tộc trong quá trình phát triển.


Tuy nhiên, các cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột vũ trang, xung đột
dân tộc, tôn giáo, chạy đua vũ trang, hoạt động can thiệp lật đổ xảy ra
ở nhiều nơi với tính chất và hình thức ngày càng đa dạng và phức tạp.

- Sau gần hai thập kỷ tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, thế và lực
của nước đã lớn mạnh lên nhiều.
+ Chúng ta có lợi thế lớn là tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn
định.
+ Môi trường hòa bình, sự hợp tác, liên kết quốc tế và những xu thế
tích cực trên thế giới tiếp tục tạo điều kiện để Việt Nam phát huy nội
lực và lợi thế so sánh, tranh thủ ngoại lực.
- Tuy nhiên, chúng ta cũng đang phải đối mặt với nhiều thách thức rất
lớn. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã từng chỉ rõ tại Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VIII năm 1996 là tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều
nước trong khu vực và trên thế giới, chệch xã hội chủ nghiã, nạn tham
những và tệ nạn quan liêu, diễn biến hòa bình do các thế lực thù địch
gây ra đến nay vẫn còn tồn tại và diễn biến phức tạp, đan xen và tác
động lẫn nhau.
- Đảng và Nhà nước Việt Nam tiếp tục kiên trì thực hiện đường lối đối
ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ
quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm “ Việt Nam sẵn
sàng là bạn và là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng
thế giới phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. ”
- Trong tiến trình hội nhập này, Việt Nam đặt ưu tiên cao cho việc mở
rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, mở rộng và đa dạng hóa thị trường,
tranh thủ vốn, kinh nghiệm quản lý và khoa học công nghệ tiên tiến
cho sự nghiêp công nghiệp.
Những nổ lực này của Việt Nam thể hiện rõ tinh thần trách nhiệm của
mình đối với bạn bè ở khu vực và quốc tế, góp phàn vào sự nghiệp chung
của nhân dân thế giới vì hòa bình, ổn định và phát triển.
-




CHƯƠNG IV : ĐƯỜNG LỐI, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG TA TRONG
VẤN ĐỀ BIỂN ĐÔNG
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Thực lực là cái chiêng,
ngoại giao là cái tiếng. Cái chiêng có to, tiếng mới lớn”. Nội lực là nhân tố quyết
định sức mạnh của đất nước, cùng với đó ngoại giao chính là yếu tố quan trọng tạo


nên địa vị, vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Nhận thức được tầm quan trọng
đó, Đảng ta luôn quan tâm và đề ra chủ trương, đường lối đối ngoại đúng đắn, phù
hợp qua từng thời kì. Trong giai đoạn hiện nay, đất nước đang đứng trước những
vận hội cũng như thách thức mới, trong quá trình hoạch định và lãnh đạo thực hiện
đường lối ngoại giao, Đảng ta cần quán triệt các vấn đề có tính nguyên tắc, đồng
thời cần linh hoạt, sáng tạo để giải quyết những vấn đề đặt ra cho đất nước, nhất là
vấn đề biên giới lãnh thổ mà hiện nay vấn đề cấp bách là tranh chấp ở khu vực biển
Đông.
Thực tiễn cho thấy hơn 80 năm qua, Đảng ta luôn khẳng định quan điểm nhất quán
về đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, sáng tạo, phát huy nội lực, tranh thủ ngoại
lực, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong mọi hoàn cảnh, điều
kiện khác nhau. thúc đẩy giải quyết những vấn đề còn tồn tại về biên giới, lãnh
thổ, ranh giới biển và thềm lục địa với các nước liên quan, trên cơ sở các nguyên
tắc cơ bản của luật pháp quốc tế và nguyên tắc ứng xử của khu vực; làm tốt công
tác quản lý biên giới, xây dựng đường biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác cùng
phát triển.
Như vậy, đường lối đối ngoại xuyên suốt của Việt Nam là độc lập, tự chủ, vì
hòa bình, hợp tác và phát triển. Với tinh thần đó, khi giải quyết vấn đề liên quan
đến biên giới lãnh thổ, Đảng và Nhà nước ta luôn kiên định bảo vệ lợi ích quốc gia,
lợi ích dân tộc lên trên hết và cố gắng tìm giải pháp hòa bình có thể.
Vừa qua, Trung Quốc đưa giàn khoan nước sâu cùng với lực lượng tàu hùng
hậu, thời điểm cao điểm lên tới hơn 100 tàu, trong đó có cả tàu có vũ trang, tàu
quân sự và máy bay hộ tống đi vào vùng biển Việt Nam và đã hạ đặt giàn khoan

này tại vị trí nằm sâu trên 80 hải lý trong Thềm lục địa và vùng Đặc quyền Kinh tế
của Việt Nam. Các hành động phun vòi rồng có cường độ mạnh, dùng tàu đâm vào
tàu công vụ và dân sự của Việt Nam đã khiến nhiều tàu hư hại, và gây thương tích.
Đây là hành động vi phạm chủ quyền biên giới lãnh thổ của Việt Nam, vi phạm
Luật pháp Quốc tế, UNCLOS, DOC và đe dọa đến hòa bình, ổn định, an ninh và an
toàn hàng hải ở Biển Đông. Những việc làm sai trái và lời lẽ ngang ngược, phía
Trung Quốc đã lộ rõ ý đồ từng bước chiếm biển Đông, hiện thực hóa yêu sách
“đường lưỡi bò”, bành trướng, bá quyền trong khu vực và thế giới.
Trước tình hình phức tạp của vấn đề biển Đông, quán triệt Nghị quyết Đại
hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta đã có đường lối đối ngoại khôn khéo, mềm mỏng
nhưng kiên quyết, lấy độc lập, tự chủ là yếu tố hàng đầu để giải quyết mọi vấn đề.
Cụ thể:


Cần phải ứng phó một cách kiên quyết, bền bỉ, linh hoạt, tuân thủ luật pháp
quốc tế, nhằm giữ được chủ quyền của ta, môi trường hòa bình, ổn định để phát
triển đất nước vừa duy trì được cục diện quan hệ với Trung Quốc.
Cần tiếp tục chủ động, kiên trì đẩy mạnh đồng bộ đấu tranh trên thực địa, đấu
tranh ngoại giao, công tác thông tin tuyên truyền và đấu tranh dư luận tăng cường
sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng và trong nhân dân; đồng thời tranh thủ cao nhất sự
ủng hộ quốc tế đối với chủ quyền lãnh thổ của ta, lập trường chính nghĩa của ta.
Để thực hiện đường lối đối ngoại đó, Việt Nam đã có nhiều biện pháp đấu
tranh quyết liệt. Qua các cuộc tiếp xúc, điện đàm, cũng như trong nội dung Công
hàm của Bộ Ngoại giao, ta đã kiên quyết phản đối Bộ Ngoại giao Trung Quốc, bác
bỏ quan điểm, hành vi sai trái của phía Trung Quốc, khẳng định và nhấn mạnh khu
vực Giàn khoan Hải Dương-981 và các tàu của Trung Quốc hoạt động nằm hoàn
toàn trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam; hoạt động của
Giàn khoan và các tàu bảo vệ của Trung Quốc đã xâm phạm nghiêm trọng chủ
quyền và quyền tài phán quốc gia của Việt Nam được quy định trong Công ước
Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982, vi phạm Tuyên bố về ứng xử của các bên ở

biển Đông 2002 (DOC), vi phạm Thỏa thuận về các nguyên tắc cơ bản chỉ đạo giải
quyết vấn đề trên biển giữa Việt Nam và Trung Quốc. Việt Nam yêu cầu Trung
Quốc rút ngay giàn khoan và các tàu ra khỏi vùng biển của Việt Nam. Và Việt Nam
có đầy đủ cơ sở pháp lý, chứng cứ lịch sử khẳng định chủ quyền không thể tranh
cãi của Việt Nam đối với quần đảo Hoàng Sa; quyền chủ quyền, quyền tài phán đối
với vùng kinh tế đặc quyền và thềm lục địa được xác định phù hợp với Công ước
Liên Hợp Quốc về Luật Biển năm 1982. Đề nghị hai bên giải quyết tranh chấp
thông qua đàm phán và các biện pháp hòa bình phù hợp luật pháp quốc tế, bao gồm
Hiến chương Liên hợp quốc và Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển. Mặt
khác, chúng ta tích cực hợp tác với các nước trong khu vực để tìm tiếng nói chung,
cùng tìm ra giải pháp giải quyết và mục tiêu trước hết là đoàn kết giữa các nước
trong vấn đề tranh chấp biển Đông trước sự gây hấn ngày càng hung hăng của
Trung Quốc. Việc hợp tác không chỉ trên lĩnh vực ngoại giao mà còn trên nhiều
lĩnh vực khác. Vì Đảng và Nhà nước ta hiểu rõ ảnh hưởng, tổn thất mà chiến tranh
gây ra cho nhân dân ta trong hai cuộc chiến tranh cứu quốc. Tuy nhiên, không thể
chỉ giải quyết vấn đề trên bằng con đường ngoại giao, mặt khác chúng ta tích cực
tăng cường tiềm lực quân sự, quốc phòng, an ninh nhằm bảo vệ vững chắc chủ
quyền toàn vẹn lãnh thổ.


Hiện nay chúng ta vẫn tiếp tục giải quyết vấn đề tranh chấp biển Đông bằng đường
lối đối ngoại. Điều này giúp chúng ta tranh thủ được sự ủng hộ của quốc tế, tạo ra
sức mạnh ngoại lực để có thể giải quyết vấn đề bằng giải pháp hòa bình trên cơ sở
tôn trọng độc lập dân tộc. Bên cạnh các hoạt động đối ngoại tích cực như trên,
trong công tác đối nội chúng ta cũng cần phải bình tĩnh, tỉnh táo, tránh các hoạt
động quá khích, vượt ngoài tầm kiểm soát, tạo cớ cho các thế lực bên ngoài xuyên
tạc, công kích ta. Đồng thời tăng cường công tác đối ngoại nhân dân, đưa tin về
phản ứng của các tổ chức quần chúng, cung cấp thông tin và vận động bạn bè quốc
tế phản đối các hành vi sai trái của Trung Quốc, ủng hộ lập trường của Việt Nam.
Cung cấp thông tin có định hướng cho các tổ chức chính trị xã hội, đoàn thể, góp

phần tạo sự đồng thuận, niềm tin vào các chủ trương, chính sách nhất quán của
Đảng, Nhà nước ta đối với việc bảo vệ chủ quyền biển đảo thiêng liêng của Tổ
quốc. Tăng cường công tác giáo dục thế hệ trẻ về chủ quyền an ninh quốc gia
thông qua nhiều hình thức hiệu quả hơn. Trước xu hướng toàn cầu hóa, việc nâng
cao nhận thức, tư duy và tình cảm của thế hệ trẻ về tình yêu đất nước và tinh thần
dân tộc càng đóng vai trò quan trọng đối với việc bảo vệ chủ quyền an ninh quốc
gia.
Bên cạnh đó, đây cũng chính là thời điểm mà Việt Nam cần đẩy mạnh công
tác giáo dục thế hệ trẻ về chủ quyền của Việt Nam tại Biển Đông thông qua nhiều
biện pháp hữu hiệu hơn như tổ chức theo định kỳ các hội nghị, hội thảo, diễn đàn
và thi viết bài về Biển Đông ở các trường học, ở các cơ sở Đoàn Thanh niên, Hội
Học sinh sinh viên, các buổi sinh hoạt chính trị, thi tìm hiểu về Trường Sa, Hoàng
Sa trên các phương tiện thông tin đại chúng. Các phương tiện truyền thông cũng
cần tăng cường công tác giáo dục tuyên truyền giúp thế hệ trẻ hiểu biết sâu sắc hơn
về Biển Đông, đồng thời cung cấp thông tin đầy đủ và kịp thời nhằm tránh tình
trạng bàng quan, mơ hồ trước những diễn biến chính trị, kinh tế - xã hội, quốc
phòng, an ninh của đất nước.



×