Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

mô hình tổ chức quyền lực của quốc gia pháp tiểu luận cao học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.54 KB, 14 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
“Quyền lực chính trị” là phạm trù cơ bản, giữ vị trí trung tâm trong hệ thống
những khái niện và phạm trù của Chính trị học. Chính từ vị trí của “quyền lực
chính trị” có thể thấy Chính trị học là khoa học về các quy luật và tính quy luật
trong cuộc đấu tranh giai cấp xoay quanh việc đạt tới và thực thi quyền lực chính
trị trong xã hội được tổ chức thành nhà nước. Nói gọn lại Chính trị học là khoa học
về cuộc đấu tranh giàn, giữ và thực thi quyền lực chính trị.
Đã là người sống trong xã hội có giai cấp thì ai cũng tham gia vào và chịu
sự chi phối của quyền lực chính trị. Xã hội ngày càng phát triển thì quyền lực
chính trị ngày càng phong phú, phức tạp và tác động ngày càng sâu sắc tới đờ sống
mỗi con người cũng như cả cộng đồng. Điều ấy là một trong các nguyên nhân thúc
đẩy con người tìm hiểu ngày càng cặn kẽ về quyền lực cũng như hệ thống tổ chức
quyền lực chính trị như : Chủ thể và khách thể của quyền lực chính trị; quá trình
kình thành (hoặc đạt tới) và biến đổi của quyền lực chính trị; cấu trúc của quyền
lực chính trị; phương thức (phương tiện hay công cụ và cách thức sử dụng các
phương tiện) thực hiện quyền lực chính trị.
Bài tiểu luận của tôi sau đây xin sưu tầm và đóng góp những hiểu biết và
kiến thức về mô hình tổ chức quyền lực của quốc gia Pháp.


B. NỘI DUNG
I.

Khái quát chung
1.

-

Mô hình tổ chức quyền lực chính trị:

KN:


Quyền lực chính trị là quyền quyết định, định đoạt những vấn đề, công việc
quan trọng về chính trị, tổ chức và hoạt động để bảo đảm sức mạnh thực hiện
quyền lực ấy của một giai cấp, một chính đảng, tập đoàn xã hội nhằm giành hoặc
duy trì quyền lãnh đạo; định đoạt, điều khiển bộ máy nhà nước; xây dựng phát
triển kinh tế xã hội trong một quốc gia và quan hệ chính trị - kinh tế - ngoại giao
với các nhà nước khác và tổ chức quốc tế khu vực và trên thế giới, bảo đảm chiều
hướng phát triển quốc gia phù hợp với lý tưởng giai cấp.
Hệ thống tổ chức quyền lực là hệ thống các tổ chức chính trị-xã hội, các
đảng chính trị hợp pháp và nhà nước cùng các quan hệ tác động qua lại giữ các yếu
tố đó nhằm tham gia váo quá trình hình thành các chính sách nhà nước, thực thi
các quyền lực chính trị nhằm đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội và
bảo đảm quyền thống trị của giai cấp thống trị hoặc quyền làm chủ của nhân dân
lao động (trong các nước XHCN).
- KQ :
Hệ thống tổ chức quyền lực chính trị ở các nước tư bản chủ nghĩa và các
nước xã hội chủ nghĩa cũng như ở mỗi nước khác nhau không hoàn toàn giống
nhau, tuy nhiên về cơ bản bao gồm: Đảng chính trị, nhà nước và tổ chức chính trịxã hội. Đây chính là hệ thống các chủ thể cơ bản của quyền lực chính trị với tư
cách tổ chức, đồng thời là cơ chế thực thi quyền lực chính trị của giai cấp cầm
quyền.
2.

Sơ lược về nước Pháp:

Cộng hòa Pháp (tiếng Pháp: République française), gọi tắt là Pháp, là
một quốc gia nằm tại Tây Âu, có một số đảo và lãnh thổ nằm rải rác trên nhiều lục


địa khác (ngày xưa nước Pháp còn được gọi là Phú Lãng Sa hoặc Tây).
Pháp có biên giới với Bỉ, Luxembourg, Đức, Thuỵ Sĩ, Ý, Monaco, Andorra
và Tây Ban Nha. Tại một số lãnh thổ hải ngoại của họ, Pháp có chung biên giới

trên bộ với Brasil, Suriname và Antilles Hà Lan. Pháp còn được nối với Anh
Quốc qua Đường hầm Eo biển, chạy dưới Eo biển Anh .
Pháp là một nước dân chủ theo thể chế cộng hòa bán tổng thống trung ương
tập quyền (unitary semi-presidential republic). Quốc gia này là một nước công
nghiệp, có nền kinh tế lớn thứ năm trên thế giới. Những giá trị quan trọng của thể
chế này được thể hiện trong bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1789.
Pháp là một trong những nước sáng lập Liên minh châu Âu và đồng thời
cũng là quốc gia lớn nhất trong khối này tính theo diện tích, nằm trong khu vực
đồng euro và khối Schengen. Pháp là một thành viên sáng lập các tổ
chức NATO và Liên Hiệp Quốc, và là một trong năm thành viên có ghế thường
trực trong Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Pháp cũng là một trong bảy quốc gia
trên thế giới được công nhận là có vũ khí hạt nhân.


Về Chính phủ và Chính trị:

- Hiến pháp của Pháp được thông qua sau cuộc trưng cầu dân ý ngày 28
tháng 9, 1958. Hiến pháp mở rộng to lớn quyền lực hành pháp so với Nghị viện.
Theo hiến pháp, Tổng thống Cộng hòa Pháp được bầu cử theo quy tắc phổ thông
đầu phiếu với nhiệm kỳ 5 năm (trước kia là 7 năm). Sự phân xử của Tổng thống
đảm bảo hoạt động thường xuyên của các cơ cấu quyền lực công cộng và tính liên
tục của quốc gia. Tổng thống đề cử thủ tướng, là người cầm đầu nội các, các chỉ
huy các lực lượng vũ trang, và ký kết các hiệp ước.
- Nghị viện Pháp theo chế độ lưỡng viện gồm Quốc hội và Thượng viện. Các
đại biểu Quốc hội đại diện cho các khu vực bầu cử địa phương và được bầu trực
tiếp với nhiệm kỳ 5 năm. Quốc hội có quyền bãi miễn chính phủ, và vì thế phe


chiếm đa số trong Quốc hội sẽ quyết định sự lựa chọn chính phủ. Các thượng nghị
sĩ được lựa chọn bởi theo bầu cử với nhiệm kỳ 6 năm (trước kia là 9 năm), và một

nửa số ghế được bầu lại sau mỗi 3 năm bắt đầu từ tháng 9, 2008.
- Quyền lực lập pháp của Thượng viện bị giới hạn: trong trường hợp có sự
bất đồng giữa hai viện, Quốc hội sẽ là bên có tiếng nói cuối cùng, ngoại trừ đối
với các luật hiến pháp (những sửa đổi hiến pháp & "lois organiques"). Chính phủ
có ảnh hưởng lớn trong việc đưa ra chương trình nghị sự của nghị viện.
- Trong ba mươi năm qua, chính trị Pháp có đặc trưng bởi sự đối đầu chính
trị giữa hai phe: cánh tả, tập trung quanh Đảng Xã hội chủ nghĩa Pháp (Parti
socialiste), một đảng trung tả, và cánh hữu, quanh Đảng Tập hợp vì nền Cộng hoà
(RPR) và hậu duệ của nó là Union pour un Mouvement Populaire (UMP), một
đảng trung hữu theo chủ nghĩa bảo thủ. Đảng Pháp cánh hữu đã có bước phát triển
lớn đầu thập kỷ 1980 khi lợi dụng sự lo ngại của cử tri về sự thụt lùi của đất nước,
sự 'tan rã quốc gia' kết quả của quá trình nhập cư và toàn cầu hóa hô hào ủng hộ
những bộ luật nhập cư khắt khe hơn. Sau này số lượng cử tri ủng hộ họ dừng ở
mức ổn định khoảng 16%.
- Chính sách đối ngoại của Pháp được hình thành phần lớn với tư cách
thành viên Liên minh Châu Âu. Ngày 29 tháng 5, 2005 cử tri Pháp đã bỏ phiếu
trong cuộc trưng cầu dân ý với khoảng 55% số phiếu phản đối phê chuẩn Hiệp
ước thành lập Hiến pháp chung Châu Âu. Kết quả cuộc bầu cử được dư luận rộng
rãi coi là mang tính quan trọng lớn với tương lai phát triển của Liên minh Châu
Âu, cũng như khả năng giữ vai trò lãnh đạo của Pháp ở Châu Âu.

II.

Mô hình tổ chức quyền lực chính trị của Pháp

1.Mô hình “tam quyền phân lập”


Nét nổi bật trong mô hình tổ chức quyền lực ở Pháp nói riêng và các nước tư
bản chủ nghĩa nói chung là nó được xây dựng dựa trên mô hình tam quyền phân

lập.
Lịch sử ra đời của “Tam quyền phân lập”:
Trước chế độ dân chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa, mọi quyền lực nhà
a.

nước đều tập trung vào trong tay một cá nhân. Chính đây là căn nguyên cho mọi
hành vi độc tài, chuyên chế của các công việc nhà nước. Vì vậy, muốn chống chế
độ này, một lý thuyết của nhiều học giả tư sản đã được nêu ra, đó là thuyết phân
chia quyền lực.
Cội nguồn của tư tưởng phân quyền đã có từ thời cổ đại ở Phương Tây mà
điển hình là nhà nước Cộng hòa La Mã. Cộng hòa La Mã hàng năm đã bầu lãnh
sự đã được lựa chọn bởi một cơ thể của công dân, Thượng viện quản lý pháp luật,
nghị định được ban hành bởi các viên chức lãnh sự và ban hành nghị quyết về
những vấn đề quan trọng và cũng tham gia vào các quan hệ đối ngoại, và các hội
đồng đã được thực hiện bởiCông dân có vai trò khác nhau trong chính phủ.Các
viên chức lãnh sự phụ trách của chính phủ và của quân đội. Có 300 công dân
Thượng viện khuyên họ ở tất cả các lần. Trong lịch sử của Cộng hòa La Mã
Thượng viện luôn luôn là nhóm mạnh nhất. Chỉ có Đại hội có thể chấp thuận hoặc
không chấp thuận của pháp luật và chỉ có ứng cử đại biểu được bầu chọn cho văn
phòng của lãnh sự.Hiến pháp của La Mã luôn luôn là một khái niệm cơ bản của
kiểm tra và cân bằng.
Nội dung của “Tam quyền phân lập”:
Nội dung cốt lõi của học thuyết này cho rằng, quyền lực nhà nước luôn có
b.

xu hướng tự mở rộng, tự tăng cường vai trò của mình. Bất cứ ở đâu có quyền lực là
xuất hiện xu thế lạm quyền và chuyên quyền, cho dù quyền lực ấy thuộc về ai. Do
vậy, để đảm bảo các quyền tự do cơ bản của công dân, ngăn ngừa các hành vi lạm
quyền của các chủ thể nắm giữ quyền lực nhà nước thì phải thiết lập pháp chế
nhằm giới hạn quyền lực nhà nước. Cách tốt nhất để chống lạm quyền là giới hạn



quyền lực bằng các công cụ pháp lý và cách thực hiện không phải là tập trung
quyền lực, mà là phân chia nó ra.
Muốn hạn chế quyền lực nhà nước thì trước hết phải phân quyền, và sau đó
phải làm cho các nhánh quyền lực đã được phân chỉ được phép hoạt động trong
phạm vi quy định của pháp luật. Sau này, trong một bức thư gửi cho một người
cùng thời, ông Samuel Kercheval, Thomas Jefferson – tổng thống thứ 3 của Hoa
Kỳ, đã chỉ rõ thêm của sự phân quyền không đơn thuần chỉ diễn ra ở một chiều
ngang, mà còn cần thiết ở cả chiều dọc, và ở bất cứ lĩnh vực nào của nhà nước.
“Sự phân quyền” mà Jefferson đã mô tả như sau:


Phân bổ quyền lực chính quyền giữa các nhánh riêng rẽ của chính quyền.



Sự phân chia các quyền lực đó theo một cách thức sao cho chức năng của
một nhánh chính quyền trong một vấn đề cụ thể thì bị giới hạn bởi chức năng
của một nhánh khác có thẩm quyền về cùng vấn đề ấy hoặc về một vấn đề khác
có liên quan. Thường được gọi là: “các biện pháp kiểm soát và đối trọng quyền
lực lẫn nhau” – “checks and balance.” Về cốt lõi, đây là một hệ thống nằm ngay
bên trong chính quyền nhằm đảm bảo tính trách nhiệm của chính quyền, được
gọi là kiểm tra, giám sát bên trong. Vì sự kiểm tra này tạo ra một cơ chế mặc
nhiên ai nắm và được phân công sử dụng quyền lực nhà nước cũng phải bị kiểm
tra, theo nguyên tắc phòng ngừa, còn cơ chế kiểm tra được tiến hành từ bên
ngoài hầu như chỉ được tiến hành một khi đã có hậu quả xảy ra.




Khía cạnh thứ ba của sự phân bổ này là sự phân chia quyền lực của chính
quyền theo ngành, dọc theo cách thức sao cho mỗi một nhiệm vụ của chính
quyền được giao cho đơn vị nào nhỏ nhất, cơ sở nhất trong chính quyền mà có
thể đảm trách được nhiệm vụ đó.
Ta có thể thấy lô-gic tương tác nhau giữa các cơ quan thực thi quyền lập

pháp, hành pháp và tư pháp của Đạo. Giữa các cơ quan đều có mũi tên hai chiều


thể hiện tác động tương ứng lên nhau. Không cơ quan nào bị rơi vào thế bị động
hay bị lấn quyền bởi các cơ quan khác:
Quan hệ giữa ba nhánh quyền lực:
Cơ quan lập pháp
Cơ quan tư pháp
Cơ quan hành pháp
Bỏ phiếu bất tín nhiệm

Xét tính hợp hiến
các đạo luật

Giải tán

Buộc tội, bãi
miễn thẩm phán

Bổ nhiệm thẩm phán
Xem xét tính hợp pháp các quyết định
Quan hệ lập pháp với hành pháp:

Trong một thể chế được thiết lập theo


học thuyết Tam quyền, bao giờ giữa cơ quan lập pháp và hành pháp cũng có mối
liên hệ hai chiều qua lại. Cơ quan lập pháp có ưu thế với cơ quan hành pháp ở chỗ
nó có quyền thành lập hoặc giải tán bộ máy hành pháp (thường được gọi với cái
tên Nội các), quyền quy định hoạt động cho cơ quan này thông qua việc thiết lập
các đạo luật. Tuy nhiên, trong chiều trở lại của mối tương quan này, cơ quan hành
pháp lại có khả năng giải tán hạ viện của cơ quan lập pháp (bởi hạ viện và thành


phần của nó xét đến cùng cũng được rút ra từ bộ máy hành chính các cấp của hệ
thống hành pháp), bên cạnh đó, nó quy định tiến độ và hiệu quả của việc triển khai
những luật pháp mà cơ quan lập pháp đã tạo ra.
Quan hệ lập pháp và tư pháp: Như đã trình bày sơ lược, cơ quan lập pháp
của bộ máy nhà nước theo cơ chế Tam quyền được vận hành thông qua hoạt động
của nghị viện (thường gồm hạ viện và thượng viện) đại diện cho ý chí của tất cả
công dân. Nó có là xuất phát điểm cho sự vận hành của cả thể chế. Cơ quan tư
pháp xét đến cùng có một mục đích lớn, đó là bảo vệ pháp luật – tức là bảo vệ sản
phẩm mà cơ quan lập pháp với quyền hạn của mình đã tạo ra.
Quan hệ hành pháp và tư pháp: Cơ quan hành pháp tuy có quyền thành
lập, bãi miễn hay giải tán một các nhân, tổ chức tuy nhiên suy cho cùng thì vẫn
chịu sự giám sát và các quyết định của tư pháp.

2. “Tam quyền phân lập” trong thực tế mô hình quyền lực ở Pháp:
Ở Pháp, lập pháp thuộc về nghị viện, hành pháp thuộc về tổng thống và
-

chính phủ, còn quyền tư pháp thuộc về hệ thống tòa án.
Nghị viện có 2 chức năng cơ bản là lập pháp và giám sát hoạt động của chính phủ.
Quan hệ giữa lập pháp và hành pháp mật thiết hơn so với chính thể cộng hòa tổng


-

thống.
Cùng với tổng thống và chính phủ, hội đồng bảo hiến trở thành thế lực thứ 3 hạn
chế quyền lực của nghị viện. Hội đồng bảo hiến có chức năng đảm bảo tính hợp
pháp của việc bầu cử nghị sĩ 2 viện khi có sự khiếu nại, vai trò kiềm chế lập pháp
của Hội đồng bảo hiến phần nào giống với vai trò của tòa án tối cao ở Mỹ và tòa án
Hiến pháp ở Đức. Quyền hành pháp do chính phủ mà thực chất là tổng thống nắm.
Tổng thống có quyền hoạch định chính sách quốc gia, chủ tọa đồng bộ trưởng để
thông qua chính sách này, có quyền ân xá, bổ nhiệm thủ tướng, các đại sứ, các
chức vụ dân sự.


-

Quyền tư pháp do hệ thống tòa án nắm, ở pháp có 2 hệ thống tòa án, tòa án thường
và tòa án hành chính, cùng với đó còn có các tòa án đặc biệt như tòa án thương
mại, lao động, bảo hiểm xã hội, kiểm soát hoạt động cơ quan tư pháp là hội đồng
thẩm phán tối cao do tổng thống là chủ tọa. Bộ trưởng bộ tư pháp là phó chủ tịch.


Sơ đồ tổ chức quyền lực ở Pháp (tài liệu từ nước ngoài):

Ghi chú:
-

Corps électroral, Grands électeurs là tòan thể nhân dân, nắm toàn bộ quyền

hành. Nhân dân bầu trực tiếp Tổng thổng, Hạ nghị viện (Assemblée Nationale), và
các chính quyền địa phương. Thượng nghị viện thì do các đại cử tri bầu ra, và các



đại cử tri này là do các nhà chức trách địa phương (Collectivités Territoriales) cử
ra. Ngoài chuyện bầu cử, nhân dân có quyền thay đổi trực tiếp hiến pháp và các
văn bản pháp luật khác (qua trưng cầu dân ý referendum), và “túm lấy” tòa bảo
hiến (Conseil Constitutionel) và Tòa hành chính để đòi hỏi các tòa đó giải quyết
các vấn đề về luật pháp và chính quyền.
-

Parlement là quốc hội (bộ phận lập pháp), theo cơ chế 2 viện: Assemblée

Nationale (Hạ nghị viện, bầu cử trực tiếp) và Sénat (Thương nghị viện, đại diện
của các vùng lãnh thổ, do các đại cử tri bầu ra). Quốc hội thông qua, sửa đổi hiến
pháp (Constitution) và các điều luật (LOIS), và có quyền kiểm soát và lật chính
phủ (gouvernement). Quốc hội còn bổ nhiệm 2/3 số người của tòa bảo hiến
(Conseil Institutionel).
-

Pouvoir executive, Président, Gouvemement là bộ phận hành pháp, gồm

tổng thống (bầu cử trực tiếp toàn dân), và chính phủ (thủ tướng và các bộ trưởng).
Tổng thống chỉ định thủ tướng và thủ tướng đưa ra danh sách chính phủ. (Thủ
tướng này phải được quốc hội chấp thuận, nên trong trường hợp mà phe của tổng
thống không chiếm đa số trong quốc hội, thì tổng thống phải chấp nhận thủ tướng
khác phe, gọi là giai đoạn “chung sống” giữa các phe trong chính phủ). Chính phủ
điều hành bộ máy hành chính (Administration), và ban hành các nghi định
(règlements). Tổng thống còn chỉ định những người đứng đầu các tòa án tối cao:
tòa hành chính (Conseil d’Etat) và tòa dân sự (Autorités Judicières), và bổ nhiệm
1/3 số người của tòa bảo hiến (Conseil Institutionel). Trong trường hợp khủng
hoảng chính trị, tổng thống có thể giải tán quốc hội, yêu cầu nhân dân bầu lại quốc

hội khác.
-

Conseil là bộ phân tư pháp, có: tòa bảo hiến, tòa dân dư, và tòa hành chính.

Toà bảo hiến kiểm soát việc bầu cử, kiểm soát sự hợp hiến của các đạo luật. Tòa


hành chính kiểm soát sự hợp pháp của các nghị định và các hành động của chính
quyền.
-

Hiến pháp (Constitution) là luật trên hết. Rồi đến các bộ luật (Lois) áp dụng

cho tất cả mọi người, rồi đến các nghị định (règlements) do chính quyền ban hành
và các luật lệ địa phương — các nghị định, luật lệ này có thể thay đổi khá thường
xuyên.
Một điều thú vị là Hạ nghị viện có nhiệm kỳ 5 năm, và cứ sau 5 năm thì bầu lại
100%. Trong khi đó Sénat có thời hạn 6 năm, và cứ 3 năm bầu lại 50%.
Thêm một sơ đồ khác, đơn giản hóa (không nhắc nhiều đến tư pháp, nhưng có
thêm một vài chi tiết so với sơ đồ phía trên):

3. Một số chính đảng “cánh tả” và “cánh hữu” trong hệ thống
tổ chức quyền lực của Pháp
a.

Đảng Xã hội Pháp (Đảng trung tả):


Đảng Xã hội (tiếng Pháp: Parti socialiste, thường viết tắt là PS) là một đảng

chính trị cánh tả hoạt động tại Pháp. Tổng thư ký hiện thời của đảng là Martine
Aubry, thị trưởng thành phố Lille.
Đảng Xã hội Pháp có nguồn gốc từ phong trào tư tưởng Xã hội chủ nghĩa mà
đại diện là Chi bộ Pháp của Quốc tế Công nhân (Section française de
l'Internationale ouvrière) thành lập năm 1905. Từ đại hội Alfortville tổ chức
năm 1969, đảng với tên Đảng Xã hội chính thức được thành lập. Lãnh tụ nổi bật
của Đảng Xã hội Pháp là François Mitterrand, tổng thống Pháp giai đoạn 19811995. Tính cho đến năm 2007, đây là đảng chính trị đứng thứ hai nước Pháp về số
đảng viên và nghị viên trong Quốc hội Pháp. Đồng minh chính trị truyền thống của
đảng là Đảng Cộng sản Pháp, Đảng cánh tả cấp tiến và Đảng Xanh.
b. Đảng Liên minh vì phong trào nhân dân (Đảng trung hữu):
Đảng liên minh vì phong trào nhân dân (tiếng Pháp: Union pour un
Mouvement Populaire, thường viết tắt là UMP) là một chính đảng trung hữu ở
Pháp. Đây là một trong hai chính đảng lớn ở Pháp cùng với đảng trung tả là Đảng
xã hội (PS).
UMP được thành lập vào năm 2002 thông qua sự hợp nhất của một số đảng
trung hữu dưới thời tổng thống Jacques Chirac. Cựu lãnh đạo đảng UMP, Nicolas
Sarkozy, đã được bầu làm tổng thống Pháp trong cuộc bầu cử tổng thống năm
2007, nhưng đã bị đánh bại bởi ứng cử viên Đảng xã hội François Hollandetrong
cuộc bầu cử năm năm sau đó. Đảng này đã nắm giữ đa số tuyệt đối trong Quốc hội
Pháp từ 2002 đến năm 2012. Jean-Francois Cope tổng bí thư đảng. UMP là một
thành viên của Đảng nhân dân châu Âu (EPP), Đảng dân chủ ôn hòa quốc
tế (CDI) và Liên minh quốc tế của các đảng dân chủ (IDU).
c. Đảng Cộng sản Pháp (cùng cánh tả với PS):
Đảng Cộng sản Pháp (tiếng Pháp: Parti communiste français hay PCF) là
một chính đảng ở Pháp ủng hộ các nguyên tắc của Chủ nghĩa cộng sản.


Mặc dù ủng hộ bầu cử của dân Pháp đối với đảng này đã giảm trong những
thập kỷ gần đây, đảng này vẫn giữ lại một số lượng đảng viên đông đảo (chỉ sau đó
của Liên minh Phong trào Nhân dân (UMP) và ảnh hưởng đáng kể trong nền chính

trị Pháp: hai tổng thống của "conseil général", 186 ghế trong nghị viện khu vực ,
khoảng 800 thị trưởng. Đây là một trong các đảng có ảnh hưởng nhất phía sau
Đảng Xã hội và Liên minh cho một phong trào phổ biến. Nó vẫn là đảng lớn nhất
tại Pháp ủng hộ quan điểm cộng sản.
Được thành lập vào năm 1920, đảng này đã tham gia vào ba chính phủ:
trong chính phủ lâm thời giải phóng (1944-1947), vào đầu nhiệm kỳ tổng
thống François Mitterrand (1981-1984) và trong nội các số nhiều còn lại của lãnh
đạo bởi Lionel Jospin (1997-2002).
Đảng này cũng là chính đảng lớn nhất của Pháp bên cánh tả trong một số
cuộc bầu cử quốc gia, từ năm 1945 đến những năm1970, trước khi tụt lại phía sau
so với Đảng Xã hội (PS) vào những năm 1980. Nó đã bị mất thêm vị trí về tay
Đảng Xã hội từ thời gian đó.




×